Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận '''''''' phát triển nông thôn bền vững ở nước ta ''''''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.93 KB, 26 trang )


ĐỀ TÀI
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN BỀN VỮNG Ở
NƯỚC TA

Giáo viên hướng dẫn :
Họ tên sinh viên :

Thành tựu chủ yếu đạt được về phát triên nông nghiệp, nông thôn, của nước ta trong thời kì Đổi mới
đến nay như sau : 7
Nông nghiệp +ếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng 7
Tiến bộ kĩ thuật được áp dụng rộng rãi, công nghiệp chế biến được +ếp tục phát triển góp phần thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 8
Kinh tế nông nghiệp phát triển theo hương tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề đã góp phần tạo việc
làm và tăng thu nhập cho dân cư nông nghiệp, nông thôn 8
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc
đẩy phát triển sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn 8
I- MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết
Ở bất cứ đất nước nào, dù là nước nghèo hay nước giàu nông nghiệp đều có vị
trí quan trọng. nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất chủ yếu của nền kinh tế
cung cấp những sản phẩm thiết yếu như lương thực, thực phẩm cho con người tồn
tại. Trong quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp cấn được phát triển để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng về lương thực và thực phẩm của xã hội. vì thế, sự ổn định
xã hội và mức an ninh về lương thực và thực phẩm của xã hội phụ thuộc rất nhiều
vào sự phát triển của nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con
người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những
mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện tại cũng như
trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã


hội loài người, không ngành nào có thể thay thế được. Trên 40% số lao động trên
thế giới đang tham gia vào hoạt động nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương thực là
mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, góp phần ổn định chính trị, phát triển nền
kinh tế. Xã hội càng phát triển vai trò của nông nghiệp càng được coi trọng. Ở các
nước phát triển, nông nghiệp có tính đa chức năng. Chức năng cơ bản của nông
nghiệp bao gồm chức năng kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và chính trị. Chức
năng kinh tế và môi trường đã dược thảo luận ở trên .Chức năng xã hội của nông
nghiệp thể hiện ở chỗ đây là sinh kế kiếm sống của đại bộ phận cư dân nông
thôn ,gắn với các truyền thống văn hóa và xã hội của mỗi vùng miền. Chức năng
văn hóa hóa vật thể và phi vật thể .
Trong thời đại ngày nay thật là không đầy đủ nếu chúng ta chỉ nói đến phát
triển và tăng trưởng, những bài học trong các giai đoạn phát triển vừa qua đã cho
thấy những hạn chế, khiếm khuyết trong các lý thuyết phát triển và cái giá phải trả
cho sự phát triển đó mà loài người đang phải nỗ lực giải quyết đặc biệt là những
tổn thương về môi trường làm suy giảm các nguồn tài nguyên. Có thể nói rằng sự
phát triển´nông nghiệp nông thôn theo các mô thức cũ dù là truyền thống hay hiện
đại đều bộc lộ những hạn chế nhất định về kinh tế, xã hội và môi trường đe dọa sự
tồn vong của loài người, đòi hỏi cần có một phương thức phát triển mới – Phương
thức phát triển bền vững.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực để xóa đói giảm
nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động nói chung và khu vực nông
thôn nói riêng. Nông nghiệp, nông thôn cả nước đang phát triển mạnh mẽ cả chiều
rộng lẫn chiều sâu. Nông nghiệp ổn định sẽ là nền tảng chính trị cho mỗi một quốc
gia.
Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo điều kiện cho đất nước bước vào giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội do đó một nền
nông nghiệp bền vững là nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2 - Phạm vi nghiên cứu:
Phát triển nông nghiệp bền vững là một khái niệm rất rộng ,do đó nghiên cứu về
nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi một ngành, một địa phương, một khu vực, một

lĩnh vực mà đòi hỏi nghiên cứu tìm hiểu trên phạm vi tất cả các ngành, lĩnh vực
liên quan đến nông nghiệp, nông thôn cả nước.
1.3 - Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu về những đặc điểm, đặc trưng của phát triển nông nghiệp bền vững,
cũng như thực trạng phát triển nông thôn bền vững ở nước ta. Từ đó rút ra thuận
lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện và đưa ra các giải pháp cho phát triển nông
nghiệp bền vững thời gian tới.
II- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập số liệu thứ cấp trên mạng internet, tạp chí, bài giảng, giáo trình liên
quan.
2.2. Phương pháp xử lý thông tin:
• Phương pháp thống kê mô tả: Dùng các số liệu và thông tin thu thập được
tiến hành phân tích và mô tả tình hình phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta
• Phương pháp thống kê so sánh: Phương pháp này dùng để thống kê, so sánh
số liệu của ngành nông nghiệp nước ta qua các năm.
III - NỘI DUNG
3.1Cơ sở lý luận và thực tiễn
3.1.1. Các khái niệm liên quan:
• Phát triển:
Phát triển là khái niệm dùng để khái quát những vận động theo chiều hướng
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời thay thế cái lạc hậu.
• Nông thôn:
Nông thôn là vùng sinh sống của tập hơp dân cư trong đó có nhiều nông
dân.Tập hợp này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức
khác, phân biệt với đô thị.
• Phát triển nông thôn:
Phát triển nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững về

kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của dân cư
nông thôn. Quá trình này, trước hết chính là do người dân nông thôn với sự hỗ trợ
của Nhà nước và các tổ chức khác.
• Phát triển bền vững:
Phát triển bền vững là một quá trình phát triển hài hòa với điều kiện xã hội
và điều kiện tự nhiên, từ đó có thể gia tăng khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của thế hệ hiện tại nhưng không làm phương hại đến khả năng đáp ứng nhu
cầu của thế hệ tương lai.
Phát triển bền vững phải đảm bảo 3 mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường.
• Phát triển nông nghiệp bền vững:
Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ
chức và kỹ thuật nhằm bảo đảm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người
cả cho hiện tại và tương lai. Sự phát triển như vậy của nền nông nghiệp sẽ không
làm ảnh hưởng đến môi trường, không giảm cấp tài nguyên, phù hợp về kỹ thuật
và công nghề, có hiệu quả kinh tế và được xã hội chấp nhận.
3.1.2. Đặc trưng của phát triển nông nghiệp bền vững
Phát triển nông nghiệp - nông thôn bền vững là quá trình đa chiều bao gồm:
(i) Tính bền vững của chuỗi lương thực (từ người sản xuất đến tiêu thụ, liên
quan trực tiếp đến cung cấp đầu vào, chế biến và thị trường).
(ii) Tính bền vững trong sử dụng tài nguyên đất và nước về không gian và thời
gian.
(iii) Khả năng tương tác thương mại trong tiến trình phát triển nông nghiệp và
nông thôn để đảm bảo cuộc sống đủ, an ninh lương thực trong vùng và giữa các
vùng.
Ủy ban Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc đã đưa ra 4 đặc trưng của phát
triển nông nghiệp bền vững như sau:
 Nuôi dưỡng các nguồn tài nguyên toàn thế giới cho thế hệ ngày nay và mai
sau.
 Áp dụng mỗi nơi một cách làm nông nghiệp địa phương.
 Bảo đảm công bằng kinh tế và công bằng xã hội.

 Phân phối một cách công bằng quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên và sản
phẩm sản xuất ra.
3.2. Kết quả nghiên cứu
3.2.1. Tình hình nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, khu vực nông thôn việt nam đã có sự
thay đổi rõ nét. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, hoạt động dịch vụ phát
triển mạnh, hình thành và phát triển các mô hình kinh tế mới (khu công nghiệp,
trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân) hoạt động có hiệu quả
thu hút nhiều lao động nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm cho nền kinh tế. Kết cấu
kinh tế - xã hội ở nông thôn có nhiều thay đổi, hệ thống điện, đường trường trạm,
cơ sở y tế, nước sạch, môi trường được quan tâm và đẩy mạnh. Công tác xóa đói
giảm nghèo đạt thành tựu đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mặc dù việc xây dựng và
thực hiện các chương trình phát triển đối với một số ngành nông nghiệp mới được
tiến hành trong thời gian chưa lâu nhưng kết quả đã cho thấy tốc độ phát triển
nhanh, đạt hiệu quả cao và cùng lúc đạt được nhiều mục tiêu như cải thiện đời sống
nông thôn, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp phần phủ xanh đất trống đồi trọc, trọng ổn
định tình hình chính trị, kinh tế- xã hội , xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống
của nhân dân v.v…
Thành tựu chủ yếu đạt được về phát triên nông nghiệp, nông thôn, của nước ta
trong thời kì Đổi mới đến nay như sau :
 Nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng nâng cao
năng suất, chất lượng.
 Tiến bộ kĩ thuật được áp dụng rộng rãi, công nghiệp chế biến được tiếp tục
phát triển góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn.
 Kinh tế nông nghiệp phát triển theo hương tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành
nghề đã góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông nghiệp, nông
thôn.
 Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi,
giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn.

Trong quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu
đáng mong đợi. Mức tăng trưởng sản xuất duy trì ở mức 4,8% liên tục trong 10
năm. Nhiều lĩnh vực sản xuất được mở rộng về diện tích cũng như tăng trưởng về
sản lượng như gạo, cà phê, chế biến thủy hải sản, tạo ra một khối lượng hàng hóa
lớn phục vụ cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ví dụ như ngành lúa gạo, từ một
nước nhập khẩu gạo Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về xuất
khẩu gạo. Sản lượng gạo tăng liên tục từ mức 16 triệu tấn/năm (1986) lên mức 19,2
triệu tấn/năm (1990) và 38,9 triệu tấn/năm (2009), tăng gấp 2,4 lần sau hơn 20 năm
đổi mới. Tính riêng trong các năm 2008 và 2009, sản lượng và giá trị các loại cây
trồng, đặc biệt là những cây tạo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu như: cà phê tăng
40,4%, cao su tăng 37%, chè tăng 33,3% điều tăng 28,3% so với năm 2005. Tỷ
trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP luôn chiếm trên 30%
trong giai đoạn 1986 – 1990 và giảm dần trong các giai đoạn tiếp sau theo xu
hướng tích cực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nông nghiệp đã góp phần
không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu với giá trị xuất khẩu tăng bình quân trên 10%
năm. Nếu như năm 1995, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông lâm thủy sản của
khu vực nông nghiệp chỉ đạt 2,5 tỷ USD thì đến cuối năm 2009, ước đạt 13,2 tỷ
USD, cao gấp 5 lần so với năm 1995. Trong 24 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả
nước thì nông lâm thủy sản đã đóng góp tới 11 mặt hàng, chiếm gần ½ số mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam trong đó có những mặt hàng được xem là hàng chủ lực
như gạo, cà phê, cao su, gỗ, với kim ngạch trên 1 tỷ USD. Cùng với việc mở rộng
thị trường xuất khẩu, nhiều mặt hàng nông sản gia tăng thị phần và chiếm vị thế
cao trên thị trường thế giới, như hạt điều, hạt tiêu chiếm vị trí thứ nhất, lúa gạo, cà
phê đứng thứ hai, cao su đứng thứ tư, chè đứng thứ năm và thủy sản đứng thứ bảy
trong nhóm các nước sản xuất mặt hàng này. Khu vực nông nghiệp đã góp phần
giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tiếp tục là ngành chính tạo ra
thu nhập cho người nghèo. Tính đến cuối năm 2009, khu vực nông nghiệp, nông
thôn có 15,57 triệu hộ gia đình (chiếm 69,37% tổng số hộ gia đình của cả nước) và
dân số là 60,41 triệu người (chiếm 70,37% tổng số dân cả nước), có trên 24 triệu
lao động đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm tỷ trọng gần 60% tổng

số lao động đang làm việc trong các khu vực kinh tế của cả nước. Một nền nông
nghiệp hướng vào sản xuất hàng hóa đã bước đầu hình thành. Diện tích gieo trồng
các loại cây trồng mà sản phẩm tạo ra dành nhiều cho xuất khẩu hoặc phục vụ trực
tiếp cho người tiêu dùng trong nước đã tăng lên như diện tích các loại cây rau, quả,
cây công nghiệp ngắn ngày có hướng tăng nhẹ khoảng 2-4%/năm. Diện tích các
cây lâu năm tăng gần 80 nghìn ha riêng trong năm 2009 do giá xuất khẩu một số
nông sản này tăng. Những dịch chuyển này đã tạo ra sự hình thành các vùng
chuyên canh, đặc biệt là vùng sản xuất các loại cây rau, quả xuất khẩu như vải,
bưởi, sầu riêng, na, xoài, thanh long,… cùng với sự hình thành các mô hình sản
xuât hàng hóa nông sản lớn. Bên cạnh đó thì những cây trồng có định hướng phục
vụ cho các ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm chỉ tiêu dùng nội địa thể hiện
sự khó khăn, không có năng lực phát triển như cây mía đường, bông, cây thức ăn
gia súc. Một nét mới trong phát triển nông nghiệp là đã xuất hiện một số mô hình
tổ chức sản xuất kiểu mới như kinh tế trang trại, cao su tiểu điền, cà phê nhân dân,
tổ hợp tác tự nguyện, hợp tác xã kiểu mới làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Tính đến
năm 2009, cả nước đã có 135.437 trang trại, trong đó có 39.769 trang trại trồng cây
hàng năm, 23.880 trang trại trông cây lâu năm, 20.809 trang trại chăn nuôi và
35.489 trang trại nuôi trồng thủy sản, tập trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng
Sông Cửu Long. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã dịch vụ trong nông nghiệp cũng là
một nét mới đáng ghi nhận trong tổ chức sản xuất nông nghiệp hiện nay.
3.2.2. Tình hình và thực trạng của PTNN BV ở nước ta
Trong những thập niên cuối của thế kỷ 20, những vấn đề đặt ra chủ yếu tập
trung vào sản xuất nông nghiệp: bảo vệ môi trường đất, nước và khởi xuớng một
số hệ thống canh tác bền vững. Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo
một hệ thống bền vững về sinh thái, có tiềm lực về kinh tế, có khả năng thoả mãn
những nhu cầu của con người mà không huỷ diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi
trường. Thông tin về các mô hình canh tác tổng hợp, canh tác bền vững trên đất
dốc, phòng trừ sâu bệnh tổng hợp….
Trong điều kiện toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực và
năng lượng đã trở thành các vấn đề nghiêm trọng như hiện nay, khu vực nông

nghiệp nông thôn nhất là tại các quốc gia có số dân sống dựa nhiều vào nông
nghiệp như Việt Nam tiếp tục được xác định là có vai trò đặc biệt quan trọng trong
đời sống kinh tế xã hội. Trước tình hình đó việc định hướng phát triển theo phương
thức bền vững là rất cần thiết. Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong lĩnh
vực nông nghiệp nông thôn, Đảng ta vẫn xác định: “Hiện nay và trong nhiều năm
tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt
quan trọng. Phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh cao; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện từng bước hình
thành nền nông nghiệp sạch…; Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới,
giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền,
góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X ngày 25/4/2006).
3.2.2.1. Những thuận lợi và khó khăn
a. Thuận lợi
Trong thời kỳ đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi
bật, duy trì tốc độ tăng trưởng đều và ổn định, thể hiện được lợi thế so sánh của
Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong thời gian qua
nông nghiệp đã thực sự trở thành chỗ dựa cho nền tảng công nghiệp và dịch vụ,
góp phần quan trọng vào việc đảm bảo ổn định xã hội ở nước ta.
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng nhanh và ổn định. Cơ cấu sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã từng bước được đổi mới theo hướng hiệu
quả hơn nhằm phát huy thế mạnh của từng vùng, gắn kết hơn với thị trường tiêu
thụ nông sản. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng trung bình 5,5% mỗi năm. Có được
những điều này cũng một phần là do nông nghiệp Việt Nam đã có được nhiều điều
kiện thuận lợi. Những thuận lợi đó có thể được phân theo các nhóm như sau:
• Thứ nhất, nhóm các yếu tố bên trong như là điều kiên tự nhiên, con
người…
 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận lợi với khí hậu nhiệt đới

gió mùa cho phép nước ta phát triển một nền nông nghiệp đa dạng về cơ cấu cây
trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với từng vùng miền trên cả nước.
 Môi trường sinh thái ở nông thôn hiện nay đã được đầu tư quan tâm bảo vệ,
môi trường nông thôn từng bước được bảo vê, phục hồi và phát triển tạo điều kiện
cho nông nghiệp phát triển một cách bền vững.
 Lao động nông nghiệp nước ta dồi dào có khả năng học hỏi nhanh và sáng
tạo ra những máy móc phục vụ sản xuất cùng với truyền thống và tập quán cần cù
chịu khó của người nông dân trong sản xuất nông nghiệp sẽ nâng cao hiệu quả của
hoạt đông nông nghiệp.
• Thứ hai là nhóm các yếu tố hỗ trợ từ bên ngoài như là các chính sách
của nhà nước hay khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất, phát triển nông
nghiệp. Các yếu tố này bao gồm:
 Hệ thống chính trị ở nông thôn do Đảng lãnh đạo đã được tăng cường, dân
chủ cơ sở đã từng bước được phát huy, vị thế giai cấp nông dân đã được nâng cao,
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đã được giữ vững tạo điều kiên để nông dân
yên tâm sản xuất . Nông nghiêp luôn nhận được sự quan tâm của các cấp chính
quyền, thể hiện qua các chính sách và các chương trình hỗ trợ phát triển sản xuất
nông nghiệp.
 Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã được tăng cường, nhất là
thủy lợi, giao thông, góp phần cải thiện cơ sở ở nông thôn,gần đây ngân hàng phát
triển Châu Á (ADB) đã cho Việt Nam vay 210 triệu USD để phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn và các chương phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng núi phía
Bắc.
 Trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, mức độ cơ giới hóa nông nghiệp
từng bước được cải thiện như là việc áp dụng rông rãi khoa học kỹ thuật vào trong
sản xuất, cơ khí hóa nông nghiệp có bước tiến bộ.Đến nay, nhiều khâu trong sản
xuất nông nghiệp đạt tỷ lệ cơ giới hóa cao như: làm đất đạt 70%, tưới tiêu nước đạt
85%, tuốt lúa 83,6%, phát triển mạnh máy gặt đập liên hợp phục vụ thu hoạch lúa.
 Việc ứng dụng khoa học- công nghệ, thực hiện tốt công tác thủy lợi làm tiền
đề để các giống lúa mới thích nghi phát triển, tạo ra đột phá thật sự to lớn về sản

lượng nông sản cũng là một yếu tố quan trọng đẫn đến những kết quả khả quan
cho nông nghiệp nước ta trong thời gian qua. Nhiều năm qua, chúng ta đã tạo ra
được những bộ giống cây trồng phong phú, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của
sản xuất ở các vùng sinh thái, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao
tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thi trường trong nước và trên thế giới.
Nhiều giống cây trồng đã bắt đầu được nghiên cứu một cách có hệ thống, tính xã
hội hóa của ngành giống cây trồng đã được phát huy tốt.
• Thứ ba là nhóm các yếu tố về thị trường, các yếu tố này bao gồm:
 Nước ta sau gia nhập vào WTO nông nghiệp Việt Nam có 3 cái được. Thứ
nhất, thị trường nông sản mở rộng, hàng hóa nông sản có thể bán trong nước và
cho các nước thành viên khác. Thứ hai, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ tăng
mạnh đặc biệt là vào lĩnh vực nông nghiệp, nhờ vậy sẽ thúc đẩy nền nông nghiệp
Việt Nam phát triển mạnh lên. Thứ ba là bà con nông dân sẽ có dịp tiếp cận những
tiến bộ khoa học kỹ thuật mới ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn và sâu rông hơn.
 Quy mô thị trường trong nước đã ngày một lớn hơn, thu nhập của người dân
ngày càng gia tăng. Do đó thị trường nội địa có khả năng sẽ trở thành nơi tiêu thụ
được một lượng lớn các sản phẩm mà ngành nông nghiệp sản xuất ra.
 Đặc biệt là sau khi gia nhập WTO các sản phẩm nông nghiệp có cơ hội được
tiếp cận với các thị trường Mỹ, Nhật, EU một cách thuận lợi hơn vì trước đây
nông sản Việt Nam khó vào được các thị trường này vì thuế cao và bị phân biệt đối
xử. Đây chính là một thuận lợi để phát triển nông nghiệp nếu như chúng ta biết tận
dụng tốt.
b. Khó khăn
Trong quá trình phát triển của mình bên cạnh những thuận lợi thì nông nghiệp
nước ta vẫn luôn tồn tại các khó khăn riêng. Những khó khăn đó bao gồm:
• Nhóm các yếu tố bên trong bao gồm các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên
và con người
 Thiên tai thường xuyên xảy ra hàng năm gây thiệt hại nặng nề: bảo, lũ lụt,
hạn hán,sự thay đổi khí quyển với hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ địa cầu ấm đần lên
làm băng tan ở hai cực sẽ tạo nguy cơ ngập lụt ở những vùng thấp( như đồng bằng

Sông Cửu Long).
 Nhiều loại dịch bệnh như dịch rầy nâu, đạo ôn trên lúa đang gây nhiều khó
khăn cho việc sản xuất lúa ở nước ta vì hậu quả mà nó mang lại là rất nặng nề .
Hiện nay theo khuyến cáo của các chuyên gia nông nghiệp, nếu 10% diện tích sản
xuất lúa chính bị nhiễm bệnh thì Việt Nam sẽ phải ngưng xuất khẩu gạo để đảm
bảo an ninh lương thực và nếu tỷ lệ đó vượt quá 30% thì chúng ta sẽ phải nhập
khẩu gạo. Không chỉ ngành trồng trọt mà ngành chăn nuôi cũng gặp không ít các
khó khăn như bệnh lở mồm long móng, heo tai xanh, cúm gia cầm liên tục bùng
phát gây thiệt hại cho người chăn nuôi, chính vì vậy mà nông nghiệp Việt Nam
luôn đứng trước những thách thức vô cùng lớn.
 Tính chất nhiệt đới gió mùa của nước ta làm tăng thêm tính chất bấp bênh
vốn có của nông nghiệp. Trong thời gian qua trên khắp các vùng sản xuất nông
nghiệp phía Bắc của nước ta đã trải qua những đợt rét gây ảnh hưởng không nhỏ
cho ngành nông nghiệp như:
Tại Lai Châu trong thời gian qua ngành chăn nuôi đã gặp nhiều khó khăn do các
đợt rét đậm, rét hại làm cho số trâu, bò, dê, ngựa, lợn chết lên đến 1.456 con hay
tại Hải Dương cũng các đợt rét này đã gây ảnh hưởng không chỉ đến tiến độ gieo
trồng mà còn gây ra các bệnh như táp lá, vàng lá, rễ kém phát triển và làm cho mạ
chết tập trung.
 Tình trạng sử dụng hóa chất tràn lan trong nông nghiệp hiện nay cũng rất
đáng báo động đẫn đến nguy cơ đất nông nghiệp bị thoái hóa, bạc màu. Trong khi
đó, các công ty trong lĩnh vực chế phẩm sinh học của ta lại rất yếu, nhiều sản phẩm
nhập từ nước ngoài về đã quá hạn sử dụng hoặc đã bị cấm sử dụng trên thế
giới,chính vì vậy mà gây khó khăn thêm cho phát triển nông nghiệp.
 Không những vậy diện tích đất canh tác nông nghiệp mỗi năm mỗi giảm,
trong khi đó năng suất lao động nông nghiệp rất thấp, cơ cấu kinh tế nông thôn tuy
có thay đổi nhưng chưa đáng kể. Diện tích đất nông nghiệp bình quân trên đầu
người của nước ta khá thấp chỉ có 0,1 ha/ người, chỉ bằng 1/3 mức binh quân của
thế giới. Bên cạnh đó thì các nguồn lực về sinh học đa dạng, phong phú chưa được
khai thác.

 Một khó khăn nữa đó là nhận thức của nhiều người về vai trò của nông
nghiệp hiện nay vẫn chưa tương xứng với sự đóng góp quan trọng của lĩnh vực này
đối với quá trình phát triển kinh tế- xã hội của nước ta. Dường như công nghiệp và
dịch vụ chưa coi trọng thị trường nông nghiệp nói chung.
 Sản xuất nông nghiệp ở một số vùng của nước ta còn mang nặng tính tự phát
của người dân , trong khi sự định hướng, hỗ trợ, tư vấn rõ ràng của nhà nước,
chính quyền địa phương còn thiếu. Đó thật sự là lo ngại khi để “người nông dân tư
duy trên mảnh đất của mình”. Thói quen “ phường hội”, nặng về lợi trước mắt dẫn
đến chỗ người dân phá lúa chuyển sang nuôi trồng thủy sản tràn lan.
 Đời sống của người nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nghèo. Dù
chúng ta đã đạt được nhiều thành quả về xuất khẩu lúa gạo và các nông sản phẩm
khác nhưng nông dân trồng chúng thì vẫn là những người nghèo về vật chất và tinh
thần. Mặc dù sản lượng lương thực mỗi năm lại tăng hơn 1 triệu tấn nhưng thu
nhập của nông dân thì vẫ chưa được cải thiện bao nhiêu.
 Điều đáng lo ngại nhất là nguồn lao động nông nghiệp tuy dồi dào nhưng lao
đông qua đào tạo chỉ chiếm 24%, ở nông thôn nơi trực tiếp sản xuất chỉ có 13%.
Trình độ canh tác của đại bộ phận người dân tham gia sản xuất nông nghiệp còn
thấp và chưa đáp ứng được với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Ngoài ra, đặc điểm chung trong sản xuất nông nghiệp ở các
huyện miền núi nước ta hiện nay có trình độ, tập quán canh tác của người dân còn
thấp, hầu hết chưa theo đúng khung thời vụ nên ảnh hưởng rất nhiều đến năng
suất, chất lượng của các mặt hàng nông sản.
 Nông nghiệp Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn của sự phát triển
kinh tế như: quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ lạc hậu, năng suất, độ
đồng đều, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng hợp tác liên kết của nông dân
Việt Nam nói chung còn yếu.Đây là yếu tố khiến ngành nông nghiệp Việt Nam
không thể đáp ứng được những đơn đặt hàng với số lượng lớn.
• Nhóm các yếu tố bên ngoại tác động đến nông nghiệp, bao gồm các yếu
tố sau.
 Công tác bảo vệ thực vật và thú y, công tác khuyến nông, đặc biệt đối với

khuyến nông cơ sở chưa được đầu tư đúng mức.
 Việc phòng chống thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi luôn luôn
là nhiệm vụ quan trọng tuy nhiên lại chưa được thực hiện tốt.
 Đã có các chính sách cắt giảm thuế cho nông nghiệp nhưng khi thực hiện lại
thiếu những biện pháp rào cảng kỹ thuật gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngành chăn
nuôi nước nhà.Một ví dụ là vào năm 2009, chính sách cắt giảm thuế của nhà nước
ta đã tạo khe hở cho các loại thịt và nội tạng gia súc, gia cầm nhập khẩu ồ ạt vào
Việt Nam.
 Việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học –công nghệ chưa tương xứng
với yêu cầu phát triển nông nghiệp, sự hạn chế trong nghiên cứu giống cây trồng
dẫn đến khả năng cạnh tranh về phẩm chất nông sản của một số cây giống còn
kém, công nghệ hạt giống chưa tiếp cận đầy đủ với trình độ cao của thế giới. Một
số chương trình lai tạo giống thiếu các bước nghiên cứu cơ bản, thiếu định hướng
và chưa tiếp cận với trình độ của thế giới.
 Sản xuất nông nghiệp là ngành cần sử dụng nhiều các chế phẩm sinh học,
tuy nhiên các công ty hoạt động trong lĩnh vực này của nước ta lại rất yếu, không
đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất do đó đã phải nhập nhiều sản phẩm từ nước ngoài
về, những sản phẩm này có thể đã hết hạn sử dụng hoạt đã bị cấm sử dụng trên thế
giới, chính vì vậy mà đã gây thêm khó khăn cho phát triển nông nghiệp.
• Nhóm các yếu tố thị trường.
 Các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp vẫn chưa phát triển, tỷ lệ thất thoát
sau thu hoạch còn cao. Nông nghiệp thiếu máy móc thiết bị, phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật, thuốc thú y…dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, vận tải, kho bãi, viễn thông
tăng trưởng chậm, giao thông nông thôn tuy đã được đầu tư nhưng chưa thật nhiều.
Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu
thị trường trong nước. Công nghệ và dịch vụ sau thu hoạch chưa phát triển, tỷ lệ
thất thoát sau thu hoạch của lúa từ 12% đến 14%, rau quả 30% ,tỷ lệ này là rất lớn.
 Dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp nông thôn không
theo kịp đà tăng trưởng kinh tế toàn xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng, thủy lợi phục
vụ tưới tiêu hoặc còn thiếu hoặc chưa được sử dụng hợp lý, bị hư hỏng do mưa lũ

nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.
 Một khó khăn nữa của ngành nông nghiệp là giá cả vật tư nông nghiệp ngày
càng gia tăng trong khi giá thành sản phẩm tăng rất ít hoặc không tăng khiến người
sản xuất có thu nhập rất thấp làm cho người nông dân có xu hướng chuyển đổi
sang các loại giống cây trồng,vật nuôi cho thu nhập cao hơn gây ảnh hưởng đến cơ
cấu sản xuất của nông nghiệp.
 Chất lượng nông sản cũng là một khó khăn của nông nghiệp Việt Nam. Mặc
dù nông nghiệp là ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta và là ngành duy nhất có
thạng dư xuất khẩu nhưng giá trị xuất khẩu nông sản của nước ta lại không cao vì
các sản phẩm nông sản của ta xuất khẩu ra thị trường thế giới chủ yếu là các nông
sản thô, hàm lượng chất xám trong sản phẩm là rất ít nên giá cả không cao. Một ví
dụ là sau 3 năm gia nhập WTO ngành thủy sản nước ta đã phải đối đầu với các vụ
kiện liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm gây ảnh hưởng không.
 Khó khăn nữa là khi gia nhập WTO thì nông nghiệp của chúng ta lại thiếu
thông tin về thị trường, thiếu các hiểu biệt về pháp luật thương mại quốc tế nên khi
gặp các vân đề thì phải dựa vào hiêp hội giúp đỡ nhưng trên thực tế thì hiệp hôi lại
chưa đủ mạnh để bảo vệ.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp nước ta theo hướng sản xuất hàng hóa,
cần phát huy cao độ những mặt thuận lợi, hạn chế tối đa những khó khăn nhằm
đăm bảo cho nông nghiệp nước ta có sự phát triển nhanh và bền vững
3.2.3 Nguyên nhân
Nguyên nhân rõ nhất khiến nông nghiệp nước ta phát triển chậm lại là sự
manh mún. Trước tiên manh mún về đất sản xuất. Theo số liệu của Bộ Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn, cả nước hiện có khoảng 95 triệu mảnh đất nông
nghiệp với tổng diện tích 9,4 triệu ha. Sự manh mún ở từng địa phương có khác
nhau, có hộ ở tỉnh Vĩnh Phúc có đến 47 mảnh, tỉnh Hà Nam 37 mảnh. Đất manh
mún nên đầu tư vào nông nghiệp gặp rất nhiều trở ngại và luôn thấp. Một hộ có
bình quân 0,57ha đất, hàng năm đầu tư chủ yếu vào thủy lợi.
Đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp cũng không tương xứng và ngày càng
giảm. Tổng Giám đốc Agribank Phạm Thanh Tân cho biết, đầu tư của Nhà nước

cho nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 bằng 8,7% tổng vốn đầu tư Nhà nước; năm
2008 giảm xuống 6,4% và năm 2009 còn 6,2%; trong lúc giá trị sản phẩm nông
nghiệp chiếm gần 21% GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp càng
thấp hơn nữa, xấp xỉ 0,6% tổng vốn FDI ở năm 2009.
Ngoài ra, còn có sự manh mún từ quy hoạch, từ chủ trương đầu tư đã chia cắt
chuỗi giá trị ngành hàng vụn ra theo địa phương. Không khó nhận ra ở nhiều công
trình, chẳng hạn một con đường đi bao nhiêu địa phương thì vốn đầu tư được chia
ra chừng ấy phần. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nhận xét: “Ở Việt
Nam hiện đang tồn tại 63 vùng kinh tế tương ứng với 63 tỉnh, thành”. Chuyên gia
kinh tế, TS Trần Du Lịch đặt câu hỏi, lao động đã mang tính toàn cầu mà kinh tế
nước ta vẫn tồn tại cơ cấu tỉnh, nhiều tỉnh có ranh giới được hình thành từ thời
Pháp thuộc, thì thật khó hiểu? Vì thế sản xuất nông nghiệp không phát huy được
“lợi thế dùng chung” nên giá thành luôn bị đẩy lên cao.
Một nguyên nhân đặc biệt nữa là do chênh lệch thu nhập giữa nông dân và
thành thị ngày càng cao, với chỉ số Gini khoảng 0,43; Trong quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa, và hội nhập kinh tế quốc tế, nông dân là tầng lớp dễ bị tổn thương
nhất; Họ đang đứng bên lề của quá trình đó nên ít được hưởng lợi; Nông dân bị
mất đất do phát triển công nghiệp, du lịch và đô thị mà không kiếm được kế sinh
nhai mới; Môi trường tự nhiên và nhân văn ở nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng
với sự xuất hiện nhiều làng ung thư, các con sông chết, các giá trị tốt đẹp của văn
hóa truyền thống ngày càng bị mai một, tệ nạn xã hội nông thôn ngày càng gia
tăng…
Trước những nguyên nhân trên nông dân Việt Nam phải làm gì? Nhà nước sẽ
tận dụng những cam kết với WTO cho phép giúp đỡ nông dân như thế nào và các
nhà khoa học, các nhà doanh nghiệp, các hội đoàn sẽ làm gì để thúc đẩy nông
nghiệp Việt Nam hội nhập một cách bền vững ?
3.3Giải pháp và định hướng cho PTNNBV vủa nước ta trong thời gian tới
Quy hoạch sản xuất tổng thể trên toàn quốc và cung cấp đầy đủ thông tin cho
nông dân.
Sản xuất nông nghiệp luôn xảy ra tình trạng tự phát, làm theo phong trào như cá

ba sa; chưa giải quyết xong hậu quả dư thừa do phát triển quá mức lại lo thiếu
nguyên liệu vào vụ tới; phá cây ăn quả đồng bằng sông Cửu Long để trồng lúa, cà
phê, hồ tiêu nông dân phải tự mầy mò, lựa chọn loại cây trồng, vật nuôi, giải
pháp kỹ thuật, thị trường bán sản phẩm. Nguyên nhân chính là do nông dân thiếu
thông tin. Hiện nay, cách tiếp cận thông tin chính của nông dân là qua đài, báo,
truyền hình, mạng lưới khuyến nông. Tuy nhiên, các thông tin này thường chỉ tập
trung vào kỹ thuật sản xuất, trong khi đó câu hỏi đầu tiên đặt ra cho các nhà sản
xuất phải là sản xuất cho ai, bao nhiêu? Sau đó mới là sản xuất như thế nào? Các
thông tin bà con nông dân tiếp cận được rất chung chung về nhu cầu và giá các sản
phẩm cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, đại loại như “tới đây sẽ thiếu nguyên liệu
cá ba sa”, “nhu cầu của thị trường rất lớn”, “sẽ xuất khẩu sang thị trường EU”
Nhận được thông tin kiểu này, người nông dân sẽ ào ạt phát triển tự phát là điều
không tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng này, tôi xin đề xuất:
 Giao cho một cơ quan chuyên nghiên cứu, tổng hợp để dự báo nhu cầu, giá
cả sản phẩm thị trường trong và ngoài nước theo từng thời điểm cụ thể. Thông tin
chi phí sản xuất, chế biến nông lâm thuỷ sản của nông dân và các doanh nghiệp
kinh doanh. Các thông tin này phải được cập nhật liên tục và thường xuyên cung
cấp cho nông dân. Việc công khai thông tin sẽ giúp cho nông dân không bị ép giá.
 Cần có quy hoạch tổng thể quy mô quốc gia về mỗi loại hàng nông, lâm,
thủy sản phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu , chỉ rõ loại cây
trồng, vật nuôi, số lượng, quy mô diện tích ở từng khu vực cụ thể. Đặc biệt đối
với một số cây trồng có thế mạnh như lúa, cà phê phải chỉ rõ đến tận cánh đồng
của từng xã. Các thông tin này phải được công khai đến cơ quan chức năng của
từng địa phương và bà con nông dân. Các địa phương có trách nhiệm thường
xuyên tổng hợp số liệu hiện trạng về quy mô sản xuất, thông báo công khai để
nông dân tự xem xét nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất của mình để ra quyết
định, giúp nông dân hạn chế sản xuất dư thừa, theo phong trào. Hiện nay, việc quy
hoạch đang được thực hiện nhưng theo mục tiêu của từng tỉnh; quy hoạch vùng,
quy hoạch quốc gia, chỉ mang tính tổng hợp, định hướng.
 Diện tích đã được quy hoạch để canh tác các loại cây trồng nông nghiệp

quan trọng phục vụ an ninh lương thực (như lúa ) phải được giao cho Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn quản lý. Với cách làm này sẽ tránh được tình trạng
diện tích nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích tùy tiện. Chiến lược phải được giao
cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và chịu trách nhiệm trước Chính phủ,
nhân dân.
 Lợi nhuận từ sản xuất nông nghiệp thấp, vì vậy nông dân cần được hỗ trợ
nhiều hơn nữa để sản xuất các mặt hàng chiến lược (như lúa, nuôi trồng thủy sản )
trên nguyên tắc nông dân phải làm đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm, môi trường.
• Xây dựng cơ chế, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa các “nhà”, đặc biệt là giữa
nhà nông và doanh nghiệp, các thương lái. Trong những năm gần đây, tình trạng
doanh nghiệp hoặc nông dân phá hợp đồng xảy ra thường xuyên. Khi giá cả thị
trường xuống, doanh nghiệp bỏ nông dân; khi giá thị trường lên, nông dân giữ
hàng không bán Nguyên nhân là do doanh nghiệp và nông dân có lợi ích ngược
nhau. Nông dân luôn muốn bán đắt, doanh nghiệp luôn muốn mua rẻ. Hậu quả là
nông dân luôn bị thiệt thòi, doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Để khắc
phục tình trạng này, cần có sự hợp tác chặt chẽ của nông dân và doanh nghiệp. Để
doanh nghiệp đi trao đổi, thống nhất với từng hộ nông dân là điều không thể. Vì
vậy các hộ nông dân sản xuất trong khu vực phải thay đổi phương thức sản xuất
theo hướng hợp tác tự nguyện (câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã), cử ra ban đại
diện để làm việc với doanh nghiệp. Trước mỗi vụ thu hoạch, ban quản lý tổ hợp tác
cùng với nông dân tính toán chi phí, giá thành sản xuất để làm việc với doanh
nghiệp thu mua trên địa bàn. Bản thân doanh nghiệp cũng sẽ tính toán chi phí, giá
thành để cùng thống nhất với nông dân, cùng phân chia lợi nhuận. Kinh tế Việt
Nam hiện nay đã chịu sự chi phối của thị trường thế giới, nếu các nhà sản xuất làm
ăn nhỏ lẻ theo kiểu tiểu nông chi phí sẽ cao, không đủ sức cạnh tranh. Với phương
thức sản xuất cá thể như hiện nay, các tiểu nông lại tự cạnh tranh với nhau, thực
chất là đã tự kiềm chế nhau. Các doanh nghiệp không xây dựng chiến lược, quy
hoạch vùng nguyên liệu, không có sự hợp tác chặt chẽ với nông dân, thu mua theo
kiểu “hàng xén” sẽ không đảm bảo được về chất lượng, số lượng cho các thị

trường lớn. Phương thức sản xuất quá nhỏ lẻ, manh mún như hiện nay không phù
hợp với mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa được, đồng
thời với những hạn chế về quy hoạch, thiếu thông tin về quy mô, sản lượng, giá cả,
thị trường, đã dẫn đến tình trạng nông dân sản xuất theo phong trào, có năm quá
dư thừa, có năm quá thiếu. Để khắc phục tình trạng này, vai trò và trách nhiệm
chính thuộc các cơ quan quản lý nhà nước.
• Tăng cường hỗ trợ cho nông dân thông qua các chương trình khuyến nông:
Khuyến nông đóng vai trò quan trọng giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp
thông qua việc tập huấn, tuyên truyền phổ biến ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, xây dựng các mô hình trình diễn cho nông dân học tập. Để các chương trình
khuyến nông đạt hiệu quả cần phải tiến hành xây dựng danh mục các chương trình,
dự án khuyến nông phù hợp với định hướng, quy hoạch phát triển sản xuất nông
nghiệp. Nguồn kinh phí khuyến nông của địa phương thực hiện trên cơ sở điều
kiện kinh tế xã hội, khí hậu, đất đai, phù hợp với định hướng của ngành nông
nghiệp và khả năng tiếp nhận khoa học công nghệ của nông dân ở địa phương.
Nguồn kinh phí khuyến nông trung ương để thực hiện các chương trình, dự án mới,
có ý nghĩa trong vùng sinh thái, từng khu vực theo định hướng, quy hoạch của Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Để tránh tình trạng, hiệu quả các chương
trình, dự án chỉ dừng lại ở từng mô hình, khi nhân rộng lại dư thừa sản phẩm, cần
phải gắn công tác khuyến nông về khoa học kỹ thuật với thị trường, thông tin về
“sản xuất thế nào?” cũng cần gắn với thông tin “bao nhiêu là đủ?, giá thế nào?, bán
ở đâu?”. Ngành khuyến nông rất thuận lợi về trao đổi, thu thập thông tin nhờ có
mạng lưới cán bộ từ Trung ương đến tận thôn bản. Thông qua cán bộ khuyến nông
sẽ tuyên truyền, phổ biến cơ chế, chính sách, quy định của Nhà nước, quy hoạch,
định hướng về sản xuất nông nghiệp, thông tin khoa học kỹ thuật, thị trường, giá cả
nông lâm thuỷ sản cho nông dân; đồng thời cũng cập nhật thông tin từ các thôn
bản, các địa phương để giúp các nhà tư vấn, hoạch định chính sách cho sản xuất
nông nghiệp một cách chính xác và kịp thời. Ổn định sản xuất nông nghiệp, nâng
cao đời sống nông dân, thay đổi bộ mặt nông thôn là nền tảng phát triển kinh tế, ổn
định xã hội, chính trị của một quốc gia có tỉ trọng nông nghiệp cao như nước ta.

Các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế, văn bản pháp quy, công
khai thông tin nhằm hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp có cơ sở pháp lý tự nguyện hợp
tác với nhau, đổi mới phương thức sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp. Bản thân người nông dân cần nhận thức việc liên kết sản xuất theo nhóm
hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã để nâng cao tính cạnh tranh là hết sức cần thiết để sản
xuất nông nghiệp hiệu quả, giảm rủi ro.
Cần đề ra Chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng
bền vững như sau:
• Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng bền
vững:
 Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đa dạng ngành nghề và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông
thôn
 Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào nông
nghiệp; nhất là chương trình giống. Xây dựng và mở rộng mô hình sản xuất hàng
hoá vùng núi khó khăn.
 Điều chỉnh, bổ sung cập nhật quy hoạch phát triển nông, lâm ,ngư nghiệp
trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền vững gắn sản xuất
với thị trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến.
 Xây dựng đề án chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất nông sản
hàng hoá có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong nước và thị
trường quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất đai, lao động và
nguồn vốn), nâng cao thu nhập trên một đơn vị ha đất canh tác, trên một ngày công
lao động; cải thiện đời sống của nông dân:
• Xây dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nông thôn:
 Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao năng suất sử dụng đất, sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước; áp dụng hệ thống sản xuất nông lâm kết hợp;
nông lâm ngư kết hợp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, nhằm sử
dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, nước, khí hậu.

 Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuât và nông
nghiệp; nhất là công nghệ sinh học; thực hiện chương trình cải tạo các giống cây,
giống con.
• Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển thị trường nông thôn, tăng
khả năng tiêu thụ nông sản kết hợp với việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ
phát triển sản xuất.
 Thúc đẩy và phát triển mối liên kết giữa các chủ thể trong các kênh sản xuất
và lưu thông sản phẩm, tạo mới và ổn định các kênh thị trường nhằm tối đa hóa lợi
ích của các thành phần tham gia.
 Xây dựng đề án phát triển đa dạng ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn; đào
tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm phi nông nghiệp, tăng thời gian lao
động và cơ cấu lại nguồn lao động ở nông thôn.
IV- KẾT LUẬN
Tóm lại, Từ kinh nghiệm của thế giới ngày nay và thực tiễn Việt Nam, có thể
quan niệm “ phát triển bền vững” một cách toàn diện hơn, gồm đủ sáu nội dung
trên đây, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; phát triển toàn diện con
người; thực hiên dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Việt Nam là một nước nông
nghiệp, trên 75% dân số sống bằng các nguồn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
tình hành sản xuất ngày càng bất ổn, thiếu bền vững, giá nông sản lên xuống thất
thường, hiệu quả sản xuất thấp. Vì vậy về việc phát triển nông nghiệp - nông dân -
nông thôn, tạo tiền đề, cơ sở để các cơ quan nhà nước có những chính sách phù
hợp giúp nông nghiệp Việt Nam phát triển, nâng cao đời sống nông dân, cải thiện
bộ mặt nông thôn. Từ đó thúc đẩy và định hướng nền nông nghiệp của nước ta phát
triển nhanh và bền vững.
Để làm được điều này cần có chính sách phát triển hợp lý, tập trung nguồn lục
từ Trung ương đến địa phương. Thực hiện chính quyền và nhân dân cùng làm, lấy
dân làm trung tâm của phát triển nông nghiệp bền vững. Tiến hành cơ cấu lại sản
xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng bền vững. Tập trung xây
dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nông thôn. Xây dựng và

thực hiện chương trình phát triển thị trường nông thôn, tăng khả năng tiêu thụ nông
sản kết hợp với việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển sản xuất. Có như
thế, nông nghiệp nươc ta mới phát triển nhanh theo hướng hiện đại và bền vững.

×