Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

ĐỀ TÀI KINH TẾ CÔNG CÁI GIÁ CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở NHỮNG TỈNH NGHÈO potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.94 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
ĐỀ TÀI KINH TẾ CÔNG
CÁI GIÁ CỦA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
Ở NHỮNG TỈNH NGHÈO
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thu Trang
Sinh viên thực hiện: Tạ Vũ Ngọc Hân K094010035
Nguyễn Thị Thu Hiền K094010036
Hoàng Thị Nhã Phương K094010086
Nguyễn Thị Hồng Thọ K094010096
Ngô Thị Kiều Trinh K094010114
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Kết cấu đề tài
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG - PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG, PHÂN PHỐI THU NHẬP VÀ KHÁI NIỆM NGHÈO Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm nghèo ở Việt Nam
1.1.1 Nghèo tương đối 4
1.1.2 Nghèo tuyệt đối 4
1.2 Khái niệm công bằng
1.2.1 Công bằng ngang 5
1.2.2 Công bằng dọc 5
1.3 Các thước đo về mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
1.3.1 Đường cong Lorenz 5
1.3.2.Hệ số Gini 7
1.4 Lý thuyết về tăng trưởng triển bền vững
1.4.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế 8
1.4.2 Khái niệm về phát triển bền vững 8
1.5 Lý thuyết về phân phối thu nhập
1.5.1 Một số khái niệm 8


1.5.2 Thuyết vị lợi 10
1.5.2.1 Nội dung và hàm phúc lợi xã hội 10
1.5.2.2 Mô tả 11
1.5.2.3 Phân phối thu nhập theo thuyết vị lợi 11
1.5.2.4 Đánh giá 12
1.5.2.5 Kết luận 12
1.5.3 Quan điểm bình quân đồng đều 13
1.5.4 Thuyết cực đại thấp nhất ( Thuyết Rawls ) 13
1.5.4.1 Nội dung và hàm phúc lợi xã hội 13
1.5.4.2 Mô tả 14
1.5.4.3 Phân tích 14
1.5.4.4 Đánh giá 14
1.5.4.5 Kết luận 15
1.5.5 Các quan điểm không dựa trên độ thỏa dụng cá nhân 15
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC TĂNG TRƯỞNG, TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG
XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH NGHÈO
2.1 Thực trạng tăng trưởng của các tỉnh nghèo Việt Nam
2.1.1 Thành tựu tăng trưởng của các tỉnh nghèo
giai đoạn 2000-2010 16
2.1.2 Mặt trái của sự tăng trưởng 18
2.2 Quan hệ tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Thực trạng về mối quan hệ, tác động 19
2.2.2 Những thành tựu đạt được 21
2.2.3 Hạn chế 23
Chương 3: VAI TRÒ VÀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1 Vai trò của nhà nước trong thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội 26
3.2 Các chính sách, giải pháp nhà nước áp dụng 27
2
Chương 4 : KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN

4.1 Quan điểm và định hướng giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội 32
4.1. 1 Một số quan điểm về tăng trưởng và công bằng xã hội 32
4.1.2 Kiến nghị giải pháp 33
4.2 Kết luận 38
Nguồn tài liệu tham khảo
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nhắc đến tăng trưởng người ta thường nghĩ tới những thành tựu, kết quả khả
quan. Tuy nhiên không thể phủ nhận sự tồn tại của một bức tranh màu tối. Đó là mặt trái
của sự tăng trưởng đang được quan tâm hiện nay. Vào những năm cuối của thế kỷ XX,
đặc biệt dưới tác động của công cuộc đổi mới, hơn một thập niên trở lại đây, nền kinh tế
nước ta đã có những bước phát triển đáng mừng với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân
hàng năm tương đối cao (6-7%, đứng thứ hai sau Trung Quốc), đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhưng do xuất phát điểm quá thấp, vốn là một
nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, cộng với điều kiện tự nhiên ít thuận lợi, thiên tai
thường xuyên xảy ra, nên mặc dù tốc độ tăng trưởng khá cao nhưng không bền vững, có
thể dẫn đến nhiều hệ quả khác như vấn đề môi trường, chênh lệch giàu nghèo, bản sắc văn
hóa…
Tính đến năm 2009, nước ta có khoảng 20 tỉnh nghèo trên tổng số 63 tỉnh thành,
chiếm gấn 1/3. Tuy nhiên theo thống kê, các tỉnh này có tốc độ tăng trưởng khá nhanh,
GDP bình quân và chỉ số cạnh tranh liên tục được cải thiện. Nhưng liệu tốc độ tăng
trưởng đó có là đáng mừng khi mà nó không dựa trên nền tảng bền vững. Trong tương lai,
có thể những tỉnh này sẽ phải trả một cái giá khá cao cho sự tăng trưởng ấy.
Tăng trưởng nóng và không bền vững có thể dẫn tới nhiều hệ lụy như vấn đề ô
nhiễm môi trường, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, tài nguyên thiên nhiên cạn
kiệt, chảy máu chất xám… Tuy nhiên, trong đề tài này, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung
vào giải quyết vấn đề Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ công
bằng xã hội ở các tỉnh nghèo.
3
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG - PHÁT TRIỂN BỀN

VỮNG, PHÂN PHỐI THU NHẬP VÀ KHÁI NIỆM NGHÈO Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm nghèo ở Việt Nam
1.1.1 Nghèo tuyệt đối
Theo Robert McNamara, cựu giám đốc Ngân Hàng Thế Giới, nghèo tuyệt đối là
"Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người
nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và
trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của
cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của
địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho
nạn nghèo tuyệt đối (Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997).
Ở Việt Nam, chuẩn nghèo được thay đổi nhiều lần từ 1993 đến nay.
Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015
+ Khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 350.000
đồng/người/tháng (4.200.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo.
+Khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 450.000
đồng/người/tháng (dưới 5.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
1.1.2 Nghèo tương đối
Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực
vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với
sự sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào
cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi
những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan.
Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật
chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia
vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là
một thách thức xã hội nghiêm trọng.
1.2 Khái niệm công bằng
4

Khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc. Khái niệm công bằng không
đồng nhất. Và khoa học kinh tế không thể khái niệm nào là đúng nhất và duy nhất.
Có 2 cách hiểu khác nhau về công bằng xã hội.
1.2.1 Công bằng ngang
Công bằng ngang (Horizontal equality): là đối xử như nhau đối với những người
có tình trạng kinh tế như nhau.
Tình trạng kinh tế như nhau được xét theo một số tiêu chí nào đó như thu nhập,
hoàn cảnh gia đình, tôn giáo, dân tộc…
1.2.2 Công bằng dọc
Công bằng dọc (Vertical equality) là đối xử khác nhau với những người có khác
biệt bẩm sinh hoặc tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục những khác biệt
sẵn có .
Việc chính phủ có những chính sách ưu tiên cho các đối tượng là nạn nhân chiến
tranh, bệnh tật bẩm sinh, người yếu thế nên gặp khó khăn trong việc hòa nhập cộng
đồng…là những biểu hiện của cân bằng dọc.
1.3 Các thước đo về mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
1.3.1 Đường cong Lorenz
Khái niệm
Đường cong Lorenz là cách thể hiện bằng hình học mức độ bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập thông qua việc phản ánh mối quan hệ giữa phần trăm cộng dồn của
các nhóm dân số với phần trăm thu nhập cộng dồn tương ứng của nhóm đó

5
Cách xây dựng
 Bước 1: sắp xếp thu nhập dân cư theo thứ tự tăng dần
 Bước 2: chia tổng dân cư thành 5 nhóm có số dân bằng nhau
 Bước 3: cạnh đáy hình vuông Lorenz thể hiện % dân số cộng dồn, cạnh bên thể hiện %
thu nhập cộng dồn
 Bước 4: biểu diễn các giá trị % thu nhập cộng dồn tương ứng với % dân số cộng dồn bằng
các điểm trên đồ thị


Cách thức đánh giá
Tất cả các đường Lorenz đều bắt đầu từ gốc 0 của hình vuông và kết thúc ở điểm A
đối diện của hình. Điều đó cho biết 0% dân số được nhận tương ứng với 0% thu nhập và
100 % dân số sẽ có 100% thu nhập.
Trong trường hợp thu nhập được phân phối tuyệt đối bình đẳng thì bao nhiêu phần
trăm dân số sẽ có tương ứng với bấy nhiêu phần trăm thu nhập. Khi đó đường Lorenz sẽ
trùng với đường OA của hình vuông và đường này được gọi là đường bình đẳng tuyệt đối
Ngược lại nếu nhận toàn bộ thu nhập và những người khác thì không có chút thu
nhập nào đường Lorenz sẽ chạy từ cạnh đáy và cạnh bên phải của hình vuông, đó là
dường bất bình đẳng tuyệt đối.
Nhìn chung đường Lorenz thường năm ở giữa đường chéo và đường bất bình đẳng
tuyệt đối. Càng gần đường chéo thì độ công bằng càng cao, càng xa thì càng bất bình
đẳng càng cao.
1.3.2 Hệ số Gini
Khái niệm
6
Được công bố lần đầu năm 1912, là thước đo được sử dụng phổ biến nhất. Về mặt
hình học, hệ số Gini được xác định bằng cách lấy diện tích hình B được xác định bởi
đường Lorenz và đường chéo 0A, chia cho diện tích nửa hình vuông có chứa đường
Lorenz đó (B + C)
g = B/(B+C) (0 <= g <= 1)

Cách thức tính
[ ]
n
nyyyy
yny
g ++++−+= 32
21

1
321
2
Hệ số Gini g
Về mặt số học:
Trong đó:
- y
1
, y
2
,…y
n
: thu nhập của từng người theo thứ tự giảm dần
- y: thu nhập bình quân
- n: số người
1.4 Lý thuyết về tăng trưởng triển bền vững
1.4.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời
gian nhất định( thường là một năm). Sự gia tăng có thể là quy mô và tốc độ. Quy mô tăng
trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý
nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các tời kỳ.
Bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày
nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay biệc đảm bảo chất
lượng tăng trưởng ngày càng cao.
1.4.2 Khái niệm về phát triển bền vững
7
Vấn đề về phát triển bền vững được Ngân Hàng Thế giới đề cập lần đầu tiên vào
năm 1987, theo đó phát triển bền vững là “ sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tạ mà
không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai ”
Hội nghị Thượng Đỉnh thế giới về phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug

( Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 xác định: phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặc chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm : tăng trưởng kinh tế,
cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
1.5 Lý thuyết về phân phối thu nhập
1.5.1 Một số khái niệm cơ bản
Nửa cuối thế kỷ XX, nghiên cứu về phân phối được tập trung chủ yếu vào vấn đề
phân phối lại, đặc biệt là vấn đề tăng trưởng và công bằng trong phân phối, và xem đây là
đặc trưng của sự phát triển hiện đại, vấn đề về vai trò của Nhà nước đối với phân phối
nguồn lực nhằm tăng trưởng, ổn định, hiệu quả và công bằng. Vì vậy, các chính sách phân
phối lại thu nhập đều nhằm mục đích tối đa hóa phúc lợi xã hội.
• Hàm phúc lợi xã hội là một dạng hàm toán học biểu thị mối quan hệ giữa mức phúc
lợi xã hội và độ thỏa dụng của từng cá nhân trong xã hội.
• Điểm tối ưu hóa phúc lợi xã hội là tiếp điểm giữa đường bàng quan xã hội và đường
khả năng thỏa dụng của xã hội.
• Đường bàng quan xã hội là quỹ tích của tất cả các điểm kết hợp giữa độ thỏa dụng của
mọi thành viên trong xã hội mà những điểm đó mang lại mức phúc lợi xã hội bằng
nhau.
• Đường khả năng thỏa dụng là đường biểu thị mức thỏa dụng tối đa mà một cá nhân
hay nhóm người có thể đạt được trong xã hội khi cho trước mức thỏa dụng của những
cá nhân hay nhóm người khác.
8


Điểm tối đa hóa phúc lợi xã hội là điểm E và tại đây đường khả năng thỏa dụng
của xã hội tiếp xúc với đường bàng quan cao nhất có thể đạt tới và đây cũng là một điểm
đạt hiệu quả Pareto.
Tuy nhiên trong thực tế, chính phủ không đi tìm những đường khả năng thỏa dụng,
và cũng không mô tả các hàm phúc lợi của xã hội.Nhưng họ cố gắng xác định ảnh hưởng
của những chương trình được đưa ra đối với các nhóm dân cư khác nhau, và những ảnh
hưởng như vậy thường được quy lại là những ảnh hưởng đối với hiệu quả và công bằng.

Như vậy, chúng ta có thể dựa vào các công cụ trên để phân tích một số lý thuyết về
phân phối lại thu nhập và tối đa hóa phúc lợi xã hội.
9
1.5.2 Thuyết vị lợi
1.5.2.1 Nội dung và hàm phúc lợi xã hội
Phúc lợi xã hội suy cho cùng chỉ phụ thuộc vào độ thỏa dụng cá nhân.PLXH là
tổng đại số độ thỏa dụng của tất cả các thành viên trong xã hội và mục tiêu của xã hội là
phải tối đa hóa tổng số đó.
Hàm phúc lợi xã hội :
W = U
1
+ U
2
+ … + U
n
=
i
1.5.2.2 Mô tả

Độ thỏa dụng của nhóm A (U
A
)
Thuyết vị lợi coi lợi ích của người giàu và người nghèo có trọng số như nhau nên
đường bàng quan xã hội của thuyết vị lợi là một đường thẳng có độ dốc bằng (-1) như
hình vẽ.
1.5.2.3 Phân phối thu nhập theo thuyết vị lợi
Giả định :
- Các cá nhân có hàm thỏa dụng biên đồng nhất và chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập của
họ.
- Các hàm thỏa dụng biên này tuân theo quy luật mức thỏa dụng biên theo thu nhập

giảm dần.
- Tổng mức thu nhập sẵn có là cố định và không thay đổi khi tiến hành phân phối lại.
Phân tích :
e
10
Đ


t
h

a

d

n
Độ
thỏa
dụng
biên
của A
MU
A
Độ
thỏa
dụng
biên
của
B
MU

B
f
n

O m b a O

Thu nhập của A Thu nhập của B
1.5.2.4 Đánh giá
Ưu điểm :
- Đưa ra một nguyên tắc về phân phối lại là phân phối cho đến khi độ thỏa dụng biên
của tất cả các cá nhân trong xã hội bằng nhau.
- Nếu các giả định của thuyết vị lợi được thõa mãn thì phân phối lại thu nhập cuối cùng
sẽ đảm bảo sự bình đẳng tuyệt đối giữa các thành viên.
Nhược điểm :
- Ba giả định được đánh giá là quá chặt chẽ, không có tính khả thi trên thực tế.
- Nếu các cá nhân được phép có các hàm thỏa dụng biên khác nhau thì không có gì đảm
bảo điểm phân phối thu nhập tối ưu lại chính là điểm giữa đoạn OO’.
- Mặc dù quy luật thỏa dụng biên giảm dần đúng với đa số các hàng hóa nhưng chưa
chắc đã đúng với thu nhập.
- Nếu hàm thỏa dụng biên không bằng nhau thì phân phối lại tại điểm m chưa chắc đã
xóa bỏ được sự phân cách giàu nghèo.
- Khi tiến hành phân phối lại có thể bị thất thoát nguồn lực.
1.5.2.5 Kết luận
Phân phối thu nhập tối ưu theo thuyết vị lợi sẽ là phân phối thu nhập có :
MU
A
= MU
B
.
Khi đó, phân phối thu nhập tuyệt đối bình đẳng.

1.5.3 Quan điểm bình quân đồng đều
Nội dung
Với một lượng thu nhập quốc dân cố định, quan điểm bình quân đồng đều cho rằng
phải phân phối lượng thu nhập đó sao cho tổng độ thỏa dụng của mọi người là như nhau.
Hàm phúc lợi xã hội:
W = U
1
= U
2
= … = U
n
- Nếu hàm thỏa dụng biên của mọi cá nhân là như nhau thì quan điểm này cũng giống
với thuyết vị lợi là đều dẫn đến kết quả phân phối thu nhập hoàn toàn bằng nhau cho
tất cả mọi người.
11
- Nếu hàm thỏa dụng biên của mọi cá nhân là khác nhau thì hình thái chênh lệch thu
nhập giữa hai quan điểm này sẽ khác nhau.
Hạn chế :
- Quan điểm bình quân đồng đều chỉ chấp nhận sự khác biệt về mức thỏa dụng do
những nhân tố khách quan tạo ra như qui mô gia đình, tình trạng sức khỏe… chứ
không chấp nhận những khác biệt do sở hữu tài sản hay các nhân tố chủ quan khác.
- Quan điểm này tuy có thể giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa hai người nhưng đồng
thời cũng làm giảm thu nhập của cả hai.
- Bên cạnh đó, quan điểm cũng có thể dẫn đến một thái cực phải hi sinh tính hiệu quả
rất nhiều và rất khó chấp nhận trừ khi xã hội sẵn sàng dánh đổi tính hiệu quả lấy sự
công bằng với cái giá rất cao.
1.5.4 Thuyết cực đại thấp nhất ( Thuyết Rawls )
1.5.4.1 Nội dung và hàm phúc lợi xã hội
Nội dung
PLXH chỉ phụ thuộc vào lợi ích của người nghèo nhất.Vì vậy, muốn PLXH đạt tối

đa thì phải cực đại hóa độ thỏa dụng của người nghèo nhất.
Hàm PLXH :
Thuyết Rawls đặt trọng số bằng 1 đối với người có mức thỏa dụng thấp nhất, còn những
người khác có trọng số bằng 0.
W = minimum{U
1
, U
2
, … , U
n
}
1.5.4.2 Mô tả
12
Đường bàng quan xã hội theo thuyết Rawls có dạng chữ L, có độ dốc bằng 0 hoặc
bằng 1 và đỉnh của chữ L nằm trên đường phân giác góc O. Theo đó, đường bàng quan xã
hội cao nhất tiếp xúc với đường khả năng thỏa dụng tại đỉnh chữ L cũng là điểm tối ưu
hóa PLXH (điểm E trong hình vẽ).
1.5.4.3 Phân tích
Bắt đầu từ việc phân phối lại bằng cách tăng độ thỏa dụng cho người nghèo nhất
đến khi địa vị của họ được cải thiện sẽ chuyển sang đối tượng khác mà lúc này có mức
địa vị thấp nhất trong xã hội. Vì vậy, phân phối lại thu nhập chỉ dừng lại khi độ thỏa dụng
của mọi cá nhân bằng nhau hoặc độ thỏa dụng của người nghèo nhất đạt tối đa.
Điều đó có nghĩa là, điều kiện tối đa hóa PLXH theo thuyết cực đại thấp nhất là :
W = U
1
= U
2
= … = U
n
Nếu như tổng thu nhập quốc dân không đổi thì thuyết Rawls sẽ giống như quan

điểm bình quân đồng đều, tức là phân phối thu nhập tuyệt đối bình đẳng nhưng khác ở
chỗ phải bắt đầu từ việc nâng cao phúc lợi cho người thấp nhất.
1.5.4.4 Đánh giá
Ưu điểm :
- Khắc phục được một phần nhược điểm của thuyết vị lợi do đặt trọng số 100% vào
phúc lợi của người nghèo.
- Nếu giả thiết của thuyết này được thỏa mãn thì phân phối PLXH cuối cùng sẽ đảm bảo
sự bình đẳng tuyệt đối.
13
Hạn chế :
- Thuyết này dễ dẫn đến chủ nghĩa bình quân làm giảm động lực phấn đấu ở nhóm
người nghèo và giảm động cơ làm việc ở nhóm người có năng lực, do đó làm giảm
năng suất lao động xã hội.
- Thuyết này vẫn chấp nhận cách phân phối làm cho lợi ích của người giàu tăng nhiều
hơn lợi ích của người nghèo.
1.5.4.5 Kết luận
Kết quả cuối cùng phân phối tối ưu xã hội sẽ đạt được khi : U
A
= U
B.
1.5.5 Các quan điểm không dựa trên độ thỏa dụng cá nhân
Cần quan tâm đến một mức sống tối thiểu mà tất cả mọi cá nhân trong xã hội có
quyền được hưởng, được xác định trực tiếp bằng thu nhập mà bằng những hàng hoá tiêu
dùng được coi là thiết yếu như thực phẩm, quần áo, học hành, chữa bệnh, nhà ở Chi phí
cho những khoản tiêu dùng tối thiểu này sẽ được tập hợp lại để tính ra mức thu nhập tối
thiểu mà những ai có thu nhập dưới mức tối thiểu sẽ được chính phủ giúp đỡ qua các
chương trình trợ cấp và an sinh xã hội.
Các lý thuyết phân phối thu nhập có sự đa dạng, thậm chí mâu thuẫn trong nhận
thức, lý giải về các vấn đề phân phối thu nhập. Điều này cho thấy phân phối thu nhập là
một vấn đề phức tạp, liên đới cả kinh tế - chính trị và xã hội, mặt khác, nó còn phản ánh

sự khó khăn trong việc vận dụng lý thuyết phân phối thu nhập để có được các chính sách
phân phối thu nhập hợp lý.
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VIỆC TĂNG TRƯỞNG, TIẾN BỘ VÀ
CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở CÁC TỈNH NGHÈO
2.1 Thực trạng tăng trưởng của các tỉnh nghèo Việt Nam
2.1.1 Thành tựu tăng trưởng của các tỉnh nghèo giai đoạn 2000-2010
Tính từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta từ năm 1991 đến nay, có thể thấy các nghị quyết của Đảng đều quán xuyến quan
điểm: Gắn các vấn đề kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong các kế hoạch 5 năm
phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ, đặc biệt trong Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001 - 2010 và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo (được
14
Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5-2002), đều thể hiện rất rõ quan điểm gắn mục tiêu
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong bài toán phát triển. Do
đó, Việt Nam luôn chú trọng định hướng phát triển kinh tế hướng vào con người, nhất là
những người nghèo. Để thực thi chiến lược phát triển toàn diện, bên cạnh việc đạt được
chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên quan
trực tiếp đến tăng trưởng phải được sử dụng một cách có hiệu quả.
Việc định hướng và triển khai thực thi những chiến lược một cách cụ thể mà chúng
ta đã đạt được một số thành tựu nổi bật :

Về kinh tế, kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính GDP tăng
bình quân 7,2%/năm; GDP bình quân đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng 1.000
USD. Hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng góp của yếu tố vốn
vào tăng trưởng GDP đã giảm từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn
khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP
đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 -
2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế
hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai đoạn 2006 - 2010). Các số liệu trên cho thấy,
hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế

đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm "thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị
trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao đáng kể.
Bên cạnh đó, tiến bộ và công bằng xã hội càng thể hiện rõ nét hơn những thành
quả của tăng trưởng kinh tế.Nhờ đường lối sáng suốt của Đảng ta trong việc kết hợp hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong hơn 20 năm thực hiện
đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về tiến bộ xã hội, chúng ta đã rất
thành công trong các chương trình xóa đói, giảm nghèo; nhất là các Chương trình 135,
132 của Chính phủ đã giải quyết được tình trạng nghèo tuyệt đối ở các địa bàn nông thôn.
Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rất ấn tượng trong 15 năm qua: từ 58,1% (năm 1993)
xuống còn khoảng 11% (năm 2009).
Bên cạnh đó, chỉ số HDI đạt 0,733, xếp hạng 105/177 quốc gia, thuộc nhóm trung
bình cao (nhóm trung bình từ 0,503 đến 0,798). Bảo hiểm y tế được mở rộng đến 52%
15
dân số, 100% số xã có trạm y tế và 78% số xã có bác sĩ phụ trách. Tuổi thọ trung bình đạt
72 tuổi.Trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 20%. Ngân sách nhà nước đã bảo
đảm được 78% chi phí cho giáo dục đào tạo toàn xã hội (đạt 20% ngân sách nhà nước)
v.v
Những thành tựu nêu trên phần nào phản ánh được sự đúng đắn trong đường lối
đổi mới của Đảng nói chung và trong Chiến lược xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 -
2010 nói riêng. Tuy vậy, trong quá trình thực thi chính sách, vẫn bộc lộ không ít những
hạn chế cùng nhiều vấn đề xã hội khác đang đặt ra.
2.1.2 Mặt trái của sự tăng trưởng
Với quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng cao liên tục của Chính phủ, cùng với chỉ
tiêu tín dụng hàng năm hơn 30% trong những năm trở gần đây lại gây tác động tiêu cực
khiến thị trường Việt Nam tràn ngập dòng vốn và gây ra nhiều vấn đề đối với đồng nội tệ,
đẩy lạm phát lên mức cao, như mức lạm phát ở các thị trường mới nổi khác, làm giảm
niềm tin vào tiền đồng do người dân nghi ngờ việc Chính phủ có thể kiểm soát giá cả tăng
trong những tháng tới.

Bên cạnh đó, Việt Nam lại thâm hụt thương mại lớn.Điều này cũng gây áp lực

giảm giá lên tiền đồng.Tiền đồng đã mất khoảng 1/5 giá trị so với USD kể từ giữa năm
16
2008.Khi tiền đồng yếu đi thì giá hàng hóa nhập khẩu tăng, điều này lại tiếp tục gây lo
ngại lạm phát cao.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được tăng trưởng kinh tế ngoạn mục nhưng nếu tiến bộ và
công bằng xã hội lại không được quan tâm, cải thiện thì sự tăng trưởng đó cũng không có
ý nghĩa.
Hệ số GINI chia theo thành thị, nông thôn và vùng :
(Nguồn : TCTK)
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, sự bất bình đẳng ở nước ta vẫn tiếp tục tăng,
điều này cũng được thể hiện thông qua hệ số GINI của khu vực thành thị với nông thôn
và giữa các vùng. Sự bất bình đẳng này là tương đối cao và có thể sẽ còn tiếp tục gia tăng
nữa nếu như không có một chính sách hay phương hướng hiệu quả nào để giải quyết tình
trạng bất bình đẳng này.
2.2 Quan hệ tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Thực trạng về mối quan hệ
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với
nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến
17
bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng
kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối
lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.Vì vậy, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội đang là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế -
xã hội của nhiều quốc gia. Đặc biệt Việt Nam là nước đang phát triển, đang chịu tác động
của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã một lần nữa khẳng định:
"… phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường" và đến Đại hội lần thứ X, vấn đề
trên được Đảng ta bổ sung và phát triển một bước quan trọng, cụ thể là: "Kết hợp các mục
tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa
vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế
- xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc". Tư tưởng chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm 2006 - 2010
là: "Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người,
thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các vùng".
Tựu trung lại, có thể khái quát quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề này trên một số
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
thực hiện công bằng xã hội phải tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế chứ không phải là
nguyên nhân kìm hãm tăng trưởng kinh tế .
18
Thứ hai, để công bằng xã hội trở thành động lực phát triển kinh tế trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến
với hưởng thụ.
Thứ ba, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trên phạm vi cả
nước, ở mọi lĩnh vực, địa phương ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Thứ tư, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội nhằm phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con
người.
Thứ năm, phát huy vai trò của nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động xã
hội.
2.2.2 Thành tựu

Thực hiện đường lối đổi mới từ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam), quá trình
đổi mới tư duy của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ba trụ cột chính của đổi mới tư duy:
Nhất là tư duy kinh tế, là: Thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần,
thực hiện bước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện chính sách mở cửa,
tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những tư duy này được phát triển qua các đại
hội Đảng tạo nên tính năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, huy động các nguồn
lực phát triển kinh tế. Hình thành cơ chế chính sách, huy động các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp và người lao động phát triển sản xuất kinh doanh, xem mọi hoạt
động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận; khẳng định chủ
trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi đôi với tích cực xóa đói, giảm
nghèo. Kết quả thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) ước tính GDP tăng bình quân
7,2%/năm (năm 2009 - 2010, ước theo kế hoạch của Chính phủ); GDP tuyệt đối tăng 2
lần; GDP/đầu người tăng 3,17 lần và đã vượt ngưỡng 1.000 USD. Hiệu quả sử dụng các
yếu tố sản xuất gia tăng đáng kể: Đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng GDP đã giảm
từ 70% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) xuống còn khoảng 52% (giai đoạn 2006 - 2010);
đóng góp của yếu tố lao động vào tăng trưởng GDP đã tăng từ 16% (giai đoạn kế hoạch
1991 - 1995) lên khoảng 20% (giai đoạn 2006 - 2010); đóng góp của yếu tố tăng trưởng
tổng hợp (TFP) đã tăng từ 14% (giai đoạn kế hoạch 1991 - 1995) lên khoảng 28% (giai
19
đoạn 2006 - 2010). Các số liệu trên cho thấy, hiệu quả quản lý nền kinh tế đất nước được
nâng cao trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục và thuộc nhóm
"thị trường mới nổi" có nhiều tiềm năng; vị trí kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao đáng kể.
Về giáo dục và khoa học, công nghệ: Chúng ta khẳng định giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển kinh tế xã hội
nhanh, bền vững. Thực hiện sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội trong các
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa. Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta đã khẳng định

chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm tạo điều kiện cho mọi người
với tư cách từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển, sử dụng tốt năng lực
của mình.
Về nhận thức: Quan trọng là đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội: từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã
chuyển sang tinh thần năng động, chủ động và tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân
cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành
chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, đã
từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng
thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn. Từ
chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính
sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để
thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc
đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết
việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần
kinh tế và người lao động tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa
giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa
đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Từ
20
chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm về việc xây dựng
một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ,
quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh
Hơn nữa, nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội nên kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm. Trong
điều kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007 - 2008, Việt Nam vẫn là nước có tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá và là một trong số ít nước có tăng trưởng kinh tế dương trong năm
2009. Việt Nam sớm khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế và có nhiều triển vọng tiếp tục

tăng trưởng kinh tế khá cao trong những năm tiếp theo. Bảng sau đây cho chúng ta thấy
điều đó:
Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm 2000 2001 2002 2003 20042005 2006 2007 2008 2009
Tốc độ tăng
trưởng GDP (%)
6,8 6,9 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 6,18 5,32
Nguồn: Niên giám thống kê
Nhìn chung, sau những năm đổi mới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một
cách khá hiệu quả. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi
tầng lớp dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính
trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn
định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực
mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
2.2.3 Hạn chế
Thách thức đặt ra về tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội cho Việt Nam
hiện nay là rất to lớn và phức tạp:
- Thứ nhất, bởi tăng trưởng kinh tế luôn ở mức dưới tiềm năng và thiếu bền vững; chủ
yếu dựa trên xuất khẩu và các yếu tố tài nguyên; chất lượng thấp, sức cạnh tranh của
nền kinh tế chậm được cải thiện. Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), sức cạnh
21
tranh của kinh tế Việt Nam liên tục bị giảm bậc, chỉ số cạnh tranh của môi trường kinh
doanh cũng ở thứ hạng thấp.
- Thứ hai, tỷ lệ nghèo đói so với chuẩn thế giới còn lớn. Những mặt trái của cơ chế thị
trường đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội phức tạp như: phân hóa giàu nghèo gia
tăng; sự cách biệt về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng
miền; sự gia tăng các tệ nạn xã hội

- Thứ ba, quá trình đô thị hóa diễn ra tự phát, thiếu quy hoạch và chính sách điều tiết
chưa hợp lý dẫn đến mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Nghiên cứu
kinh nghiệm ở nhiều quốc gia cho thấy, trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa,
vấn đề khó khăn nhất là làm thế nào để chuyển một bộ phận nông dân mất đất thành
thị dân, trở thành người lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên,
thực tế thời gian qua, chúng ta chưa có các chính sách và giải pháp thực sự hữu hiệu
để giải quyết bài toán khó khăn này. Ngược lại, ở nhiều địa phương, chính quyền chủ
yếu chỉ quan tâm vào việc giải tỏa nhanh để lấy đất, đền bù cho người dân một số tiền
theo kiểu "áp đặt giá mua", trong khi việc quan trọng hơn là giúp họ tổ chức cuộc sống
cho bản thân và gia đình sau khi mất đất thì ít được quan tâm. Nhiều người đã hiểu sai
lệch về cơ chế kinh tế thị trường theo kiểu "thuận mua vừa bán" trong công tác đền bù
giải tỏa (để chuyển từ đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp), mà không hiểu rằng, chỉ
có việc làm mới là cơ sở quan trọng nhất tạo sự ổn định cuộc sống cho mỗi con người.
Sự phản ứng của xã hội trong thời gian gần đây về tình hình mất đất nông nghiệp, sử
dụng lãng phí quỹ đất phi nông nghiệp cũng là hệ quả của tình hình trên.
- Thứ tư, có sự lệch lạc trong việc thực thi chủ trương xã hội hóa các dịch vụ thuộc về
hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa v.v Điển hình nhất là thương mại hóa các
lĩnh vực giáo dục, y tế với chủ trương cho phép thành lập các loại công ty kinh doanh
y tế, giáo dục. Ai cũng biết, bản chất của công ty là tối đa hóa lợi nhuận, nên không
thể vừa cho lập công ty kinh doanh vừa kêu gọi hạn chế lợi nhuận. Trong khi đó, y tế,
giáo dục là vấn đề của Nhà nước chứ không phải là vấn đề của thị trường. Một khi để
thị trường điều tiết 2 loại dịch vụ công này, thì không thể rút ngắn được khoảng cách
biệt về hưởng thụ giữa các tầng lớp dân cư, để từ đó góp phần nâng cao tính chất công
bằng xã hội.
22
- Thứ năm, môi trường sinh thái ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng ảnh hưởng đến các
thế hệ mai sau. Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp hiệu quả giữa chính sách kinh tế
và chính sách xã hội, kết hợp ngay từ đầu và trong từng bước phát triển giữa tăng
trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
 Như vậy, cả về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào thị trường

cũng đúng trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế. Sự thất bại của thị trường
thậm chí sẽ mang đến những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế và sẽ tạo nên
những cuộc khủng hoảng kinh tế.
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ CHÍNH SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG
TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
3.1 Vai trò của nhà nước trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Vấn đề tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và an sinh xã hội được Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nó thể hiện tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội khác.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế
với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương; thống
nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
23
trong từng bước và từng chính sách phát triển. Trên thực tế, việc thực hiện tiến bộ xã hội
và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh ngày càng tốt hơn. Phúc lợi xã hội và an sinh xã hội
được chú trọng và từng bước mở rộng. Tuy nhiên, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Văn kiện Đại hội XI tiếp tục phát triển những vấn đề lý luận về tiến bộ xã hội,
công bằng xã hội, an sinh xã hội. Một là, “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” là một
nội dung được xác định trong các phương hướng cơ bản cần quán triệt và thực hiện tốt.
Hai là, trong các mối quan hệ lớn phải đặc biệt chú trọng nắm vững và thực hiện tốt, có
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội. Ba là, văn kiện đã nêu những định hướng lớn về chính sách xã hội, trong đó
xác định: Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ và
phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt
chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước và từng chính sách, phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần, không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học
tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến với

hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội. Có chính sách tiền
lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội.
Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có
công với nước
3.2 Các chính sách, giải pháp Nhà nước áp dụng
Chương trình 135 Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó
khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu
số và miền núi là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà
nước Việt Nam triển khai từ năm 1998, gồm 3 giai đoạn: giai đoạn I (1997-2006), giai
đoạn II (2006-2010) và giai đoạn III (2011-2015). Chương trình 135 gồm hợp phần: phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển cơ sở hạ tầng trung tâm cụm xã,…
Thành tựu
24
Tổng kết 5 năm triển khai Chương trình cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn,
bản đặc biệt khó khăn giảm từ 47% (năm 2006) xuống 28,8% (năm 2010). Thu nhập bình
quân của đầu người đạt 4,2 triệu đồng/người/năm. Tăng tỷ lệ xã có đường giao thông cho
xe cơ giới từ trung tâm xã đến thôn, bản đạt 80,7%, 100% xã có trạm y tế; 100% người
dân có nhu cầu được trợ giúp pháp lý miễn phí.
Dự án đầu tư của Chính phủ qua chương trình 135-CP gồm dự án đầu tư điện,
đường, trường, trạm, chợ, thông tin đã cơ bản đến tận hầu hết các thôn bản.
Vùng sâu heo hút được cấp phát dầu, đèn, muối Iốt và cả thuốc chữa bệnh. Các xã
đã có trường học cao tầng ở cả 3 cấp học: Trung học cơ sở, tiểu học và bậc học mầm non.
Lớp học có điện thắp sáng, có bàn ghế, bảng chống loá và đầy đủ các phương tiện
đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học. Trụ sở làm việc của hầu hết các xã đã khang trang.
Nhiều xã có nhà cao tầng, có nhà văn hoá cộng đồng, có Bưu điện văn hoá.
Đường giao thông hầu hết được đầu tư xây dựng, cơ bản đường qua sông suối đã
có cầu cứng, cầu treo hoặc xây đập tràn phục vụ giao thông đi lại thuận tiện. Thông tin
được phủ sóng, các trạm truyền hình được lắp đặt tiếp phát sóng phục vụ bà con.
Ngoài việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hàng năm Chính phủ đã đầu tư hàng

ngàn tỷ đồng để tập huấn nâng cao nhận thức cho bà con. Các chính sách hỗ trợ để khôi
phục nghề truyền thống như: Dệt thổ cẩm, đan lát, làm gối đệm bằng bông lau và dạy
nghề mới.
Trợ cước, trợ giá, cấp máy móc, công cụ và cả giống cây trồng, vật nuôi cho bà
con phát triển sản xuất và chăn nuôi. Bên cạnh chương trình 135-CP, còn có các chương
trình 134-CP, chương trình hỗ trợ phát triển cộng đồng, chính sách xoá nhà tạm bợ, xoá
nhà dột nát, quỹ tình nghĩa, quỹ vì người nghèo làm cho bộ mặt nông thôn, miền núi
khởi sắc.
Thôn, bản đã ngày càng nhiều thêm nhà sàn kê, lợp ngói, đời sống cả vật chất và
tinh thần ngày càng phong phú hơn. Bà con đau ốm đã có trạm xá, bệnh viện, nạn sốt rét
đã cơ bản dập tắt, các hủ tục lạc hậu như ma chay, cưới hỏi, khài cúng cơ bản được đẩy
lùi.
25

×