Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đề tài các quy định về hợp đồng thương mại và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.88 KB, 48 trang )

ĐỀ TÀI
CÁC QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Bill Gates, trong một lần phỏng vấn các ứng viên thi tuyển vào Tập đoàn
Microsoft đã đặt câu hỏi: “Theo các bạn đâu là yếu tố duy trì sự ổn định và thành
công của các hoạt động kinh doanh ngày nay ? ” Một ứng viên đã trả lời: “Đó chính
là tính chặt chẽ của hợp đồng”. Nhiều người khi đó đã nghi ngờ tính nghiêm túc
trong câu trả lời của ứng viên này, nhưng Bill Gates không nghĩ vậy. Ông đã cho
ứng viên này điểm tối đa và nhận anh ta vào làm việc.
Hợp đồng là công cụ phát triển đối với mỗi doanh nghiệp (DN). Hợp đồng
dân sự, hợp đồng lao động hay hợp đồng thương mại đều đặc biệt có ý nghĩa trong
mỗi giao dịch tương ứng của các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các cơ quan, đơn vị có
hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự
hiện là 2 dạng hợp đồng được DN sử dụng thường xuyên và dễ có sự nhầm lẫn. Sự
nhầm lẫn vô tình này có thể dẫn đến các hệ quả pháp lý không mong muốn đối với
DN. Vì vậy, nắm được những điểm chung của 2 loại hợp đồng này đồng thời tôn
trọng một số đặc thù của từng loại hợp đồng sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với DN
trong quá trình xác lập và thực hiện các giao dịch nhằm đảm bảo mục đích của
mình khi tham gia giao dịch.
Bài luận đưa ra một khái niệm mới về hợp đồng thương mại dịch vụ trên cơ sở
phân tích những đặc điểm của loại hợp đồng này để so sánh với cách gọi khác là
hợp đồng cung ứng dịch vụ trong Luật Thương mại 2005. Từ đó phân tích những
vai trò và tầm trọng của loại hợp đồng này đối với doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay. Khi thị trường thương mại dịch vụ Việt Nam đang tiến trình mở cửa theo cam
kết WTO sẽ xuất hiện nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức đối với doanh
nghiệp thương mại dịch vụ Việt Nam thì hợp đồng thương mại dịch vụ sẽ là cơ sở
pháp lý, là công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp nước ta nâng cao khả năng cạnh
tranh trong nước và thâm nhập thị trường dịch vụ nước ngoài.
PHẦN 1: PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG


Hợp đồng dân sự là “bản giao kèo” để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân
sự giữa các bên. Trong sự đa dạng của các hợp đồng dân sự, có thể dựa vào những
dấu hiệu đặc trưng để phân chúng thành từng nhóm khác nhau.
Trong BLDS, Điều 406 có định nghĩa một số hợp đồng cơ bản. Tuy nhiên,
trong thực tiễn có rất nhiều loại hợp đồng, ta có thể dựa vào các căn cứ khác nhau
để phân biệt các loại hợp đồng như sau:
- Nếu dựa vào hình thức của hợp đồng thì hợp đồng dân sự được phân thành
hợp đồng miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng chứng nhận, hợp
đồng mẫu
- Nếu dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên thì hợp
đồng được phân thành hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
- Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ. Hay nói
cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại
vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của loại hợp đồng này, quyền dân sự của
bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì thế, nếu hợp
đồng song vụ được giao kết theo hình thức văn bản thì phải lập thành nhiều văn bản
để mỗi bên giữ một bản hợp đồng. Tại khoản 1 Điều 406, BLDS đã định nghĩa:
"Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau".
- Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ
mà không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không
phải thực hiện một nghĩa vụ nào.
Việc xác định quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể
trong hợp đồng dân sự được bắt đầu từ thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu lực. Vì
vậy, có những hợp đồng mà thực chất hai bên đều phải thực hiện cho nhau một lợi
ích vật chất nhưng vẫn được coi là hợp đồng đơn vụ. Ví dụ: Hợp đồng cho vay tài
sản mà các bên đã xác định thời điểm có hiệu lực của nó là kể từ khi bên cho vay
đã giao tài sản cho bên vay. Như vậy, cơ sở để xác định một hợp đồng có tính chất
song vụ hay đơn vụ chính là mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các bên tại
thời điểm hợp đồng dân sự có hiệu lực. Vì hợp đồng đơn vụ chỉ có một bên chủ thể
có nghĩa vụ, nên nếu hợp đồng được giao kết bằng hình thức viết thì các bên chỉ

cần lập một bản và giao cho người có quyền dân sự trong hợp đồng giữ văn bản
hợp đồng.
- Nếu dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng thì các
hợp đồng đó được phân thành hai loại: hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Tại khoản
3 Điều 406, BLDS quy định: "Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ
thuộc vào hợp đồng khác". Như vậy, các hợp đồng chính khi đã tuân thủ đầy đủ các
điều kiện mà pháp luật đã quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu lực và có hiệu
lực bắt buộc đối với các bên từ thời điểm giao kết.
Ngược lại, "hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng
chính" (khoản 4 Điều 406 BLDS). Trước hết, các hợp đồng phụ muốn có hiệu lực
phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện luật định về chủ thể, về nội dung, về hình thức
v.v Mặt khác, dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện nói trên nhưng hợp đồng
vẫn không có hiệu lực nếu hợp đồng chính (hợp đồng mà nó phụ thuộc) bị coi là
không có hiệu lực. Ví dụ: Hợp đồng cầm cố không có hiệu lực khi hợp đồng cho
vay không có hiệu lực.
- Nếu dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể, hợp đồng dân sự
được phân thành hai loại là hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù.
Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng.
Chúng ta biết rằng đặc điểm cơ bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là sự
trao đổi ngang giá. Bởi thế, đa phần các hợp đồng dân sự là hợp đồng có đền bù.
Tính chất đền bù trong hợp đồng được các bên áp dụng để thực hiện việc trao đổi
với nhau các lợi ích vật chất. Tuy nhiên, không nhất thiết cứ bên này hưởng lợi ích
vật chất thì bên kia cũng hưởng lợi ích vật chất mới được coi là "đền bù tương
ứng". Do nhu cầu đa dạng, các bên có thể thoả thuận để giao kết những hợp đồng
mà trong đó một bên hưởng lợi ích vật chất nhưng bên kia lại hưởng một lợi ích
thuộc về nhu cầu tinh thần. Cần xác định rằng, các hợp đồng mang tính chất đền bù
đa phần là hợp đồng song vụ cũng như đa phần các hợp đồng song vụ đều mang
tính đền bù. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều hợp đồng dù mang tính chất đền
bù nhưng lại là hợp đồng đơn vụ như hợp đồng cho vay có lãi mà hiệu lực của nó

được xác định tại thời điểm bên vay đã nhận tiền. Mặt khác, có nhiều hợp đồng
song vụ nhưng không mang tính chất đền bù như hợp đồng gửi giữ không có thù
lao.
Hợp đồng không có đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận
được từ bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào. Bên cạnh
việc sử dụng hợp đồng làm phương tiện để trao đổi những lợi ích, các chủ thể còn
dùng nó làm phương tiện để giúp đỡ nhau. Vì vậy, hợp đồng không có đền bù
thường được giao kết trên cơ sở tình cảm và tinh thần tương thân, tương ái giữa các
chủ thể. Có thể nói rằng nếu tiền đề của hợp đồng có đền bù là những lợi ích (mà
đa phần là lợi ích vật chất) thì tiền đề của hợp đồng không có đền bù là mối quan
hệ tình cảm sẵn có giữa các chủ thể. Đây là một loại hợp đồng dân sự mà tính chất
của nó đã vượt ra ngoài tính chất của quy luật giá trị bởi sự chi phối của yếu tố tình
cảm. Trên cơ sở tình cảm, các bên thiết lập các hợp đồng không có đền bù để giúp
đỡ nhau. Do đó, trong quá trình giao kết loại hợp đồng này dù đã hứa hẹn (đã có sự
thống nhất ý chí) nhưng việc chấp nhận đề nghị không mang tính chất ràng buộc
đối với bên được đề nghị. Vì vậy, đối với hợp đồng tặng cho tài sản, pháp luật đã
quy định có hiệu lực khi các bên đã thực tế trao cho nhau đối tượng tặng cho hoặc
đã hoàn thành thủ tục chuyển quyền sở hữu.
- Nếu dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực thì hợp đồng dân sự được phân
thành hai nhóm: hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế.
Hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà theo quy định của pháp luật,
quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi các bên đã thoả thuận với
nhau xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. Trong trường hợp này, dù rằng các
bên chưa trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết nhưng đã phát sinh quyền yêu
cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Hay nói cách khác,
hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được xác
định tại thời điểm giao kết.
- Hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực của nó
chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp
đồng.

Hợp đồng có điều kiện: Là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc
thoả thuận về nội dung của hợp đồng các bên còn thoả thuận để xác định về một sự
kiện để khi sự kiện đó xảy ra thì hợp đồng mới được thực hiện hoặc phải chấm dứt.
Tuy nhiên, sự kiện mà các bên thoả thuận chỉ được coi là điều kiện để hợp đồng
được thực hiện hoặc được chấm dứt khi sự kiện đó đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất, các sự kiện đó phải mang tính khách quan. Yêu cầu này đòi hỏi việc
các sự kiện nói trên có xuất hiện hay không, hoàn toàn nằm ngoài ý chí của các chủ
thể, đồng thời phải là một tình tiết trong tương lai (chỉ xuất hiện sau khi hợp đồng
đã được giao kết).
Thứ hai, nếu điều kiện đó là một công việc phải làm thì phải là những công
việc có thể thực hiện được.
Thứ ba, sự kiện mà các bên chủ thể thoả thuận phải phù hợp với pháp luật và
không trái với đạo đức xã hội.
+ Hợp đồng vì lợi ích người thứ ba: "Là hợp đồng mà các bên giao kết hợp
đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực
hiện nghĩa vụ đó".
Trong thực tế có những trường hợp người thứ ba không trực tiếp tham gia
vào hợp đồng với tư cách chủ thể nhưng họ có quyền đối với bên có nghĩa vụ. Bởi
vì các bên tham gia đã thoả thuận bên có nghĩa vụ phải thực hiên các nghĩa vụ cho
người thứ ba. Việc thoả thuận này có thể trực tiếp hoặc được coi là mặc nhiên do
tính chất của hợp đồng quy định. Ví dụ: Hợp đồng chuyển bưu phẩm, chuyển tiền
qua bưu điện.
+ Hợp đồng hỗn hợp: Vì hợp đồng dân sự hết sức đa dạng, nên luật pháp không
thể dự liệu được toàn bộ các hợp đồng có thể xảy ra mà chỉ có thể quy định một số
hợp đồng thường gặp nhất trong cuộc sống. Việc giao kết hợp đồng để đáp ứng các
nhu cầu đa dạng của đời sống dân sự đã vượt ra ngoài sự dự liệu của pháp luật. Các
chủ thể có thể giao kết những hợp đồng dân sự mà pháp luật chưa quy định cụ thể,
miễn là nội dung của nó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những trường hợp
mà các bên giao kết một hợp đồng nhưng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự
mà hai hay nhiều hợp đồng khác đã quy định vẫn được pháp luật thừa nhận.

Có thể khái quát về hợp đồng hỗn hợp như sau: Là những hợp đồng mà khi kí
kết, cùng một lúc làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ dân sự vốn là nội dung
của hai hay nhiều hợp đồng thông thường khác.
Tóm lại, việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa dựa vào
sự quy định của BLDS, vừa dựa trên phương diện lí luận. Qua đó, nhằm xác định
được những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, góp phần nâng cao
hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự.
CHƯƠNG 2: HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
Khi nhắc đến hợp đồng, tức là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên nhằm mục
đích xác lập, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ của các bên ( theo Điều 388 BLDS) .
Như đã trình bày trong phần tổng quan nói trên , hợp đồng là một hành vi pháp
lý, là sự thể hiện ý chí của các bên để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Hợp
đồng là loại hành vi pháp lý cơ bản và thông dụng nhất. Ý chí của cá nhân đóng vai
trò quan trọng trong hợp đồng, khi sự thống nhất của các ý chí là thực chất và
không trái pháp luật thì nó sẽ làm phát sinh các nghĩa vụ. Nghĩa vụ này ràng buộc
các bên như luật pháp. Nói cách khác hiệu lực của hợp đồng là tạo lập, biến đổi hay
chấm dứt một nghĩa vụ.
Trong Luật thương mại Việt Nam không có khái niệm Hợp đồng thương mại,
nhưng có thể hiểu Hợp đồng thương mại là hình thức pháp lý của hành vi thương
mại, là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên (ít nhất một trong các bên phải là
thương nhân hoặc các chủ thể có tư cách thương nhân) nhằm xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện hoạt động thương
mại.
Các hoạt động thương mại ở đây được xác định theo LTM 2005, cụ thể tại
Điều 1 LTM 2005, theo đó bao gồm : hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ
nước CHXHCN Việt Nam; hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ Việt
Nam trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn áp dụng Luật này hoặc Luật nước
ngoài, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ
Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi

đó áp dụng luật này.
1.1. Đặc điểm của hợp đồng thương mại.
Hợp đồng thương mại mang những đặc điểm chung của hợp đồng nói chung,
đồng thời mang những nét đặc trưng nhất định, trong đó có nổi bật 2 yếu tố cơ bản :
- Nội dung là các hoạt động thương mại.
- Được kí kết giữa các bên là thương nhân hoặc một bên là thương nhân
( được thê hiện ở yếu tố chủ thể )
• Về chủ thể của hợp đồng thương mại
Hợp đồng thương mại được kí kết giữa các bên là thương nhân, hoặc có một
bên là thương nhân. Đây là một điểm đặc trưng của hợp đồng thương mại so với
các loại hợp đồng dân sự.
Như vậy, chủ thể trong Hợp đồng thương mại gồm thương nhân (bao gồm tổ
chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có Đăng kí kinh doanh), cá nhân, tổ chức khác
có hoạt động liên quan đến thương mại (Điều 2 LTM 2005)
• Nội dung của Hợp đồng thương mại
Nội dung của hợp đồng thương mại nói riêng và hợp đồng nói chung là tổng
hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận, các điều
khoản này xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên giao kết
hợp đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản của hợp đồng thương mại là nội dung của
hợp đồng thương mại là hoạt động thương mại. Mỗi loại hợp đồng có những quy
định nhất định về các điều khoản cơ bản. Ví dụ : Đối với hợp đồng mua bán thì
điều khoản cơ bản bao gồm đối tượng và giá cả.
Pháp luật đề cao sự thỏa thuận giữa các bên giao kết, tuy nhiên nội dung của
hợp đồng phải tuân theo những quy định của pháp luật hợp đồng nói chung, được
quy định tại BLDS 2005. Loại trừ những điều khoản của pháp luật có nội dung
mang tính bắt buộc, các bên có thể thỏa thuận với nhau những nội dung khác với
nội dung quy định trong pháp luật. Điều 402 BLDS 2005 quy định “ Tùy theo từng
loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây :
I. 1.Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc

không được làm .
II. 2.Số lượng, chất lượng
III. 3.Giá, phương thức thanh toán
IV. 4.Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
V. 5.Quyền , nghĩa vụ của các bên
VI. 6.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
VII. 7.Phạt vi phạm hợp đồng
VIII. 8.Các nội dung khác”
Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng các bên có thể thỏa thuận hay không
thỏa thuận tất cả các điều ghi trên. Các bên cũng có thể bổ sung thêm vào hợp đồng
những điều khoản không có quy định nhưng các bên cảm thấy không cần thiết.
Ngoài ra, để làm rõ nội dung của hợp đồng, có sự bổ sung bởi phụ lục hợp
đồng. Phụ lục hợp đồng có hiệu lực như hợp đồng , nhưng nội dung của phụ lục
không được trái với hợp đồng. Trường hợp phụ lục có điều khoản trái với nội
dung của điều khoản trong hợp đồng thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu các bên chấp nhận phụ lục hợp đồng có
điều khoản trái với điều khoản trong hợp đồng thì coi như điều khoản đó trong
hợp đồng đã được sửa đổi
1. 2.Nguồn của pháp luật Hợp đồng
Nguồn của pháp luật hợp đồng là các căn cứ được sử dụng làm cơ sở để xây
dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng vào việc giải quyết các
vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế, đơn giản hơn nguồn là nơi chứa những quy
định về pháp luật hợp đồng . ở Việt Nam, nguồn của pháp luật hợp đồng nói chung
gồm các loại sau :
- Các văn bản pháp luật liên quan đến hợp đồng
Hai văn bản pháp luật quan trọng nhất hiện nay là BLDS và LTM, đây là luật
căn bản đối với kinh doanh. Đối với mỗi loại hợp đồng ở một lĩnh vực cụ thể lại có
các văn bản pháp luật chuyên ngành cụ thể. Ví dụ : các quy định về hợp đồng trong
tổ chức kinh doanh có trong Luật Đầu tư 2005.
- Các nghị quyết, hướng dẫn, tổng kết của tòa án nhân dân tối cao

Các nghị quyết, hướng dẫn, tổng kết của tòa án nhân dân tối cao và nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán là một nguồn của pháp luật Hợp đồng, tương tự như án lệ
- Thói quen và tập quán thương mại
Việc áp dụng thói quen và tập quán thương mại chỉ xảy ra khi các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Khi đó, các bên được coi là mặc nhiên
áp dụng những thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các
bên đó mà họ đã biết hoặc buộc phải biết . Trường hợp không có luật, tiền lệ, thói
quen thì áp dụng tập quán thương mại, tức là thói quen được thừa nhận rộng rãi
trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có
nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hoạt động thương mại.
CHƯƠNG 3: HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
+ Thời điểm có hiệu lực
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thương mại được áp dụng theo quy định
tại Điều 405, BLDS 2005: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực tại thời
điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
 Hợp đồng thương mại cũng như hợp đồng dân sự, được xác lập vào thời
điểm giao kết khi hai bên đã đạt được ý chí chung thống nhất. Ý chí chung thống
nhất đó chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ tại thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng.
Theo nguyên tắc chung thì hợp đồng sẽ hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực pháp
luật ngay từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên pháp luật cũng dự liệu cho phép một số
trường hợp ngoại lệ mà theo đó hợp đồng phát sinh hiệu lực tại thời điểm khác sau
thời điểm giao kết, thể hiện qua cụm từ ngữ “ trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác” ở Điều 405 trên. Như vậy, pháp luật tôn trọng sử
thỏa thuận của các bên. Các bên có thể thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng, có nghĩa là tự thỏa thuận thời điểm ý chí chung của mình được pháp luật
công nhận, bảo vệ. Điều này có lợi cho các bên trong những trường hợp khi các bên
mong muốn xác lập hợp đồng, nhưng còn do dự vì còn bị lệ thuộc vào một số sự
kiện khách quan có thể xảy đến. Các bên có thể thỏa thuận về hiệu lực của hợp

đồng theo rất nhiều cách thức đa dạng khác nhau ví dụ như sau:
• Hợp đồng có hiệu lực vào một thời điểm sau khi giao kết, ví dụ 30 ngày sau
khi kí hợp đồng.
• Hợp đồng có hiệu lực trong một thời hạn nhất định, ví dụ trong vòng một
năm kể từ ngày được giao kết, quá thời hạn đó hợp đồng hết hiệu lực.
• Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi một bên đã trả trước một phần giá thành, hoặc
khi một bên đáp ứng những điều kiện nhất định để cung ứng hàng hóa, dịch vụ theo
thỏa thuận, ví dụ có thâm niên và quy mô kinh doanh nhất định trong một số lĩnh
vực đấu thầu, ví dụ đấu thầu xây dựng cơ bản.
• Ràng buộc hiệu lực của hợp đồng vào những sự kiện pháp lý trong tương lai.
• Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi nếu nội dung của nó được phê duyệt bởi một
cơ quan thứ 3, ví dụ hợp đồng mua bán nhà đất chỉ có hiệu lực khi được công
chứng bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
• Hợp đồng phải tuân thủ những hình thức nhất định chí có hiệu lực khi đã đáp
ứng các yêu cầu về hình thức đó, ví dụ đã được lập bằng văn bản, hoặc văn bản đã
được công chứng, hoặc văn bản hợp đồng đã được đăng kí tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
+ Các điều kiện để hợp đồng thương mại có hiệu lực
Cũng tương tự như hợp đồng dân sự, một hợp đồng thương mại có hiệu lực
khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
• Người tham gia giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự.
• Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái với đạo đức xã hội.
• Người tham gia giao kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
• Nếu pháp luật quy định hợp đồng phải tuân thủ những hình thức nhất định, ví
dụ phải được lập thành văn bản, hoặc văn bản đã được công chứng, hoặc văn bản
hợp đồng đã được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì hợp đồng chỉ có
hiệu lực nếu tuân thủ các hình thức này ( Điều 122 BLDS 2005).
CHƯƠNG 4: NGUYÊN TẮC GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
Giao kết hợp đồng là giai đoạn thiết lập mối liên hệ pháp lý giữa các chủ thể

trong quan hệ trao đổi. Quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng (Điều 395 BLDS
1995 và Điều 389 BLDS 2005) nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham
gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và thiết lập
quan hệ hợp đồng hợp pháp.
ĐIỀU 2.1.2 UNIDROIT (Định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng)
Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể
hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận.

Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý
cho các bên tham gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình
giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp.
- Nguyên tắc thứ nhất: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không
được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng
được quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ
chức nào kể cả Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể.
Tuy nhiên, sự tự do ý chí của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng “không được
trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Tức là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
không được trái với điều cấm của pháp luật và những chuẩn mực đã được xã hội
thừa nhận rộng rãi.
Luật La Mã ghi nhận rằng: “Với tư cách như một cơ sở phát sinh nghĩa vụ,
hợp đồng chỉ có thể có nếu các bên ký hợp đồng có chủ ý xác lập các mối liên hệ
trách nhiệm”.
Điều 4 BLDS 2005: nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận
Quyền tự do cam kết, thỏa thuận, trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết thỏa thuận đó không trái đạo đức xã hội
Khoản 1 Điều 389 BLDS 2005
Tụ do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nguyên tắc này được thể hiện trong Khoản 1 điều 11 Luật Thương Mại 2005:
Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các qui định của pháp luật

mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các bên trong hoạt động
thương mại và bảo hộ các quyền đó
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 qui định
tại điều 1.1 :
Các bên được giao kết hợp đồng và thỏa thuận nội dung hợp đồng
Nguyên tắc của Luật hợp đồng Châu Âu điều 1.02 quy định:
Các bên được tự do giao kết hợp đồng xác định nội dung hợp đồng phụ thuộc
vào yêu cầu về thiện chí, công bằng và các quy tắc bắt buộc được thiết lập bởi các
nguyên tắc này
- Nguyên tắc thứ hai: tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác,
trung thực và ngay thẳng,
Nguyên tắc các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và hợp
đồng dân sự nói riêng bình đẳng với nhau cũng là một nguyên tắc cơ bản. Đặc
trưng và cơ sở của các quan hệ trao đổi là được thực hiện theo nguyên tắc thỏa
thuận ngang giá.
ĐIỀU 1.7 UNIDROIT (Thiện chí và trung thực)
1. Các bên trong hợp đồng phải tuân theo những yêu cầu về thiện chí và trung
thực
trong thương mại quốc tế.
2. Các bên trong hợp đồng không được loại trừ hay hạn chế nghĩa vụ này.
1.1. Trình tự giao kết hợp đồng.
Trình tự giao kết hợp đồng dân sự là một quá trình mà trong đó các bên chủ
thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa thuận trong việc
cùng nhau xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau, xác định từng nội
dung cụ thể của hợp đồng.
Quá trình GDDS chính thức được bắt đầu khi các bên đã xác định rõ được nhu
cầu giao dịch của mình. Trình tự giao kết hợp đồng thông qua 2 giai đoạn: đề nghị
giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
1.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
Khi một người muốn thiết lập một hợp đồng thì ý muốn đó phải thể hiện ra

bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Như vậy bên đối tác mới có thể biết
được ý muốn của họ và mới có thể đi đến việc giao kết một hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu hiện ý chí, muốn bày tỏ cho
bên kia ý muốn tham gia giao kết với họ một hợp đồng dân sự.
Một lời đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng thì phải chứa đựng một
số yếu tố cơ bản sau:
• Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của bên đề
nghị.
• Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng.
• Phải xác định rõ bên được đề nghị.
• Yêu cầu về thời hạn trả lời là không bắt buộc: Theo Đ390, Đ397 BLDS
2005 còn dự liệu cả trường hợp đề nghị có thời hạn trả lời và đề nghị không có thời
hạn trả lời.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác
nhau: người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi,
thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại…Ngoài ra, lời đề nghị còn được
chuyển giao bằng công văn, giấy tờ…
Hiệu lực của đề nghị được bắt đầu và chấm dứt theo quy định tại Đ393, Đ394
BLDS 2005. trình tự thay đổi, rút lại, sửa đổi hay hủy bỏ lời đề nghị được thực hiện
theo quy định của Đ 392, Đ 395, Đ 393 BLDS 2005.
1.1.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị chấp nhận lời
đề nghị (bên B) và tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị(bên A).
Câu trả lời của bên B không phải trong mọi trường hợp đều được coi là chấp
nhận giao kết hợp đồng. Câu trả lời được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng khi
bên B chấp nhận toàn bộ và vô điều kiện các nội dung đề nghị mà bên A đã nêu.
Nếu câu trả lời của bên B không đáp ứng được một trong hai yêu cầu đó thì sẽ được
coi là lời đề nghị mới và cần có câu trả lời của bên A. Quá trình này có thể lặp đi
lặp lại nhiều lần cho đến khi có được chấp nhận giao kết hợp đồng đúng yêu cầu thì
hợp đồng sẽ được coi là giao kết.

Nếu như bên B không trả lời đề nghị thì sự im lặng đó được coi là lời từ chối
giao kết hợp đồng.
ĐIỀU 2.1.6 UNIDROIT (Phương thức chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng)
1. Chấp nhận giao kết hợp đồng có thể là một tuyên bố hoặc cách xử sự khác
của bên được đề nghị cho thấy họ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Bản thân
sự im lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng.
2. Việc chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của
việc chấp nhận giao kết hợp đồng đến bên đề nghị.
3. Tuy nhiên, nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các thói quen đã được xác
lập giữa các bên hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chỉ ra là mình đã chấp
nhận giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi mà không cần thông báo
cho bên đề nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó được hoàn thành.
CHƯƠNG 5: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
Ngoài việc áp dụng các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu để xác định
trường hợp nào bị coi là hợp đồng vô hiệu và cách thức xử lý và giải quyết hậu quả
của hợp đồng dân sự vô hiệu, Điều 410 BLDS 2005 còn quy định mối quan hệ giữa
hợp đồng chính và hợp đồng phụ khi một trong số hợp đồng này bị xác định là vô
hiệu.
Xuất phát từ quy định: hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của nó phụ
thuộc vào hợp đồng chính nên khi hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng
vô hiệu; nhưng ngược lại hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực của nó không
phụ thuộc vào hợp đồng phụ nên khi hợp đồng phụ vô hiệu không làm mất đi hiệu
lực của hợp đồng chính. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này cũng có những
trường hợp ngoại lệ như sau:
- Khi hợp đồng chính vô hiệu, các bên đã thỏa thuận hợp đồng phụ là hợp
đồng thay thế hợp đồng chính, thì chỉ hợp đồng chính vô hiệu còn hợp đồng phụ
vẫn có hiệu lực. Đây là trường hợp hợp đồng phụ được lập ra đã bao gồm các điều
khoản thể hiện đầy đủ nội dung của hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên và có thể
áp dụng độc lập.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: xét về bản chất và mục đích của hợp đồng nên đối
với hợp đồng phụ thể hiện sự thỏa thuận của các bên tham gia giao kết hợp đồng
dân sự nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ thì không áp
dụng quy định này. Hợp đồng phụ trong trường hợp này luôn luôn phụ thuộc vào
hiệu lực của hợp đồng chính, hay nói cách khác khi hợp đồng chính vô hiệu thì hợp
đồng phụ cũng vô hiệu.
- Trong trường hợp chỉ hợp đồng phụ vô hiệu nhưng bản hợp đồng này là
một bộ phận không thể tách rời của bản hợp đồng chính thì hợp đồng chính cũng bị
vô hiệu.
Ngoài các quy định tại Điều 410 về hợp đồng vô hiệu đã phân tích ở trên,
BLDS 2005 cũng bổ sung các quy định về vô hiệu từng phần của hợp đồng ở các
điều trước. Ví dụ: quy định hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm
của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, hoặc tăng trách nhiệm, hoặc bị loại bỏ quyền,
lợi ích chính đáng của bên chấp nhận ký hợp đồng theo mẫu không có hiệu lực
(khoản 3 Điều 407); phụ lục của hợp đồng có điều khoản trái với điều khoản của
hợp đồng thì điều khoản của phụ lục hợp đồng không có hiệu lực (khoản 2 Điều
408).
- Điều 411 BLDS 2005 quy định trường hợp vì lý do khách quan mà đối tượng
của hợp đồng không thể thực hiện được thì hợp đồng đó vô hiệu. Lý do khách quan
là các lý do không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia giao kết hợp
đồng. Các lý do khách quan có thể xuất phát từ các điều kiện thiên nhiên, hoặc do
chính sách của Nhà nước thay đổi
Ví dụ: về nguyên tắc đối tượng của hợp đồng phải là tài sản được phép lưu
thông, các công việc mà pháp luật không cấm thực hiện để bảo đảm trật tự xã hội.
Tuy nhiên, có những trường hợp khi ký kết hợp đồng, đối tượng của hợp đồng là tài
sản được lưu thông nhưng đến khi thực hiện hợp đồng mới có quy định không được
phép mua bán, xuất nhập khẩu tài sản đó (ví dụ: đối với một số loài gỗ quý ).
Trong trường hợp này, nếu hợp đồng hoàn toàn chưa được thực hiện sẽ bị vô hiệu.
Nếu hợp đồng đã được thực hiện một phần thì phần hợp đồng chưa được thực hiện
trước khi có quy định cấm mua, bán, xuất nhập khẩu tài sản còn lại mới vô hiệu.

Tương tự như vậy, nếu hợp đồng có nhiều đối tượng mà chỉ có một hoặc một số
đối tượng không thể thực hiện được thì chỉ một phần hợp đồng liên quan đến đối
tượng không thể thực hiện đó vô hiệu, còn phần hợp đồng liên quan đến đối tượng
khác vẫn có hiệu lực.
Khoản 2 Điều 411 BLDS 2005 được quy định nhằm hạn chế sự lạm dụng của
một bên khi biết rõ hoặc buộc phải biết đối tượng của hợp đồng không thể thực
hiện được nhưng vì mục đích nào đó mà vẫn cố tình giao kết hợp đồng và gây thiệt
hại cho bên kia.
CHƯƠNG 6: HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm:
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa
thuận.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ
mua bán. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐ mua bán hàng hóa trong thương
mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm HĐ mua bán tài sản trong luật dân sự để xác
định bản chất của HĐ mua bán hàng hóa. Theo Điều 428 BLDS 2005, HĐ mua bán
tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho
bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên
bán. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai, và
các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài
sản. Từ đó cho thấy, HĐ mua bán hàng hóa trong thương mại một dạng cụ thể của
HĐ mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa HĐ mua bán hàng hóa trong thương mại
và HĐ mua bán tài sản khác là: đối tượng hàng hóa, và mục đích sinh lời.
Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, HĐ
mua bán hàng hóa được chia thành HĐ mua bán hàng hóa trong nước và HĐ mua
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài (HĐ mua bán hàng hóa quốc tế). Về HĐ mua
bán hàng hóa quốc tế, nó không được định nghĩa trong LTM 2005, nhưng qua quy

định tại Điều 758 BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể suy ra rằng
một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi có một trong các
yếu tố sau:
+ Căn cứ vào yếu tố chủ thể, hợp đồng được giao kết bởi các bên không cùng
quốc tịch.
+ Căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn
tại ở nước ngoài.
+ Căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết ở
nước ngoài (nước mà các bên chủ thể giao kết hợp đồng không mang quốc tịch) và
có thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba.
Điều cần chú ý ở HĐ mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia giao kết
hợp đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá trình
vận chuyển, thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng. Vì vậy, các bên cần thỏa thuận
và soạn thảo ra một bản hợp đồng chi tiết. Khoản 2 Điều 27 LTM quy định rằng
HĐ mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản.
1.2. Đặc điểm.
Có thể xem xét các đặc điểm của HĐ mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với
HĐ mua bán tài sản theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
a. HĐ mua bán hàng hóa cũng có những đặc điểm chung của HĐ mua
bán tài sản trong dân sự như:
+ Là hợp đồng ưng thuận - tức là nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên
thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của HĐ không phụ
thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là
hành động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của HĐ mua bán đã có hiệu lực.
+ Có tính đền bù – bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua
thì sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận
dưới dạng khoản tiền thanh toán.
+ Là hợp đồng song vụ - mỗi bên trong HĐ mua bán hàng hóa đều bị ràng
buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên
kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong HĐ mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa

vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên
bán phải bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán
cho bên bán
a. Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ mua bán hàng hóa,
HĐ mua bán hàng hóa có những đặc điểm nhất định, xuất phát từ bản chất thương
mại của hành vi mua bán hàng hóa:
+ Về chủ thể, HĐ mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân. LTM 2005 quy định thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mai một cách độc lập, thường xuyên
và có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là thương
nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐ mua bán hàng hóa. Theo khoản 3 Điều
1 LTM, hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục
đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM khi chủ thể
này lựa chọn áp dụng LTM.
+ Về hình thức, HĐ mua bán hàng hóa có thể được thể hiện dưới hình thức lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số
trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình
thức văn bản, ví dụ như HĐ mua bán hàng hóa quốc tế- phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như
điện báo, TELEX, FAX hay thông điệp dữ liệu.
+ Về đối tượng: HĐ mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo nghĩa
thông thường có thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo
ra nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người. Càng ngày cùng với sự phát
triển của xã hội, hàng hóa càng trở nên phong phú. Khái niệm hàng hóa được quy
định trong luật pháp các nước hiện nay dù có những khác biệt nhất định song đều
có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông. Một số cách
hiểu về phạm vi hàng hóa là đối tượng của mua bán thương mại trong pháp luật các
nước như sau:
Theo luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế như
Hiệp định GATT, Hiệp định thành lập khối thị trường chung châu Âu…; hàng hóa

– đối tượng của mua bán thương mại gồm những tài sản có hai thuộc tính cơ bản là:
có thể đưa vào lưu thông và có tính chất thương mại.
Theo luật Hoa Kỳ, hàng hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch chuyển quyền sở
hữu được vào thời gian xác định thep hợp đồng mua bán hàng hóa; hàng hóa có thể
đã có ở hiện tại hoặc sẽ có trong tương lai.
Theo LTM Việt Nam 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán có thể
là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể
là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
1.3. Nội dung
Nội dung của hợp đồng nói chung là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của HĐ mua
bán hàng hóa là các điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ
của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc
vào quy định của pháp luật từng quốc gia. Việc pháp luật quy định nội dung của
hợp đồng mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận các nội dung
quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện và phòng ngừa các
tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Các nước thuộc hệ
thống luật Anh- Mỹ về cơ bản chỉ bắt buộc thỏa thuận về điều khoản đối tượng của
hợp đồng mua bán; còn những nội dung khác nếu các bên không thỏa thuận cụ thể
thì có thể viện dẫn tập quán thương mại để xác định. Trong khi đó, pháp luật của
các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, điển hình là Cộng hòa Pháp,
thông thường hợp đồng mua bán cần phải thảo luận rõ về đối tượng, chất lượng và
giá cả. LTM Việt Nam không quy định hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm
nội dung bắt buộc nào. Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng, một hợp đồng mua bán hàng
hóa thông thường phải chứa đựng sự thỏa thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm nhận giao hàng.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi những
điều khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định
của pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên không

thỏa thuận trong hợp đồng.
1.3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên cạnh những quyền và nghĩa vụ do bên
bán và bên mua thỏa thuận thì còn có những quyền và nghĩa vụ dành cho các bên
này do pháp luật quy định. Như chúng ta biết quyền của bên này là nghĩa vụ của
bên kia và ngược lại. Do đó, phần dưới đây sẽ trình bày về nghĩa vụ của mỗi bên và
từ đó chúng ta cũng sẽ hiểu và xác định được quyền của họ.
a. a.Nghĩa vụ của bên bán:
b. Nghĩa vụ chính của bên bán theo hợp đồng mua bán hàng hóa chính
là nghĩa vụ giao hàng. Nghĩa vụ giao hàng bao hàm những nội dung sau:
• Giao hàng đúng đối tượng và chất lượng: Bên bán phải giao hàng đúng đối
tượng và chất lượng theo thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp
luật. Chất lượng của hàng hóa có thể được thỏa thuận hoặc xác định theo nhiều
cách khác nhau: theo mẫu, theo mô phỏng, trên cơ sở tiêu chuẩn hóa, theo giám
định,… Hàng hóa phải đảm bảo không có các khuyết tật có thể nhìn thấy được khi
bàn giao (khuyết tật bên ngoài) và cả những khuyết tật không thể nhìn thấy ngay
được mà chỉ có thể phát hiện trong quá trình sử dụng (khuyết tật ẩn giấu bên trong).
Trường hợp không thể xác định một cách rõ ràng được đối tượng là hàng hóa được
giao có phù hợp với hợp đồng hay không thì theo quy định của LTM 2005, hàng
hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng nếu thuộc một trong các trường hợp
sau:
+ Không phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng
chủng loại.
+ Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên mua đã cho bên bán
biết hoặc bên bán phải biết vào thời điểm giao kết hợp đồng.
+ Không được bảo quản, đóng gói theo cách thức thông thường đối với loại
hàng hóa đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hóa trong
trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường loại hàng hóa đó.
+ Không đảm bảo chất lượng như chất lượng mẫu hàng hóa mà bên bán đã
giao cho bên mua.

Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nếu không trách nhiệm của các
bên nếu hàng hóa bàn giao không phù hợp với hợp đồng sẽ được quyết định căn cứ
vào Điều 39 và Điều 41 LTM 2005.
Ngoài việc giao đúng đối tượng và chất lượng hàng hóa, bên mua còn có nghĩa
vụ giao đúng số lượng hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp bàn
giao số lượng ít hơn, bên mua có quyền hoặc chấp nhận số lượng ít hơn đó, hoặc
yêu cầu bàn giao nốt phần còn lại (có thể kèm theo yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại), hoặc yêu cầu hủy bỏ hợp đồng (có thể kèm theo đòi bồi thường thiệt hại).
Việc bên mua tiếp nhận tài sản với số lượng ít hơn mà không có ý kiến khiếu nại gì
thì được coi là đã chấp nhận việc sửa đổi số lượng hàng hóa trong hợp đồng. Trong
trường hợp bên bán giao hàng với số lượng nhiều hơn số lượng đã thỏa thuận trong
hợp đồng, bên mua có quyền từ chối nhận phần hàng hóa giao thừa, bên bán phải
nhận lại số hàng thừa và chịu mọi chi phí liên quan. Nếu bên bán nhận số hàng thừa
thì phải thanh toán số hàng này theo giá do các bên thỏa thuận.
• Giao chứng từ kèm theo hàng hóa.

×