Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Đề tài : Phân tích môi trường CHLB Đức doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.42 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI - DU LỊCH- MARKETING

BỘ MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
Đề tài : Phân tích môi trường CHLB Đức
GVHD: Ths. Quách Thị Bửu Châu
Nhóm :5 (đề tài 2)
Phan Diễm Nghi ( NT) TM03
Phan Thanh Cặn TM04
Nguyễn Anh Kiệt TM04
Hà Sỹ Nghị TM04
Lê Phạm Bảo Ngọc TM03
Tp Hồ Chí Minh ,ngày 18 tháng 2 năm 2012


MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
I. Phân tích môi trường vĩ mô nước Đức và những ngành có cơ hội đầu tư 4
1. Yếu tố tự nhiên 4
2. Thể chế_pháp luật 5
3. Yếu tố kinh tế 9
4. Yếu tố xã hội 13
a. Dân số 14
b. Văn hóa_xã hội 17
5. Yếu tố công nghệ 20
II. Tình hình sản xuất - tiêu thụ hàng dệt may tại Đức và phương thức đầu tư
ngành dệt may 22
1. Tình hình sản xuất dệt may tại Đức 22
2. Tình hình tiệu thụ dệt may tại Đức 24
3. Các phương thức xâm nhập ngành dệt may vào thị trường Đức 27
III. Những cơ hội và thách thức của lĩnh vực ngành dệt may trong quá


trình thâm nhập vào thị trường Đức 30
1. Phân tích các yếu tố môi trường ngành dệt may đem đến những cơ hội cho
Việt Nam 30
a. Dân số Đức đông và thu nhập đầu người rất cao sẽ cung cấp một nhu
cầu lớn cho ngành dệt may Việt Nam 30
b. Quan hệ thương mại Việt-Đức với thể chế chính trị và pháp luật thuận
lợi cho ngành dệt may Việt Nam 36
c. Hàng dệt may Việt Nam với chất lượng cao có thể mở rộng thị phần
cũng như tăng giá trị xuất khẩu 43
2. Những thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị
trường Đức 44
a. Những rào cản thương mại 45
2
b. Đối mặt với sức ép từ những quốc gia cạnh tranh 47
IV. Lời kết luận 50
V. Tài liệu tham khảo 51
3
Lời mở đầu
Trong thập kỷ qua, châu Âu đã trở thành đối tác thương mại quan trọng đối
với Việt Nam. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với nhiều nước châu
Âu đã phát triển khá thuận lợi và đạt được nhiều kết quả khả quan.
CHLB Đức nằm ở trung tâm châu Âu, là một trong 7 quốc gia phát triển
nhất trên thế giới, có vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và thương
mại châu Âu và quốc tế. Đức là nước xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất trong EU
do có số dân đông thu nhập đầu người khá cao. Đây thật sự là môi trường kinh
doanh hấp dẫn đang thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời
gian qua.
Với mục đích ấy nhóm đã chọn đề tài: “ Phân tích môi trường CHLB
Đức”. Qua việc phân tích môi trường vĩ mô của nước Đức có thể thấy được những
ngành tiềm năng thật sự ở nơi đây. Qua đó, đưa ra những cơ hội và thách thức cho

những nhà đầu tư Việt Nam khi muốn xâm nhập vào thị trường này trong tương
lai.
4
I. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ NƯỚC ĐỨC VÀ NHỮNG
NGÀNH CÓ CƠ HỘI ĐẦU TƯ.
1. Yếu tố tự nhiên :
 Vị trí địa lý: Cộng hoà Liên bang Đức nằm ở trung tâm châu Âu, có
biên giới với Đan Mạch ở phía Bắc; Pháp, Hà Lan, Bỉ và Luxemburg ở phía
Tây; Thụy Sĩ và Áo ở phía Nam; Séc, Slovakia và Ba Lan ở phía Đông. Đức
nằm ở vị trí bản lề giữa Đông và TâyÂu, giữa bán đảo Skandinavia và Địa
Trung Hải.
 Diện tích: 357.500 km2. Bờ biển dài 2.389 km. Biên giới đất liền
3.618km. Khoảng cách lớn nhất từ Bắc đến Nam dài 876 km và từ Đông sang
Tây dài 640km theo đường chim bay.
 Địa hình: Nước Ðức có địa hình cảnh quan đặc biệt đa dạng và hấp
dẫn. Những dãy núi cao thấp với các cao nguyên, vùng núi và vùng trung du,
vùng duyên hải và đồng bằng rộng mở. Từ Bắc xuống Nam, nước Ðức được
chia làm năm vùng quang cảnh lớn : Vùng đồng bằng phía Bắc, vùng núi
trung du, vùng núi Tây Nam, vùng chân núi Alpen Nam nước Ðức và vùng
núi Alpen Bayern.
 Nguồn tài nguyên: nước Đức là nước có ít tài nguyên khoáng sản,
một số nguồn tài nguyên của Đức: quặng sắt, than đá, kali, gỗ, than non,
uranium, đồng, khí thiên nhiên, muối, nikel, đất trồng.
5
 Sông ngòi: nước Đức có nhiều sông ngòi có giá trị lớn về kinh tế,
đặc biệt rất thuận lợi cho giao thông vận tải và thủy điện. Các sông lớn chảy
qua CHLB Đức là sông Rhein, Elbe, Main, Weser, Danube và Spree.
Phần lớn diện tích nước Đức được dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2%
- 3% dân số Đức làm việc trong ngành này.Các vùng đất được chuyên môn
hoá vào các lĩnh vực canh tác. Vùng bờ biển phía bắc rất thích hợp cho việc

nuôi bò sữa và ngựa. Vùng chân núi Alps có nhiều cánh đồng cỏ. Nơi đây các
ngành chăn nuôi gia cầm, lợn, bò và cừu rất phát triển. Dải đất màu mỡ dọc
theo sườn nam vùng đất thấp là nơi gieo trồng lúa mì, lúa mạch, ngũ cốc, củ
cải đường, cây ăn trái, khoai tây và nho. Sản phẩm nông nghiệp khác nhau từ
khu vực tới khu vực. Trong địa hình bằng phẳng của miền bắc Đức và đặc
biệt là ở phần phía đông, ngũ cốc và củ cải đường được trồng. Ở những nơi
khác, với địa hình đồi núi hơn và thậm chí cả miền núi, nông dân sản xuất rau,
sữa, thịt lợn, hoặc thịt bò. Hầu như tất cả các thành phố lớn được bao quanh
bởi các vườn cây ăn trái và trang trại rau. Hầu hết các thung lũng sông ở miền
nam và miền tây Đức, đặc biệt là dọc theo Rhine và chính, có vườn nho. Bia
được sản xuất chủ yếu, nhưng không độc quyền, tại Bayern. Đức có tên trong
danh sách các nước sản xuất sữa, sản phẩm bơ sữa và thịt nhiều nhất thế giới.
Nông nghiệp ở Đức được điều tiết theo chính sách nông nghiệp của Liên minh
châu Âu.
2. Thể chế - pháp luật:
a. Đầu tư nước ngoài:
Chính phủ Đức khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Đức và luật của
Đức quy định đối với các doanh nghiệp nước ngoài giống như các doanh
nghiệp ở Đức. Theo luật của Đức, các công ty do nước ngoài sở hữu đăng ký
ở Đức là một công ty trách nhiệm hữu hạn (GmbH) hoặc là một công ty cổ
phần (AG) được đối xử không khác gì so với các công ty của Đức. Không có
bất cứ một yêu cầu đặc biệt nào về quốc tịch đối với giám đốc hoặc cổ đông
cũng như đối với các nhà đầu tư phải đăng ký mục đích đầu tư với chính phủ.
6
Các công ty nước ngoài cũng thường phải chịu những rào cản trong đầu tư
giống như các công ty trong nước, chẳng hạn như mức thuế thu nhập biên cao,
luật lao động không mềm dẻo và một số quy định nặng nề.
Luật về kinh tế nước ngoài của Đức bao gồm một điều khoản cho phép
áp đặt những hạn chế đối với luồng đầu tư trực tiếp của tư nhân vì những lý do
chính sách nước ngoài, ngoại hối hoặc an ninh quốc gia.

Đức có một hệ thống chính phủ liên bang, ở đó các tiểu bang có một số
quyền lực riêng. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể thảo luận với Uỷ viên Liên
bang về Đầu tư nước ngoài có các trụ sở ở Mỹ và Đức và với mỗi bang trong
16 bang của Đức hoặc với các cơ quan phát triển kinh tế thành phố. Nhiều cơ
quan phát triển của Đức có đại diện ở Mỹ. Văn phòng của Uỷ viên Liên bang
về Đầu tư nước ngoài ở Đức là nơi đầu tiên mà các công ty nước ngoài có thể
tới khi muốn đầu tư ở Đức. Các công ty nước ngoài dự định đầu tư và cần
thông tin về đầu tư sẽ có được sự giúp đỡ nhanh chóng và tin cậy từ văn
phòng này. Văn phòng được Bộ Kinh tế và Công nghệ Liên bang tài trợ.
b. Cấp phép và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ:
Ở Đức có hai hình thức cấp giấy phép về sở hữu trí tuệ hoặc là trực tiếp
hoặc là tập trung thông qua các cơ quan thu thập. Mặc dù những nhà làm luật
đã đơn giản hoá việc thu thập tiền bản quyền cho người sở hữu, nhưng quá
trình này vẫn không mang tính thực tế. Những phát triển gần đây trên Internet
đã làm cho điều này ngày càng trở lên khó khăn hơn. Các cơ quan thu thập có
thể kiểm soát một số lĩnh vực khác nhau của sở hữu trí tuệ. Chẳng hạn như
GEMA (Musil Representation Soceity) vừa tạo ra một ban mới gọi là "GEMA
Digital" có thể kiểm soát mọi mặt của bản nhạc đã đăng ký bản quyền ở dạng
mẫu số. Không có bất kỳ một tổ chức nào khác ở Đức chuyên về lĩnh vực này
lên Luật pháp của Đức phải tuân theo các quy định về bản quyền của EU.
Chính phủ Đức đã đưa ra một chính sách đối xử đối với quyền sở hữu
của người nước ngoài đó là hoàn toàn được bảo vệ theo luật của Đức. Không
có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào đối với việc sở hữu, kiểm soát hoặc huỷ bỏ
7
quyền sở hữu. Sở hữu trí tuệ được bảo vệ một cách nghiêm ngặt ở Đức do
Đức là thành viên của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới. Đức cũng là một nước
tham gia ký kết các hiệp định bảo vệ quyền sở hữu như Công ước Bern về bảo
vệ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Công ước Paris về bảo vệ sở hữu công
nghiệp, Công uớc về Bản quyền chung, Công uớc về dấu ghi âm Geneva,
Hiệp định hợp tác sáng chế

Về tiêu chuẩn: Các quy định và thủ tục mang tính quan liêu của Đức có
thể là những rào cản lớn cho các công ty muốn thâm nhập thị trường Đức.
Những tiêu chuẩn về an toàn rất phức tạp được áp dụng rất thường xuyên và
đã gây khó khăn cho các sản phẩm của các nước khi muốn thâm nhập thị
trường.
Những cố gắng của EU nhằm hài hoà các yêu cầu về an toàn sản phẩm
và những tiêu chuẩn có liên quan đến hàng hoá công nghiệp của các nước
thành viên đã làm cho vấn đề thêm phức tạp. Trong suốt thời kỳ quá độ, các
yêu cầu trong nước phải được đáp ứng (sau thời kỳ quá độ, nhãn CE của EU
đã thay thế cho các chứng nhận phù hợp khác). Những cố gắng của EU nhằm
hài hoà tiêu chuẩn thông qua các chỉ thị đơn giản hoá việc chứng nhận bằng
"Phương pháp tiếp cận mới" vẫn chưa được thực hiện. Trong một số trường
hợp, các doanh nghiệp nước ngoài, chẳng hạn về lĩnh vực ôtô và y học sẽ phải
quan tâm đến việc đáp ứng các yêu cầu cụ thể của những quy định về tiêu
chuẩn của EU áp dụng đối với mỗi loại hàng hoá cụ thể thông qua "Phương
pháp tiếp cận cũ".
Điều này đặc biệt quan trọng do các tiêu chuẩn của EU đều rất phát
triển, nên rất có thể các tiêu chuẩn hiện hành của Đức sẽ dựa trên tiêu chuẩn
của Châu Âu. Trong nhiều trường hợp, Đức cũng sẽ là nước Châu âu đầu tiên
áp dụng tiêu chuẩn của EU. Mặc dù đã được áp dụng trong khoảng thời gian
là 5 năm nhưng việc áp dụng tiêu chuẩn về tương thích điện từ vẫn đã gây bất
ngờ cho nhiều công ty, không chỉ các công ty nước ngoài mà còn các công ty
của Đức.
8
Những nhà kinh doanh ở Đức cần phải có nhãn hiệu về chất lượng hoặc
hiệu suất, mặc dù chúng không được quy định trong các điều luật nhưng
chúng lại góp phần làm cho sản phẩm có nhiều cơ hội khi được bán ra thị
trường. Trong nhiều trường hợp, cả tiêu chuẩn và những yêu cầu của EU đối
với nhãn hiệu về hiệu suất hoặc chất lượng buộc các sản phẩm phải được thay
đổi. Thậm chí nếu sản phẩm đó không cần có sự thay đổi thì việc thử nghiệm

và chứng nhận lại là cần thiết trước khi hàng hoá được tung ra thị trường.
Những nhãn hiệu quan trọng là các nhãn "gepruefte Sicherheit" (GS) cho sản
phẩm cơ khí và nhãn "Verband Deutscher Elektrotechniker" (VDE) cho các
linh kiện điện tử, nhưng không có nhãn hiệu nào là bắt buộc đối với hàng hoá
được bán ở Đức.
c. Chính sách đối ngoại và an ninh
Cơ sở chính sách đối ngoại của Đức là tôn trọng luật pháp quốc tế, đấu
tranh cho nhân quyền, đối thoại, phòng ngừa khủng hoảng, tránh sử dụng bạo
lực và kiến tạo lòng tin.
Các vấn đề đối ngoại và an ninh Đức quan tâm hàng đầu là nhất thể hoá
Châu Âu, quan hệ với Mỹ, toàn cầu hoá, chống khủng bố, giải quyết xung đột
khu vực. Đức nỗ lực thiết lập quan hệ đối tác an ninh bền vững với Nga, ủng
hộ hợp tác kinh tế, tài chính và xã hội với Nga trên bình diện song phương
cũng như đa phương. Đức muốn tận dụng việc mở rộng EU và NATO sang
phương Đông để tăng cường hợp tác với Đông Âu.
Đức ngày càng coi trọng phát triển các mối quan hệ với Châu Á - Thái
Bình Dương, trước hết với Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ…Đức quan hệ với
Châu Phi ở mức thấp, mang tính chất cầm chừng, có viện trợ nhân đạo và viện
trợ phát triển cho một số nước nghèo. Gần đây, có những dấu hiệu cho thấy
Đức bắt đầu chú ý hơn thị trường Châu Phi.
3. Yếu tố kinh tế:
Trong những năm qua, CHLB Đức đã xây dựng được một nền kinh tế
công - nông nghiệp, dịch vụ, thương mại hiện đại với công nghệ tiên tiến hiệu
9
quả cao. Đức được đánh giá là một trong những nước có nền công nghiệp rất
phát triển, có tiềm năng to lớn về kinh tế và công nghệ.
Hiện tại, Đức đang theo đuổi chính sách kinh tế “thị trường xã hội", với
phương châm nhà nước chỉ hoạch định, điều tiết các chính sách kinh tế vĩ mô,
bảo đảm công bằng và ổn định xã hội. .
Hơn một nửa năng lực công nghiệp của nước Đức đã bị phá huỷ sau chiến

tranh thế giới thứ hai. Hơn 20 năm sau khi thống nhất (ngày 03 Tháng Mười
năm 1990), Đức đã có tiến bộ lớn trong việc nâng cao mức sống ở Đông Đức,
giới thiệu một nền kinh tế thị trường và cải thiện cơ sở hạ tầng của nó. Để hiện
đại hoá và hoà nhập nền kinh tế của miền đông nước Đức với miền tây, nước
Đức mỗi năm phải tiêu tốn khoảng 80 tỷ USD. Còn Tây Đức đã trải qua giai
đoạn phát triển kinh tế thần kỳ trong những năm 1950. Kết quả là nền kinh tế
Tây Đức bước vào thời ổn định, nạn thất nghiệp được thanh toán vào năm
1959. Vào cuối thập niên 1950, sản xuất công nghiệp tăng 130%.
GDP: 2,951 tỷ USD.(2010)
GDP theo đầu người: 35.900 USD (2010)
Tỷ lệ tăng trưởng GDP: 3.6% (2010)
Tỷ lệ lạm phát: 1% (2010)
10
GDP theo ngành:

Đặc điểm chung của các ngành:
Nông nghiệp: Sản phẩm nông nghiệp chính: khoai tây, lúa mì, lúa mạch,
củ cải đường, hoa quả, bắp cải, bò, lơn, gia cầm.
Công nghiệp : Đức là một trong những nước công nghiệp phát triển nhất
thế giới và đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu sau Liên minh Châu Âu và Trung
Quốc. Các ngành công nghiệp chủ yếu là: sắt, thép, than, xi măng, hóa chất,
máy móc, xe cộ, máy công cụ, điện tử, thực phẩm và đồ uống, đóng tàu, dệt
may.
Lực lượng lao động: 43,35 triệu (2010)
Tỉ lệ thất nghiệp: 7,1 % (2010)
Thu chi ngân sách(2010):
- Thu Ngân sách: 1.398 tỉ USD
- Chi Ngân sách: 1.54 tỉ USD
Kim ngạch xuất khẩu – nhập khẩu:
• Tổng kim ngạch XK: 1,337 tỉ USD (2010)

- Các mặt hàng xuất khẩu chính: máy móc, xe hơi, hoá chất, kim
loại và hàng công nghiệp, thực phẩm, dệt may.
11
- Các nước xuất khẩu chính : France 10,2%, US 6,7%, Hà Lan 6,7%,
UK 6,6%, Italy 6.3%, Áo 6%, Trung Quốc 4,5%, Thụy Sỹ 4,4%
(2010)
• Tổng kim ngạch NK : 1,12 tỉ USD (2010)
- Các mặt hàng nhập khẩu chính: máy móc, xe hơi, hoá chất, thực
phẩm, hàng may mặc, kim loại.
- Các nước nhập khẩu chính : Netherlands 8,5%, France 8,2%, US
5,9%, Italy 5.9%, UK 4,9%, Belgium 4,3%, Austria 4.3%, Thụy Sỹ
4,2% (2010)
- Đơn vị tiền tệ: Đồng Euro (từ ngày 1/1/1999).
- Tỷ giá hối đoái:
EUR/US: 0.7715 (2010), 0.7179 (2009), 0.6827 (2008), 0.7345 (2007),
0.7964 (2006)
Chính sách đối ngoại:
Hiện Đức là thành viên tích cực và có vai trò quan trọng tại EU, NATO,
OECD, LHQ Cơ sở chính sách đối ngoại: Đức ủng hộ một thế giới đa cực,
tôn trọng luật pháp quốc tế, đấu tranh cho nhân quyền, đối thoại, phòng ngừa
khủng hoảng, tránh sử dụng bạo lực và kiến tạo lòng tin.
Ưu tiên đối ngoại và an ninh: Nhất thể hoá châu Âu, quan hệ với Mỹ, toàn
cầu hoá, chống khủng bố, giải quyết xung đột khu vực.
Vai trò LHQ và NATO: Đức cho rằng LHQ đóng vai trò then chốt trong
việc giải quyết các thách thức to lớn trong thế kỉ 21, cần cải cách HĐBA LHQ
theo hướng cân đối hơn giữa các khu vực. NATO là công cụ không thể thiếu
được đối với ổn định của Châu Âu; cần thích ứng hơn với môi trường an ninh
đã thay đổi.
Đức nỗ lực tăng cường quan hệ với Nga, Đông Âu; thực hiện chính sách
ngoại giao cân bằng trong quan hệ với các nước Trung-Đông, đặc biệt trong

mối quan hệ giữa Pa-let-xtin và I-xra-en. Đức ngày càng coi trọng phát triển
các mối quan hệ với châu Á - Thái Bình Dương, trước hết với Trung Quốc,
12
Nhật Bản, Ấn Độ. Với châu Phi, Đức quan hệ ở mức thấp, chủ yếu dưới hình
thức viện trợ nhân đạo và viện trợ phát triển cho một số nước nghèo. Frankfurt
am Main là trung tâm ngân hàng của nước Đức và là trung tâm tài chính lớn
trên thế giới. Thị trường chứng khoán Frankfurt cũng là một trong những thị
trường chứng khoán hàng đầu trên thế giới.
 Quan hệ kinh tế:
Các bạn hàng chính là Pháp, Mỹ, Anh, Ý và Hà Lan. Ngoài ra, Đức còn là
bạn hàng lớn nhất của hầu hết các nước châu Âu. Mỹ là đối tác thương mại
lớn thứ hai của Đức, và thương mại Đức – Hoa Kỳ vẫn đang tiếp tục vững
mạnh. Tổng thương mại hàng hoá đạt 152 tỉ USD trong năm 2008. Mỹ xuất
khẩu sang Đức 54,5 tỉ USD, trong khi Mỹ( nhập khẩu từ Đức hơn 97,5 tỉ
USD). Loại hàng xuất khẩu chủ yếu của Mỹ bao gồm máy bay, thiết bị điện,
thiết bị viễn thông, xử lý dữ liệu thiết bị, và xe có động cơ và phụ tùng. Hàng
xuất khẩu của Đức tập trung ở máy móc thiết bị, hóa chất, và thiết bị điện
nặng.
◦Các mặt hàng xuất khẩu chính: máy móc, xe hơi, hoá chất, kim loại và
hàng công nghiệp, thực phẩm, dệt may.
◦Các nước xuất khẩu chính : France 10.2%, US 8.8%, UK 7.9%, Italy
6.9%, Netherlands 6.1%, Belgium 5.6%, Austria 5.4%, Spain 5.1% (2005)
◦Các mặt hàng nhập khẩu chính: máy móc, xe hơi, hoá chất, thực phẩm,
hàng may mặc, kim loại
◦Các nước nhập khẩu chính : France 8.7%, Netherlands 8.5%, US 6.6,
China 6.4%, UK 6.3%, Italy 5.7%, Belgium 5%, Austria 4% (2005)
CHLB Đức đứng thứ ba thế giới về GDP và đứng thứ hai thế giới về xuất
khẩu. Nhưng kinh tế Đức tăng trưởng trì trệ trong 3 năm qua. Nguyên nhân
bên ngoài là do yếu tố khách quan như kinh tế thế giới suy giảm, tình hình
chính trị một số khu vực bất ổn. Nguyên nhân nội tại là do nước này còn thiếu

những chính sách cải cách kinh tế năng động trước xu thế cạnh tranh thị
trường gay gắt. Đức đã nhận thức được vấn đề này và đã đưa ra nhiều chương
13
trình cải cách, phát triển xứng đáng với vai trò "đầu tàu" trong EU. Chương
trình cải cách "Agenda 2010" đề ra mục tiêu: Tăng cường trung hạn và dài hạn
tính năng động của kinh tế Đức, tạo việc làm, hiện đại hóa các hệ thống xã
hội để bảo đảm phát triển xã hội lâu bền.
Cơ quan thống kê liên bang cho biết tăng trưởng GDP năm 2008 của Đức
giảm xuống còn 1,3% trong khi con số này năm 2007 là 2,5%.
Từ khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, chưa bao giờ nền kinh tế Đức
tăng trưởng chỉ khoảng 1%, nhưng nhiều nhà phân tích cho rằng nguy cơ thực
sự chỉ có thể xảy đến khi tăng trưởng đạt khoảng 3% thậm chí hơn 3% trong
năm 2009.
Theo Cơ quan thống kê liên bang, trong quý I năm 2009, kinh tế Đức có
thể tăng trưởng từ 1,5% đến 2% so với mức tăng trưởng trong ba tháng cuối
năm 2008. Nếu điều đó xảy ra thì đây là giai đoạn GDP của Đức giảm nhiều
nhất kể từ năm 1990 khi Đức thống nhất đất nước.
Quan hệ song phương Đức và Việt Nam:
Năm 2010 chúng ta sẽ kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam và Đức. Nhân dịp đó sẽ tổ chức năm Đức tại Việt Nam và năm
Việt Nam tại Đức. Trong khuôn khổ „năm Đức“ sẽ giới thiệu mối quan hệ
song phương trong tất cả các lĩnh vực. Những chương trình trọng tâm được dự
kiến trải dài từ những hoạt động văn hóa cấp cao, các cuộc giao lưu đối thoại
về chính trị, các diễn đàn kinh tế đến các hội thảo khoa học. Trong khuôn khổ
hợp tác đối tác giữa nhà nước và tư nhân (Public Private Partnership), các tổ
chức tư vấn và thực hiện, các viện chính trị, cũng như các cơ sở nhà nước và
tư nhân họat động ở Việt Nam cần phải được tham gia kiến tạo chương trình.
Trong lĩnh vực kinh tế, nước Đức với kim ngạch thương mại song
phương hơn 4 tỉ USD là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại EU, bỏ
xa các thành viên EU khác. Mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam

sang Đức là giầy da và quần áo. Đức là thị trường tiêu thụ lớn nhất trên thế
14
giới của cà phê Việt nam và hạt tiêu Việt Nam. Đến năm 2020 Việt Nam
muốn phát triển thành một nước công nghiệp. Vì thế đất nước có một nhu cầu
to lớn đối với trang thiết bị. Trong những năm gần đây lượng máy móc nhập
từ Đức đa đạt một kỷ lục mới. Vì ý thức về chất lượng ngày càng tăng và vì
danh tiếng của sản phẩm „Made in Germany“ cũng có được ở Việt Nam, nên
các hãng chế tạo máy của Đức có thể rất có lợi trong quá trình phát triển này.
Trong lĩnh vực hợp tác phát triển, Việt Nam cũng là một trong những đối tác
quan trọng nhất của Đức ở châu Á. Cho hai năm 2008 và 2009 chính phủ liên
bang giành một khoản viện trợ ODA là 117 triệu Euro. Trọng tâm sẽ vẫn là
các dự án bảo vệ môi trường, đào tạo nghề và y tế. Tất cả những điều đó cho
thấy rằng, nước Đức quan tâm đến việc tiếp tục mở rộng mối quan hệ chặt chẽ
với quốc gia được coi là con hổ ASEAN đang phát triển năng động này, một
quốc gia đang quyết tâm thực hiện một kế hoạch cải cách đầy tham vọng.
Ngược lại Việt Nam cũng tìm kiếm mối quan hệ hợp tác với chính nước Đức
trong khi thực hiện quá trình cải cách kinh tế, xã hội. Đối với cả hai bên sẽ
hình thành một tình thế cùng có lợi cần phải được tiếp tục tận dụng một cách
tích cực.
4. Yếu tố xã hội
a. Dân số:
Dân số: nước Đức có khoảng : 82.282.988 người (7/2010)
Dân tộc: trong 82.282.988 người (7/2010) sinh sống ở nước Đức năm
2010 thì tỷ lệ người Đức chiếm khoảng chiếm khoảng 91,5%, Thổ Nhĩ Kỳ :
2,4%, và các dân tộc khác ( Ý, Nga, Hy Lạp, Ba Lan, Tây Ban Nha,
Croatia…) chiếm 6,1%. Những căng thẳng đôi lúc xảy ra trong cuộc sống
hàng ngày phần lớn được giải quyết trong tình đồng nghiệp, tình láng giềng và
tình hữu nghị.
15
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ chính hiện nay là tiếng Đức, ở vùng giáp biên giới

nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng. Tiếng Anh là ngoại ngữ chính được dạy ở
Đức, hầu hết doanh nhân Đức đều thông thạo tiếng Anh.
Tuổi thọ trung bình : 79,41 năm (2010)
- Nam : 76,41 năm
- Nữ : 82,57 năm
Cấu trúc độ tuổi:
- 0-14tuổi: 13,7%(nam5.768.366-nữ5.470.516)
- 15-64tuổi: 66,1%(nam27.707.761-nữ26.676.759)
- 65tuổi: 20,2%(nam7.004.805-nữ9.701.551)
Tỉ lệ sinh : 8,21/ 1000 dân (2010)
Tỷ lệ tăng dân số: -0.061% (2010)
Tôn giáo : Đạo tin lành 34%, Thiên chúa giáo La Mã 34%, Hồi giáo
3.7%, khác và không tôn giáo 28.3%
Trình độ: độ tuổi trên 15 và có thể đọc và viết.
Dân số: 99% , nam 99%, nữ 99% (nguồn: 2009 cia world factbook)
Mật độ dân cư ở Đức được phân chia rất khác nhau theo khu vực .
Tại khu vực Berlin, vùng phát triển rất nhanh từ khi nước Đức thống nhất,
hiện có tới hơn 4,3 triệu người sinh sống. Dân số của vùng công nghiệp Rhein
và Ruhr, nơi các thành phố nối nhau không có ranh giới rõ ràng, lên tới hơn 11
triệu người mật độ khoảng 1.100người/km2.
Những vùng tập trung dân cư khác là các khu Rhein-Main với các thành
phố Frankfurt, Wiesbaden, và Mainz, khu công nghiệp ở Rhein – Neckar với
các thành phố Mannheim và Ludwigshafen, khu công nghiệp xung quanh
Stuttgart, cũng như các khu vực xung quanh các thành phố Bremen, Dresden,
Hamburg, Köln, Leipzig, München và Nürnberg/Fürth.
Bên cạnh những vùng dân cư tập trung này là những vùng dân cư thưa
thớt, ví dụ như vùng đồng cỏ và đầm lầy nằm trên đồng bằng Bắc Đức, vùng
Eifel, vùng rừng Bayern, vùng thượng Pfalz, vùng Brandenburg và một số
16
vùng ở Mecklenburg-Vorpommern. Miền Tây nước Đức có mật độ dân cư cao

hơn hẳn vùng phía Đông. Diện tích miền Đông chiếm khoảng 30% diện tích
cả nước, nhưng có dân số chỉ bằng gần một phần trăm dân số cả nước (15,3
triệu người). Trong tổng số 20 thành phố có dân số trên 300.000 người, chỉ có
ba thành phố nằm ở miền Đông nước Đức.
Đô thị hóa: cứ ba người dân Đức có một người sinh sống tại một trong
số 82 thành phố lớn (có dân số trên 100.000 người ), tổng số là khoảng 25
triệu người. Đa số còn lại sống ở nông thôn và các thị trấn nhỏ, gồm 6,4 triệu
người sống trong các thị trấn, làng mạc với dân số tối đa 2.000 người; 50,5
triệu người sống trong các thị trấn, làng mạc với dân số từ 2.000-100.000
người .
Tình hình nhập cư: Nước Ðức đã chứng minh chính sách cởi mở với
người nước ngoài không chỉ bằng việc tiếp nhận những người xin tị nạn và
người tị nạn chiến tranh, mà còn bằng việc luôn luôn là một trong những quốc
gia đi đầu ủng hộ chính sách tự do đi lại, cũng như tự do làm việc và cư trú
trong liên minh châu Âu.
Hàng năm,nước Đức có 110.000 người dân nhập cư từ các quốc gia khác
–Đức là quốc gia đứng thứ 6 trong số các nước đón nhận nhiều người nhập cư
nhất trên thế giới và nếu dự báo của Liên Hợp Quốc là chính xác, thì nước
Đức sẽ trở thành một trong những đất nước được nhiều người tới nhập cư nhất
thế giới vào 2050.
 Qua những số liệu trên cho ta thấy nước Đức là một nước có dân số
già. Tỉ lệ tăng dân số âm, thu nhập người dân cao vì thế có khả năng chi trả rất
cao; tình hình nhập cư tỷ lệ nhập cư hàng năm cao tạo sự đa dạng về nhóm
khách hàng tạo ra môi trường rất hấp dẫn cho các nhà đầu tư thông qua
phương thức xuất khẩu, đặc biệt là hàng tiêu dùng, và nông sản, mỹ nghệ
b. Văn hóa-xã hội.
 Nguồn nhân lực:
17
Đức có nền kinh tế kỹ thuật lớn thứ ba thế giới sau Mỹ và Nhật, nhưng cơ
cấu thị trường thiếu linh hoạt - gồm chi phí ngoài lương lớn cho việc thuê

nhân công mới - đã làm cho thất nghiệp dài hạn không chỉ là vấn đề theo chu
kỳ. Với tỷ lệ thất nghiệp lên tới gần 4 triệu người, Bundesrat đã thông qua bộ
luật lao động Job-Aktiv Gesetz vào tháng 12/2001. Công đoàn đã phản đối bộ
luật này nhằm cho phép các ban cung cấp việc làm của Văn phòng việc làm
Liên bang sử dụng các khoản tiền trợ cấp cho công nhân lương thấp (với mức
phân phối ngân sách hàng năm là 2.5 tỷ -3 tỷ euro).
Lực lượng lao động ở Đức nói chung có trình độ tay nghề cao, có học
vấn, có kỷ luật và làm việc rất có hiệu quả. Tuy thị trường lao động được đặc
thù hoá do nhiều vấn đề về cơ cấu nhưng Đức là một trong những nước có
mức lương và phụ cấp cao nhất thế giới, một phần là do tỷ lệ thất nghiệp cao
(khoảng 10%). Dân số theo độ tuổi của Đức cộng với thất nghiệp cao đã đẩy
chi phí an ninh xã hội lên mức cao, vượt quá mức đóng góp của công nhân.
Lao động: Trong tháng 4 có thêm 58 000 người thất nghiệp. Không có
dấu hiệu cho thấy tỷ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục tăng. Với tổng cộng 3,585 triệu
người đăng kí thất nghiệp, con số này đã hơn cùng kỳ năm trước là 171 000
người, và ở tỷ lệ thất nghiệp 8,6% (mức thấp nhất của 2008 là 7,2%).Tỷ lệ thất
nghiệp: 7,9%
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp cao nhưng trong một số ngành công nghệ cao
vẫn xuất hiện tình trạng thiếu lao động trầm trọng, các doanh nghiệp mong
muốn những thủ tục visa sẽ đơn giản hơn đối với những lao động nước ngoài
có trình độ cao về chuyên môn, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Để đáp ứng điều này Chính phủ đã đưa ra một số chương trình nhằm thu hút
các chuyên gia nước ngoài nhiều hơn nữa.
 Sự quan tâm của xã hội đối với các vấn đề bảo vệ môi trường
Từ năm 1986 ở Đức đã có Bộ Môi trường, Bảo vệ thiên nhiên và An toàn
phóng xạ. Hiện nay hơn 4 triệu người Đức là thành viên của các tổ chức bảo
vệ môi trường, ví dụ như Hiệp hội môi trường và bảo vệ thiên nhiên (BUND)
18
và Greenpeace. Chính phủ liên bang cấp tín dụng ưu đãi và trợ cấp cho những
ai lắp ráp thiết bị, vật liệu cách nhiệt hoặc cải tạo căn hộ, nhà ở của mình theo

hướng thân thiện với môi trường.
 Xu hướng tiêu dùng
Người tiêu dùng Đức nổi tiếng là những người am hiểu về giá cả hàng
hóa Ở Đức trong giai đoạn hiện nay có rất nhiều người có thu nhập cao, điều
kiện sống tốt, có khả năng trình độ và làm tại những vị trí ổn định của xã hội
nhưng họ thích sống độc thân, không muốn phải có trách nhiệm về gia đình,
công việc sinh con đẻ cái Những yếu tố này đã khiến các doanh nghiệp của
Đức nảy sinh các dịch vụ, các câu lạc bộ, các hàng hóa cho người độc thân.
 Tập quán tiêu dùng tại thị trường Đức
Là đất nước có nền kinh tế hùng mạnh với thu nhập bình quân đầu người
cao vào bậc nhất châu Âu, người Đức đòi hỏi rất cao về chất lượng và sản
phẩm dịch vụ. Họ có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu
nổi tiếng thế giới, vì cho rằng những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng
sản phẩm và sẽ đảm bảo an toàn cho người sử dụng, mặc dù giá của chúng đắt
hơn hoặc đắt hơn nhiều so với các sản phẩm cùng loại khác.
Hiện nay, xu hướng tiêu dùng trên thị trường Đức đang có những thay đổi
như: không thích sử dụng đồ nhựa và thích dùng đồ gỗ; thích ăn thuỷ hải sản
hơn thịt; yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hóa thay đổi nhanh, đặc biệt
đối với những mặt hàng thời trang (quần áo, giày dép,…). Cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sở thích và thói quen tiêu dùng trên
thị trường này thay đổi rất nhanh. Ngày nay, người tiêu dùng Đức cần nhiều
chủng loại hàng hóa với số lượng lớn và có vòng đời ngắn, giá rẻ hơn với các
điều kiện về dịch vụ bán hàng cũng như sau bán hàng tốt hơn, thay vì sử dụng
những sản phẩm có chất lượng cao, giá đắt, vòng đời sản phẩm dài như trước
đây. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa vẫn là yếu tố quyết định đối với phần lớn
các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Ví dụ một số sản phẩm tiêu
biểu:
19
- Hàng may mặc: Người Đức chỉ mua hàng may mặc không có chứa chất
nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (Azo-dyes). Khách hàng Đức đặc biệt quan tâm

tới chất lượng và thời trang của loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang
lại có tính quyết định cao hơn so với giá cả. Đối với mặt hàng này, nhu cầu
thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mốt.
- Thuỷ hải sản: Người Đức không mua những sản phẩm thuỷ hải sản nhập
khẩu bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do chất phụ gia không
được phép sử dụng. Đối với sản phẩm thuỷ hải sản đã qua chế biến, người
Đức chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi rõ họ tên sản phẩm, nơi sản
xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Người tiêu dùng
tẩy chay các loại thuỷ hải sản nhập khẩu có chứa khuẩn Salmonella, độc tố
Lustamine, nhiễm V.Parahaemoliticus, nhiễm V.Cholerae. Người Đức ngày
càng ăn nhiều thuỷ hải sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khỏe
mạnh.
Một đặc điểm quan trọng ở thị trường Đức đó là người tiêu dùng rất chú
trọng đến các khía cạnh môi trường và xã hội liên quan đến sản xuất hàng hóa.
Thị phần hàng thực phẩm thân thiện với môi trường trên cả hai phương diện
(giảm lượng hóa chất trong thực phẩm và không gây ô nhiễm môi trường) dự
kiến sẽ tăng lên nhanh chóng. Bao bì có khả năng tái sinh và ngay cả việc
quảng cáo được tiến hành theo cách thức thân thiện môi trường luôn giành
được sự ưu ái của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, người Đức còn trở nên khắt
khe hơn trong việc lựa chọn hàng hóa xuất phát từ quan điểm đạo đức. Hàng
hóa có được sản xuất với sự phân chia thu nhập công bằng cho người lao động
thực sự, trong những điều kiện lao động phù hợp, không lạm dụng lao động
trẻ em… đang là mối quan tâm lớn của thị trường.
-Dịch vụ: Lĩnh vực dịch vụ đã tăng đều đặn trong những năm gần đây và
hiện đóng góp nhiều nhất vào tổng sản phẩm quốc nội. Lĩnh vực này bao gồm
cả du lịch. Năm 2004, lượng khách nước ngoài đến Đức du lịch nhiều nhất là
từ Hà Lan, kế đó là Vương quốc Anh và Mỹ.
20
5. Yếu tố về công nghệ.
 Viễn thông

Hệ thống truyền thông có thể được phân loại thành viễn thông, dịch vụ
phát thanh, truyền hình và các dịch vụ Internet. Đức sở hữu các hệ thống viễn
thông công nghệ tiên tiến nhất. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ đã
đầu tư rất lớn các khoản tiền để cải thiện và phát triển hệ thống viễn thông.
Internet: dịch vụ quốc tế của nước Đức là tốt nhất trên toàn thế giới, bao
gồm đất đai rộng lớn và các phương tiện cáp dưới đáy cũng như các trạm mặt
đất trong Inmarsat, Intelsat, Eutelsat, và hệ thống vệ tinh Intersputnik (2001),
Internet hosts:22.606.000 (2008), Internet người dùng:42.500.000 (2007)
Điện thoại hệ thống: Đức là một trong những nước có hệ thống viễn
thông hàng đầu thế giới hầu hết các công nghệ tiên tiến; Đức là phục vụ bởi
một hệ thống trao đổi sâu rộng của điện thoại tự động kết nối của mạng lưới
hiện đại của sợi cáp quang, cáp đồng trục, rơle radio vi sóng, và một hệ thống
vệ tinh trong nước; dịch vụ điện thoại di động được phổ biến rộng rãi, mở
rộng nhanh chóng, và bao gồm các dịch vụ chuyển vùng đến nhiều nước
ngoài.
 Công nghệ
Ngành thành công nhất của Đức là ngành công nghiệp cơ khí. Không
giống như nhiều ngành công nghiệp tại Đức và những nơi khác, nó bị chi phối
bởi nhỏ hơn là các công ty lớn. Gần hai phần ba các sản phẩm cơ khí của Đức
được xuất khẩu.
Ngành công nghiệp xe hơi của Đức là ngành có quy mô lớn nhất ở châu
Âu. Thành công lớn nhất của nước Đức là trong ngành sản xuất xe hơi chất
lượng cao. Có lẽ các nhãn mác xe hơi sang trọng nhất thế giới ngày nay có
xuất xứ từ Đức: Bayerische Motoren Werke AG (BMW), DaimlerChrysler
AG (Mercedes), Porsche, Audi và Volkswagen. . Gần một nửa các xe ô tô
Đức sản xuất được xuất khẩu, chủ yếu là xuất khẩu cho các thành viên khác
của EU và Bắc Mỹ.
21
Các ngành công nghiệp truyền thống của Đức là thép và khai thác mỏ
than, cả hai được nhiều trợ cấp và vẫn sử dụng lao động lớn. Hàng không vũ

trụ là một ngành công nghiệp nhỏ nhưng đang phát triển, cũng có rất nhiều trợ
cấp, và các công ty Đức thường tham gia với các công ty từ các nước EU -
chẳng hạn như máy bay Airbus và sản xuất máy bay quân sự
Kỹ nghệ hoá chất là một trong những ngành quan trọng nhất của Đức.
Trong đó có những công ty như Bayer AG, BASF và Hoechst. Các ngành
công nghiệp quan trọng khác gồm chế tạo máy bay, máy xây dựng, máy móc
nông nghiệp, máy phát điện, điện tử, các thiết bị văn phòng. Mặc dù có những
ngành công nghiệp rất thành công, song một số ngành truyền thống, chẳng hạn
như luyện thép và đóng tàu, lại đang sa sút nghiêm trọng. Sự cạnh tranh từ
Nhật và công nghệ mới đã làm giảm lợi nhuận của nước Đức.
Đức là trụ sở chính của nhiều công ty đa quốc gia khổng lồ như BASF,
Robert Bosch GmbH, E.ON, Deutsche Telekom và Siemens AG. Tuy có
nhiều tập đoàn công nghiệp lớn, nhưng xuơng sống của kinh tế Đức lại là các
công ty loại trung (Mittelstand) với quy mô dưới 1000 nhân viên. Trong tổng
số 1016 Tỷ USD hàng hóa xuât khẩu năm 2005, một phần lớn xuất phát từ
khu vực này. Hiện nay Đức vẫn giữ chức quán quân thế giới về xuât khẩu
hàng hóa.
 Giao thông
Từ giữa thế kỷ 20 hệ thống giao thông đường bộ của Đức đã thay thế hệ
thống giao thông đường sắt chiếm vị trí quan trọng nhất. Đức là một trong
những nước có mạng lưới giao thông dày nhất thế giới (đứng thứ nhì sau Mỹ),
bao gồm 11.980 km đường cao tốc (Autobahn) và 41.386 km đường liên tỉnh.
Nước Đức là nước duy nhất trên thế giới mà không có hạn chế tốc độ nói
chung trên đường cao tốc.
Cùng với sự tư nhân hóa năm 1993, hệ thống đường sắt dần dần bị thu
nhỏ và hạn chế lại, trong khi hệ thống giao thông hàng không ngày càng phát
triển. Sân bay Frankfurt am Main hiện tại là sân bay lớn nhất ở Đức. Mặc dù
22
giao thông đường bộ và hàng không gây ra nhiều ô nhiễm môi trường, Đức
vẫn không ngừng đầu tư và mở rộng hai hệ thống này, thay vì tập trung vào sử

dụng hệ thống đường sắt vốn có một số ưu thế.
Hệ thống giao thông đường thủy cũng có một vị trí rất quan trọng đối với
một nuớc có nền ngoại thương phát triển như Đức.
 Như vậy, ta vừa tìm hiểu và phân tích những yếu tố môi trường vĩ mô
của nước Đức; ta nhận thấy rằng đây là một đất nước tiềm năng, người dân có
thu nhập bình quân cao và ổn định. Đồng thời có cơ sở hạ tầng hiện đại vói
mạng lưới giao thông, và công nghệ thông tin hoàn hảo; có các chính sách
kích kích đầu tư tốt, tình chính trị tương đối ổn định. Vì thế các nhà đầu tư
Việt nam có thể xuất khẩu nông sản, đồ gỗ, cà phê, giày dép,nhưng dệt may là
thuận lợi nhất vì đây là thế mạnh của nước ta, do đó khi mà xuất khẩu những
mặt hàng này mới có thể cạnh tranh được trên thị trường Đức để tồn tại và
phát triển.
II. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT – TIÊU THỤ HÀNG DỆT MAY TẠI ĐỨC
VÀ PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ NGÀNH DỆT MAY.
1. Tình hình sản xuất dệt may tại Đức
Đức có rất nhiều các tập đoàn dệt may lớn quy mô quốc tế. Trong EU,
Đức được coi là nước sản xuất lớn hàng dệt may, bên cạnh Tây Ban Nha,
Italia và Pháp. Ngoài ra, hàng thời trang của nước này cũng khá hiện đại, thực
dụng và có kiểu cách phù hợp với đa dạng nhu cầu của người tiêu dùng. Trong
những năm gần đây, hầu như tất cả các nhà sản xuất Đức đã đẩy mạnh việc
tìm kiếm khả năng hợp tác với các nước đang phát triển để đặt cơ sở sản xuất
của họ tại đó do những khu vực có chi phí sản xuất thấp. Mức độ chuyên
nghiệp hóa trong sản xuất hàng dệt may của Đức là rất cao do nước này đồng
thời là một trong những nước xuất khẩu các loại máy móc dệt may hiện đại
nhất trên thế giới.
23
Hàng dệt may Đức đang tìm chỗ đứng trên chính thị trường của mình
bằng cách tập trung vào các nhóm sản phẩm thời trang cao cấp và độc đáo về
thiết kế, kiểu dáng và chất liệu nhưng có giá cả phù hợp với khả năng chi trả
của người tiêu dùng Đức: như trang phục áo khoác, sơ mi,áo lót……. Trong

EU, Đức là nước xuất khẩu áo khoác lớn thứ hai, sau Italia. Năm 2007, kim
ngạch xuất khẩu áo khoác của Đức đạt 9,9 tỷ EUR, chiếm 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu áo khoác của EU. Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp áo
khoác ở Đức đạt 6,2 tỷ EUR. Gần như hầu hết các công ty ở Đức đều phát
triển chính sách đặt hàng sản xuất áo khoác ở nước ngoài.Số lượng nhà máy
sản xuất áo khoác ở Đức có trên 50 nhân công đã giảm từ 128 vào năm 2006
xuống 122 vào năm 2007. Tổng số nhân công được tuyển dụng làm việc trong
lĩnh vực sản xuất áo khoác ở Đức năm 2007 là 21.300 gười, giảm so với con
số 22.276 người của năm 2006. Năm 2010, nhập khẩu hàng dệt may của Đức
đạt 33 tỷ Euro (khoảng 46 tỷ USD) và xuất khẩu hàng dệt may gồm khoảng
41% quần áo và 59% hàng vải dệt
Trong EU, Đức chiếm 42% lượng đặt hàng sản xuất áo khoác tại nước
ngoài. Ba nước là địa điểm sản xuất áo khoác chính cho Đức trong năm 2007
là Ukraina với 141 triệu EUR, Macedonia 128 triệu EUR và Bungary 100
triệu EUR. Hy vọng chính của các nhà sản xuất Đức là ngành dệt may sẽ tiếp
tục được bảo hộ bởi EU và chính phủ các nước thành viên, đồng thời tập trung
vào việc mở rộng quy mô sản xuất cho các thị trường bên ngoài nơi hàng dệt
may của Đức đang ngày càng được chấp nhận.
Để tận dụng nguồn nhân lực giá rẻ ở các thị trường đang phát triển,
nhiều công ty Đức đã đẩy mạnh chiến dịch đặt hàng sản xuất tại nước ngoài.
Những khu vực được các nhà sản xuất Đức quan tâm bao gồm Bắc Pi, Trung
Quốc, các nước Đông Âu và cả các nước trong khu vực Đông Nam Á.
2. Tình hình tiêu thụ dệt may tại Đức
24
Đức dệt may và quần áo là một trong những ngành công nghiệp lâu đời
nhất và bao gồm chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; khu vực vẫn là nhà
sản xuất lớn thứ hai của người tiêu dùng trong nước, sau các ngành công
nghiệp thực phẩm. Trước khi phát minh ra máy quay và loom cơ khí, sản xuất
hàng dệt và quần áo là một quá trình lao động chuyên sâu. Nhà máy dệt là
trong số các hoạt động kinh tế đầu tiên sử dụng công nghệ chế biến công

nghiệp để đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng tăng. Năm 2006, sản xuất
trong nước của hàng dệt may tập trung vào quần áo (30%), dệt may nhà
(30%), và kỹ thuật dệt may (40%). Với sản xuất này, Đức vẫn là một trong
những nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất và quần áo trên toàn thế giới với một
hạn ngạch xuất khẩu 41,7%.Các ngành dệt may và quần áo ở Đức là một trong
những nhóm ngành công nghiệp lớn nhất trong nước. Trong năm 2006, Đức
xuất khẩu 20.000.000.000 euro trong dệt may và quần áo. Dựa trên tổng
doanh thu cho năm 22.000.000.000 cùng 122.000 công nhân làm việc tại các
khu vực, ngành dệt may đại diện cho một trong những quan trọng nhất của
người tiêu dùng sản phẩm các ngành công nghiệp tại Đức.Tình hình tiêu thụ
đối với từng nhóm hàng dệt may cụ thể tại Đức:
Trang phục mặc ngoài của nam giới: chiếm 27% thị phần hàng dệt may.
Nhìn chung, nam giới người Đức chi tiêu ít cho các trang phục mặc ngoài và
chỉ dành khoảng 450 Euro/năm cho các mặt hàng này trong khi nữ giới chi
khoảng 750 Euro/năm.Các loại trang phục lót được người tiêu dùng ở độ tuổi
từ 14-19 và 20-29 quan tâm nhiều hơn cả, nhất là những trang phục có thương
hiệu và giá cao.Trong năm 2004, các loại quần âu và quần bò chiếm trên 1/3
doanh số của trang phục mặc ngoài của nam giới. Trong khi đó, áo sơ mi, áo
cộc tay và áo jacket chiếm 1/2, áo vest chiếm 12%. Nam giới người Đức có xu
hướng mỗi năm mua trung bình khoảng hai chiếc áo sơ mi, trong đó số lượng
áo sơ mi để mặc đi làm và áo sơ mi để mặc đi chơi là ngang nhau. Khoảng 1/3
25

×