Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận đường lối cách mạng pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.93 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
HỒ CHÍ MINH , vị anh hùng dân tộc , người đã bôn ba cả đời khắp
năm châu bốn biển để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt nam .
Giữa lúc nước nhà đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước đòi hỏi
phải có một lực lượng lãnh đạo và có một đường lối cách mạng đúng đắn
,một lý luận soi đường .Tất cả đã được giải quyết từ khi Đảng ra đời, đó thật
sự là một bước ngoặt trọng đại cho cách mạng Việt nam .Quá trình vận động
thành lập Đảng là một quá trình đấu tranh và chuẩn bị lâu dài ,toàn diện của
Hồ Chí Minh và những người cách mạng Việt Nam. Trong đó người có vai
trò hàng đầu ,có tác động lớn nhất đến việc thành lập Đảng chính là lãnh tụ
Hồ Chí Minh. Sinh ra trong một gia đình nho học yêu nước,lớn lên trên quê
hương giàu truyền thống yêu nước đấu tranh bất khuất,lại được tiếp nhận sự
giáo dục của gia đình theo tư tưởng yêu nước thương dân …tất cả đã hình
thành cho Nguyễn Ái Quốc lòng căm thù sâu sắc giặc Pháp xâm lược ,thông
cảm với nỗi khổ của nhân dân ngay từ thời niên thiếu.Tuy chịu ảnh hưởng
tinh thần yêu nước của cha anh nhưng bằng trí tuệ thiên tài và sự độc lập
trong suy nghĩ đã tạo cho Người có một tư tưởng và chí hướng hoàn toàn
khác với phong trào yêu nước đương thời. Người đã sớm nhận thấy những
hạn chế,sai lầm của những nhà cách mạng đi trước nên đã chọn cho mình
một hướng đi riêng đó là sang phương Tây để tìm con đường cứu nước.Và
sự lựa chọn đó đã đưa cách mạng Việt nam đến một chặng đường mới,là
mốc đánh dấu và cũng là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt
nam đó là sự ra đời của Đảng cộng sản việt nam.Từ nay cách mạng đã có
người lãnh đạo và có một đường lối rõ ràng, giải quyết được sự khủng hoảng
lớn đang còn tồn tại. Ta hãy đi tìm hiểu vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh
trong việc thành lập Đảng cộng sản Việt nam.
1
NỘI DUNG
I .Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học


lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót
trước cảnh lầm than của đồng bào. Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911. Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu
nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào. Trên lộ trình tìm
đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn.
− Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Nguyễn Ái Quốc
rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo con đường của một người
nào. Trong khi nhiều người còn ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Người đã
vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước khác.
− Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc
cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
Một cuộc khảo sát có một không hai ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp
Nguyễn Ái Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và
người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Càng ngày Người càng hiểu
sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều phụ
nữ nghèo khổ. Nguyễn Tất Thành nói với người bạn “Tại sao người Pháp
không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”.
2
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy
những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực
dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ:” Đối với bọn thực dân, tính mạng của người
thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”.
Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành
một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho
học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm
1917 trở lại Pháp.

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) giết hại biết bao sinh
mạng, phá huỷ vô vàn của cải. Qua đó Nguyễn Ái Quốc càng hiểu thêm bản
chất của chủ nghĩa tư bản.
Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách
mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều.
Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là “những cuộc
cách mạng không đến nơi”.
Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình ở
Vécxây (Pháp) để chia phần. Thay mặt Hội những người Việt Nam yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Trong khi
chờ đợi giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết, Người chỉ đề cập những yêu sách
“tối thiểu” và “cấp thiết”. Tổng thống Mỹ Uynxơn (Wilson), tác giả chương
trình 14 điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng
những yêu sách dù khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng.
Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ “chủ nghĩa Uynxơn chỉ
là một trò bịp bợm lớn. Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông
cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Đầu năm 1919,
Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ,
Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp.
3
Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân, liên lạc
và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.
− Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế
Cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng 1ợi là sự kiện chính trị
lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,
thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với
những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay

cho đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái
Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia
nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn
đến phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con
đường diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngày trong Đảng Xã
hội Pháp: tiếp tục theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương
hay đi theo Quốc tế thứ ba, con đường cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp
Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận
rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố
4
suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết
định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân
tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong những nhà sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát
triển,Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước,
không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc có một
phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với
thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn

đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn
lọc.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể
hiện nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối
cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.
II .Quá trình chuẩn bị về chính trị,tư tưởng và tổ chức của
Nguyễn Ái Quốc cho việc thành lập Đảng
Trở thành người Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước
vạch đường lối chiến luợc cho cách mạng Việt Nam.
Tháng 4-1921, khi còn ở Pháp, trong bài báo Đông Dương, Người phê
phán sai lầm của một số đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển “chưa
quan tâm đến vấn đề thuộc địa''. Tháng 5 năm đó cũng trong bài báo Đông
Dương, Người cho rằng “chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói
5
chung và ở Đông Dương nói riêng”. Người dự đoán “ngày mà hàng trăm
triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê
tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của
chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”
Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở
nhiều nước thuộc địa Pháp lập Hội liên hiệp thuộc địa. Tuyên ngôn của Hội
do Người khởi thảo đã nêu bật tư tưởng tự lực tự cường: “Công cuộc giải
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh
em”.
Hội đã ra tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria).Trong những bài báo
đăng trên báo “Người cùng khổ” Người đã vạch trần chính sách đàn áp bóc
lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức
đứng lên đấu tranh tự giải phóng. Ngoài việc viết bài cho báo “Người cùng

khổ”, Nguyễn Ái Quốc còn viết bài cho các báo Nhân đạo, Đời sống công
nhân. Người đã dự Đại hội lần thứ nhất và thứ hai của Đảng Cộng sản Pháp.
Người tiếp tục chỉ ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết tác phẩm nổi tiếng
“Bản án chế độ thực đân Pháp” nhằm vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc
và kêu gọi “Dân bản xứ không cam chịu nhục được mãi, phải vùng lên”.
Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng
dân tộc .Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp có giá trị lớn về mặt lý luận,
thực tiễn, đồng thời có giá trị về văn học.
Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc phê phán vua Khải Định khi ông ta sang
Pháp dự hội chợ thuộc địa. Qua truyện ngắn “Lời than vãn của Bà Trưng
6
Trắc”, vở kịch “Con rồng tre”, Người lên án ông ta là “đớn hèn, bất lực và
ngu dốt”, cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp.
Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Pêtơrôgrát (Liên Xô). Ở đó,
Người có điều kiện học tập, nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người phát triển thêm những quan điểm chính trị của mình đã hình thành ở
Pháp. Người tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc
Tháng 10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế
Nông dân. Đại hội bầu Người vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân và Ban
Chấp hành cử Người làm uỷ viên Đoàn chủ tịch. Năm 1924, Người dự các
Đại hội của Thanh niên, Phụ nữ quốc tế Công hội đỏ và Đại hội lần thứ V
của Quốc tế Cộng sản. Người tiếp tục phê bình thiếu sót của nhiều đảng
Cộng sản ở Tây Âu về vấn đề thuộc địa và thẳng thắn nêu thiếu sót đó của
cả Quốc tế Cộng sản.
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc)
làm nhiệm vụ đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người cùng với một số nhà cách mạng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị
áp bức Á Đông, do ông Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội trưởng và

Người làm Bí thư và Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Tháng 6-1925, từ nhóm cách mạng đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc thành
lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nhằm tập hợp những thanh niên
yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành lập
Đảng. Người mở những lớp huấn luyện cán bộ và ra tờ báo Thanh niên.
Phần lớn những thanh niên đã được huấn luyện trở về nước hoạt động và số
còn lại sang Liên Xô tiếp tục học tập. Hội đã truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin và đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc vào công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân.
7
Năm 1928, Hội đề ra chủ trương “vô sản hoá”, đưa hội viên vào các
nhà máy, hầm mỏ, đồn điền. Chủ trương này có tác dụng rèn luyện những
người trí thức tiểu tư sản về lập trường giai cấp công nhân và bước đầu kết
hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước.
Hội kết nạp ngày càng nhiều hội viên, năm 1928 có 300 hội viên, năm
1929 có 1.700 hội viên, nếu kể cả hội viên dự bị thì có gần 3.000 người. Từ
năm 1926 đến năm 1929, Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị
trong cả nước, trở thành lực lượng chính trị yêu nước lớn mạnh nhất đất
nước, hoàn thành ý định của người sáng lập hội là chuẩn bị tiền đề cho việc
thành lập Đảng Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc phác thảo đường lối cứu nước từ năm 1921 và thể
hiện tập trung trong tập bài giảng ở lớp chính trị tại Quảng Châu, năm 1927
được in thành sách lấy tên là “Đường Cách mệnh”. Nội dung cơ bản của tác
phẩm như sau:
− Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa
số dân chúng. Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình
trên thế giới, từ Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776 đến Cách mạng tư sản Pháp
năm 1789, từ Công xã Paris năm 1871 đến Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 và sau khi so sánh cách mạng tư sản với cách mạng vô sản, Người

khẳng định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh
đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa
mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
8
Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là
đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là đân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như
đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Nguyễn Ái Quốc nhấn
mạnh: “làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho đân chúng số nhiều, chớ
để trong tay một bọn ít người: Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân
chúng mới được hạnh phúc. Đây là điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ
bản giữa con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu
nước trước kia.
− Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa
xã hội, muốn xoá bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc,
bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng
dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ
mật thiết với nhau.
− Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò,
nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Ai mà bị áp bức càng
nặng, thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người.
− Bốn là: Về phương pháp cách mạng. Cùng với việc hoạch định đường lối
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc phác thảo cả phương pháp cách mạng. Người
cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại là công
việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải “quyết tâm làm thì chắc
được”, “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”. Nhưng phải “biết cách làm thì
mới chóng”. “Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Tiếp theo tư

tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền đề ra từ năm 1924,
trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển thêm: “dân khí mạnh thì
quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”. Đời này làm chưa
9
xong, đời sau nối theo làm thì phải xong”. Về phương pháp cách mạng, quan
điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách mạng bạo lực. Người chỉ ra
những thiếu sót của những người đi trước như “xúi dân bạo động mà không
bày cách tổ chức”, hoặc “làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự
cường”. Tóm lại là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên
làm, lúc nào chưa nên làm.
− Năm là: Đoàn kết quốc tế. “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt Nam”.
“Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh
trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc
tế)”. “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc
tế”.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc nhắc lại khẩu hiệu
của Quốc tế thứ ba “giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới
đoàn kết lại”. Đây là những quan điểm cơ bản về đoàn kết quốc tế mà
Nguyễn Ái Quốc đã viết trong nhiều tác phẩm và Người thực hiện ngay từ
khi gia nhập phong trào Cộng sản quốc tế. Trong quan hệ giữa cách mạng
nước ta với bầu bạn thế giới, Nguyễn Ái Quốc chú ý hai điều:
Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động giành thắng lợi, không ỷ
lại, chờ đợi thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Đó cũng là bài học đoàn
kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của cách mạng nước
ta từ khi Đảng lãnh đạo.
− Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.
10
Ngay từ khi tìm được chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã

nắm vững quy luật, Đảng có vững cách mệnh mới thành công. Muốn cho
Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa ấy
(chủ nghĩa Mác - Lênin). Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí
khôn.
Sáu điểm trên đây là tư tưởng cốt lõi trong con đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc. Không những Nguyễn Ái Quốc nắm vững thực chất chủ
nghĩa Mác - Lênin, mà ngay từ đầu đã biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng nước mình.
Tính khoa học và cách mạng triệt để của đường lối cứu nước do
Nguyễn Ái Quốc đề xướng có sức cuốn hút mạnh mẽ nhiều thanh niên yêu
nước. Trong hai năm 1929 - 1930, phần lớn đảng viên Đảng Tân Việt và một
số đảng viên tiên tiến của Việt Nam quốc dân đảng đã chuyển sang lập
trường của những người cộng sản. Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc
của công nhân đã thắng lập trường giải phóng của tư sản. Thực tiễn lịch sử
chứng minh, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã mở đường giải
quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta, dẫn đến sự ra đời
các tổ chức cộng sản vào nửa cuối năm 1929 và Đảng Cộng sản Việt Nam
đầu năm 1930.
Đối với phong trào cách mạng Trung Quốc, Người tham gia Hội nghị
đầu tiên của đại biểu nông dân Quảng Đông (tháng 5-1925) và Hội nghị lần
thứ hai đại biểu giai cấp công nhân Trung Quốc, tham gia đội diễn thuyết,
ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc với bí danh Lý
Thụy và Vương Đạt Nhân… Thông qua những hoạt động thực tiễn đó,
11
Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện một cách sinh động tinh thần quốc tế vô sản
cao cả.
Trung tuần tháng 11-1927, Người được Quốc tế Cộng sản cử đi Pháp
công tác. Đầu tháng 12-1927, từ Pháp Người đi dự phiên họp mở rộng của
Đại hội đồng Liên đoàn chống đế quốc tại Brúcxen (Bỉ). Đầu tháng 6-1928,
Nguyễn Ái Quốc rời Béclin đi Xiêm.

Từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở
Xiêm (từ năm 1938 gọi là Thái Lan), xây dựng lực lượng cách mạng trong
Việt kiều yêu nước và tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào
đấu tranh cách mạng, gây ảnh hưởng về trong nước.
Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Sự phát triển
cả bề sâu và bề rộng của phong trào cách mạng trong cả nước đã đặt ra một
yêu cầu bức thiết, đòi hỏi sự lãnh đạo của một chính đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân. Trong bối cảnh đó, những phần tử tiên phong trong phong
trào cách mạng đã nhận thức được tình hình, và đứng ra thành lập những tổ
chức cộng sản đầu tiên vào nửa cuối năm 1929 đầu năm 1930.
Ngày 17-6-1929, Hội nghị các đại biểu tiên tiến trong tổ chức Thanh
niên Bắc Kỳ đã họp, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, ra
Chính cương, Tuyên ngôn, nêu rõ đường lối của Đảng là phải làm cách
mạng dân chủ tư sản do giai cấp vô sản lãnh đạo,tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa, thực hành công – nông liên hiệp. Sự ra đời của Đông Dương
Cộng sản Đảng đã thúc đẩy phong trào cộng sản ở trong nước phát triển
mạnh.
Tiếp đến An Nam Cộng sản Đảng đã ra đời (8-1929) và đến tháng 10-
1929, An Nam Cộng sản Đảng đã họp tại Sài Gòn, cử ra Ban lâm thời chỉ
đạo của Đảng và ra Điều lệ.
12
Trong quá trình chuyển hoá chung dưới tác động của luồng gió cách
mạng của thời đại theo chủ nghĩa Mác – Lênin, trực tiếp là tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc, phong trào công nhân, nhất là của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, tháng 9-1929 những đảng viên ưu tú trong Đảng Tân Việt
ra tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Như vậy, trong nước đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản, đều ra Tuyên
ngôn, Chính cương và Điều lệ, đều khẳng định mục tiêu đấu tranh cho lý
tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đều tuyên bố đi theo chủ nghĩa cộng sản, đều

muốn được Quốc tế Cộng sản công nhận. Sự tồn tại ba tổ chức cộng sản biệt
lập, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau trong một đất nước, đã dẫn đến nguy cơ
chia rẽ, phân liệt của phong trào đấu tranh cách mạng. Yêu cầu cấp bách của
cách mạng Việt Nam lúc này là phải chấm dứt tình trạng chia rẽ giữa các tổ
chức cộng sản, thống nhất các tổ chức đó thành một đảng cộng sản duy nhất
trong cả nước.
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm và ngày 23-12, Người đến
Trung Quốc, gặp gỡ những chiến sĩ cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở
đây để tìm hiểu thêm tình hình. Sau đó, Người đi Hồng Kông, chuẩn bị công
việc cho hội nghị hợp nhất.
III .Hội nghị thành lập Đảng
Tại Cửu Long, Hồng Kông, từ ngày 6-1-1930, Hội nghị hợp nhất các
tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc.
Tham dự hội nghị có 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng ,2 đại biểu
của An Nam Cộng sản Đảng. Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã thành lập,
song chưa có liên hệ, nên chưa cử được đại biểu tới dự. Hội nghị hợp nhất
diễn ra khẩn trương, thuận lợi và đạt được sự nhất trí hoàn toàn, trên cơ sở
bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt,Chương
13
trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Các văn kiện này trở
thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp,
có giá trị như một đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân cả
nước: thời kỳ giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng ở vị trí
trung tâm, lãnh đạo phong trào cách mạng. Đường lối đúng đắn của Đảng
được thông qua tại Hội nghị hợp nhất đã quyết định nội dung, phương pháp,
bước đi của cách mạng Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc

đấu tranh vì độc lập, tự do, cùng các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng
dân tộc, xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần giải
phóng loài người khỏi bóc lột và bất công.
Việc tổ chức thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, và việc soạn thảo cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự sáng tạo của
mình trong cả hoạt động lý luận và thực tiễn.
Đánh giá về sự kiện trọng đại này trong lịch sử cách mạng Việt Nam
hiện đại,Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”
14
KẾT LUẬN
Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương sáng
về tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất khuất, toàn tâm toàn ý phục
vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hy sinh suốt đời
phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng
loài người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản.
Muốn cách mạng thành công thì điều kiện không thể thiếu là phải có một
chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Hiểu được sự bức thiết phải thành lập một
chính đảng để phục vụ việc giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc và các
đồng chí của mình đã chuẩn bị rất chu đáo về tư tưởng chính trị và tổ chức
và đến ngày 3-2-1930, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp
chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đó là việc thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc, Người là cha đẻ
của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc
lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, giữa chủ nghĩa yêu nước nồng
nàn với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống

của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách
mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin. Người
15
đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và rèn luyện Đảng ta thành một đảng
cách mạng chân chính của giai cấp công nhân.
Nguyễn Ái Quốc có vai trò rất lớn đối với việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Người đã chuẩn bị đầy đủ và thành công về tư tưởng, chính trị và
tổ chức cho việc thành lập Đảng. Qua quá trình chuẩn bị ấy đã thể hiện sự
vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Chủ nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn Ái
Quốc phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. …
THAM KHẢO
1.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng CS Việt Nam
/>%E1%BB%92-CHI-MINH-TRONG-VI%E1%BB%86C-THANH-L
%E1%BA%ACP-%C4%90%E1%BA%A2NG-CSVN
/>%E1%BB%85n-%C3%A1i-qu%E1%BB%91c-trong-vi%E1%BB%87c-chu
%E1%BA%A9n-b%E1%BB%8B-th%C3%A0nh
2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Bước ngoặc lịch sử quan trọng của cách
mạng nước ta
/>co_id=30260&cn_id=189972
3.Hồ Chí Minh
16
/>4. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm "Đường Kách mệnh"
/>Kach-menh/75164916/157/
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG
17
I .Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc…… 2
II .Quá trình chuẩn bị về chính trị,tư tưởng và tổ chức
của Nguyễn Ái Quốc cho việc thành lập Đảng……………………5

III .Hội nghị thành lập Đảng………………………………… … 13
KẾT LUẬN 15
THAM KHẢO 16
18

×