Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bệnh viêm vú bò sữa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.69 KB, 16 trang )

Bệnh viêm vú bò sữa
Bệnh viêm vú (infection) Bệnh xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập
vào ống tiết sữa, nhân lên trong tuyến sữa. Sự xuất hiện hoặc
không xuất hiện bệnh được xác định thông qua việc lấy mẫu
sữa đảm bảo vô trùng ở từng núm vú riêng biệt, nuôi cấy mẫu
trong điều kiện phòng thí nghiệm. Bệnh có thể ở dạng lâm sàng
hoặc cận lâm sàng tuỳ thuộc vào mức độ của quá trình viêm
nhiễm.

1. Viêm vú lâm sàng:
Thể viêm vú lâm sàng đặc trưng bởi những biến đổi rõ rệt ở tuyến
sữa hoặc sữa. Những biến đổi trên có thể ở các mức độ nặng nhẹ
khác nhau trong quá trình diễn biến của bệnh. Các trường hợp
bệnh ở thể lâm sàng có thể được coi là thể á cấp tính (thể lâm sàng
nhẹ) khi các biểu hiện biến đổi nhẹ của sữa và các núm vú bị
nhiễm như tạo váng, lổn nhổn hoặc sữa biến màu. Các núm vú này
có thể bị sưng nhẹ và nhạy cảm.
2. Viêm vú cấp tính:
Các trường hợp cấp tính được đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột
của các biểu hiện sưng, tấy đỏ, bầu sữa rắn, con vật đau, sữa không
bình thường và sản lượng sữa giảm. Những biểu hiện toàn thân
như sốt, kém ăn.
3. Viêm vú quá cấp tính:
Thể bệnh này ít thấy và cũng có những biểu hiện như trên, nhưng
cũng có thể có những biểu hiện như suy nhược, tăng nhịp tim và
tần số hô hấp, vận động kém, chân lạnh, phản xạ mắt giảm, mất
nước và tiêu chảy.
4. Viêm vú cận lâm sàng:
Thể bệnh này thường không rõ, không thể phát hiện bằng quan sát
mắt thường, song nó được nhận biết thông qua các xét nghiệm định
hướng như phát hiện các vi khuẩn, các tế bào thân. Một số người


chưa ý thức đầy đủ về sự lưu hành cũng như tầm quan trọng về
mặt kinh tế của viêm vú ở thể cận lâm sàng, bởi vì sữa gần như ở
trạng thái bình thường. Thể bệnh này rất quan trọng bởi những lý
do sau đây:
- Sự lưu hành cao gấp 15 - 40 lần so với thể lâm sàng.
- Luôn là nguy cơ của thể lâm sàng.
- Bệnh kéo dài.
- Khó phát hiện.
- Giảm quá trình tiết sữa.
- Có nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng sữa.
Ngoài ra thể cận lâm sàng còn quan trọng bởi vì nó là nguồn tàng
trữ mầm bệnh và gây nhiễm cho những con trong đàn.
5. Viêm vú mạn tính.
Thể mạn tính có thể bắt đầu như bất cứ thể lâm sàng hoặc thể cận
lâm sàng. Bệnh được thể hiện qua các triệu chứng lâm sàng gián
đoạn. Thường có sự hình thành sẹo và làm biến đổi hình dạng
tuyến sữa bị nhiễm, cùng với giảm sản lượng sữa. Thời gian từ cận
lâm sàng đến lâm sàng có thể rất lâu tuỳ thuộc vào vi khuẩn gây
bệnh, những yếu tố bất lợi (stress) và các yếu tố khác.
6. Các trường hợp viêm vú không đặc biệt.
đôi khi được xem xét như viêm vú không do vi khuẩn, dạng này
xảy ra khi vi khuẩn không phân lập được từ sữa. Một vài nguyên
nhân được đề cập trong chương 5. Các trường hợp như vậy có thể
hoặc là do viêm vú lâm sàng, hoặc là do viêm vú cận lâm sàng.
Bất kỳ nguyên nhân là gì thì mục đích cuối cùng trong việc quản lý
bệnh viêm vú là ngăn chặn bệnh xảy ra. Nếu không chúng ta không
thể thành công trong việc chống lại bệnh viêm vú.
1. thiệt hại kinh tế.
Hiện nay người ta đã đánh giá chính thức rằng bệnh viêm vú là
một bệnh nguy hại nhất của bò sữa. Nghiên cứu mới đây đã đánh

giá lại rằng bệnh viêm vú chiếm 26% tổng số chi phí tất cả bệnh tật
của bò sữa, nó đặc biệt nghiêm trọng vì sự thiệt hại từ bệnh viêm
vú đã cao chừng hai lần thiệt hại do vô sinh và bệnh sinh sản.
Mặc dù hậu quả của bệnh viêm vú đã được dẫn chứng trong nhiều
nghiên cứu rộng rãi trên toàn thế giới, thực tế này đã không được
truyền đạt một cách thuyết phục đến một số chủ trại bò sữa ở khắp
nơi. Nhiều trường hợp dường như chỉ căn cứ vào bác sĩ thú y, đơn
thuốc, xem xét các trường hợp lâm sàng sẩy ra và phải loại thải để
giết mổ các động vật. Nếu đứng về phương diện sản xuất sữa thì
họ phải loại bỏ những con bò đã được điều trị: Những thiệt hại có
thể thấy được. Sự thiệt hại to lớn mà không thấy được trong quá
trình sản suất sữa bởi các trường hợp nhiễm bệnh phi lâm sàng, mà
các chủ trang trại không phát hiện ra.
Hội đồng quốc gia về bệnh viêm vú, một tổ chức phi lợi nhuận
thành lập năm 1961 để thúc đẩy nghiên cứu và đào tạo nhằm giảm
bệnh viêm vú, có đánh giá rằng sự thiệt hại do giảm sản lượng sữa
đã lên tới hơn 1 tỷ đô la hàng năm ở Mỹ. Tổng số thiệt hại tới gần
2 tỷ đô la.
Nhìn từ khía cạnh khác chi phí cho một nông trại nuôi bò sữa trung
bình khoảng 180 đô la cho một bò cái trong một năm.
Nhân số bò cái trong đàn của bạn với 180 đô la, bạn sẽ được một
con số có ý nghĩa về chi phí riêng của bạn trong bệnh viêm vú bò
sữa.
Sự thiệt hại sẽ ở mức cao hơn nếu như số lượng tế bào thân trong
sữa của đàn gia súc của bạn ở trên mức trung bình. Trừ đi chi phí
bệnh viêm vú vào túi tiền của bạn và bạn sẽ bắt đầu thấy sự thiệt
hại tổng sản phẩm sữa như thế nào từ các ca viêm vú cận lâm sàng.
Sự phân tích thiệt hại hàng năm do bệnh viêm vú gây ra đã được
hội đồng quốc gia về bệnh viêm vú soạn thảo vào năm 1985. Mặc
dù ngày nay, tỷ lệ bệnh viêm vú đã thấp hơn nhưng tổng thiệt hại

kinh tế vẫn còn là cao. Số liệu được thể hiện dưới đây.
Các số liệu được ghi thành từng mục đã khẳng định rằng khoảng
70-80% của tổng thiệt hại có liên quan đến bệnh viêm vú cận lâm
sàng, trong khi đó chỉ có 20-30% thiệt hại là do bệnh viêm vú lâm
sàng. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng những số liệu thiệt hại này
không bao gồm những thiệt hại khác của ngành chăn nuôi bò sữa
mà có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới bệnh viêm vú. Ví dụ
như sự tốn kém cho các máy vắt sữa, giảm chất lượng dinh dưỡng
của các sản phẩm sữa, làm sút kém các trang trại chăn nuôi bò sữa,
can thiệp vào các quá trình nâng cao tính di truyền của đàn bò sữa
và các yếu tố khác.
Ngu
ồn thiệt hại

Thiệt hại/1 con
bò ($) %
- Giảm sản
lượng sữa
- Sữa loại thải
- Thay thế đàn
sớm
- Giá bò giảm
- Thuốc
- Dịch vụ thú y
- Công lao động


$ 116,10
24,44
13,60

9,94
9,68
4,84
2,42

64
14
8
5
5
3
1
Tổng $181,02 100%

4. ảnh hưởng đến chất lượng sữa và thành phần sữa.
Ngày nay người tiêu dùng đã có nhận thức nhiều hơn so với trước
đây. Họ ý thức đến sức khoẻ và hy vọng rằng có một sản phẩm
chất lượng cao tức là khẩu vị tốt và thời gian bảo quản lâu hơn.
Chất lượng của sản phẩm sữa cuối cùng đưa ra cho người tiêu
dùng không tốt hơn chất lượng nguyên liệu của chúng. Quá trình
xử lý tốt nhất chỉ hy vọng vào sự duy trì chất lượng sữa từ các
trang trại, trong khi có nhiều đòi hỏi khác nhau về các dạng sản
phẩm theo yêu cầu của người tiêu dùng. Tất yếu là người chế biến
sữa thường dựa vào sữa trang trại có các thành phần lý, hoá học và
mùi vị như mong muốn.
Các công nhân trong ngành sản xuất sữa biết rằng sự tăng lên tổng
số vi sinh vật trong sữa thường song song với sự tăng lên về số
lượng vi khuẩn không bị diệt qua quá trình hấp Pasteur. Các thiết
bị vắt sữa không sạch và phần da của bầu vú không sạch và khô
ráo trước khi vắt sữa sẽ là nguồn lây nhiễm vi sinh vật phổ biến

nhất. Chúng ta phải lưu tâm đến các vi sinh vật gây viêm vú. Có sự
liên quan chặt chẽ giữa tỷ lệ nhiễm trùng bầu vú và độ ô nhiễm của
bề mặt núm vú. Do đó việc tránh nhiễm bẩn bề mặt núm vú sẽ
giảm cả bệnh viêm vú và cải thiện chất lượng cũng như thời gian
bảo quản sản phẩm sữa.
Khi mà tỷ lệ lưu hành của việc nhiễm bệnh qua sữa là rất nhỏ so
với 50 năm trước đây, chúng ta không được thờ ơ với việc đưa ra
cho người tiêu dùng các sản phẩm có chất lượng cao nhất. §ặt
nhiều tin tưởng vào việc hấp pasteur sữa, sự bảo quản lạnh để hạn
chế sự phát triển của vi khuẩn và trộn lẫn sữa có chất lượng thấp
và sữa có chất lượng cao. Phải lưu tâm hơn với việc đưa ra các
phương pháp quản lý và vệ sinh đúng đắn để thu được kết quả là
sản phẩm có lượng vi sinh vật thấp nhất. Các chủ trang trại sẽ thu
được nhiều lợi nhuận hơn qua các yêu cầu lớn hơn về sữa và các
sản phẩm khác từ sữa.
Người tiêu dùng mong muốn nhiều hơn vào những sản phẩm cuối
cùng của sữa có thể bảo quản lâu hơn. §ể mà trong một tuần (7
ngày) người tiêu dùng có thể chỉ một lần đến mua sữa ở siêu thị.
Những nghiên cứu gần đây đã đưa ra rằng đối với quy trình hấp
pasteur thì sau 14 ngày sữa có lượng tế bào thân it hơn 250.000 có
chất lượng cao hơn so với sữa có lượng tế bào thân lớn hơn
500.000. Các kết luận tương tự cũng được đưa ra khi chế biến sản
phẩm sữa từ sữa có lượng tế bào thấp so với lượng tế bào cao. Tất
yếu rằng sữa có chất lượng cao nhất sẽ được cung cấp cho người
chế biến nếu như yêu cầu của người tiêu dùng được đặt ra.
ảnh hưởng của viêm vú cận lâm sàng đối với thành phần sữa và
chất lượng chế biến sữa được đưa ra ở bảng sau:
1. Lactose (tốt) giảm 5-20%.
2. Tổng số protein (tốt) hơi giảm.
3. Casein (tốt) giảm 6-18%.

4. Globulin miễn dịch (tồi) tăng.
5.Chất rắn không béo (tốt) giảm 8%
6. Tổng số chất rắn (tốt) giảm 3-12%.
7. Chất béo (tốt) giảm 5-12%.
8. Lipit (tồi) tăng mùi khét.
9. Natri (tồi) tăng.
10. Chlo (tồi) tăng.
11. Canxi (tốt) giảm.
12. Phospho (tốt) giảm.
13. Kali (tốt) giảm.
14. Khoáng chất (tồi) tăng ít.
15. Bơ (tốt) giảm sự đông vón, độ béo và
sản lượng
16. ổn định nhiệt độ (tốt) Thấp đi.
Viêm vú cận lâm sàng đã dẫn đến kết quả là có sự tăng lên các
thành phần không mong muốn và giảm đi các thành phần mong
muốn của sữa khi chúng ta đang cố gắng tạo ra sản phẩm sữa có
chất lượn g cao.
Những điểm cần ghi nhớ
- Các chủ trại phải trả trung bình khoảng 180 đô la cho mỗi bò bị
viêm vú/năm.
- Khoảng 70-80% sự thiệt hại là do viêm vú cận lâm sàng.
- Các đàn bò với số lượng tế bào thân 400.000 sẽ thiệt hại 546 kg
(1.200 pound) sữa mỗi năm. Sự thiệt hại này còn lớn hơn ở bò có
số lượng tế bào thân cao hơn.
- Hấp pasteur sữa có lượng tế bào thân ít hơn 250.000 sẽ có kết quả
hơn sữa có lượng tế bào thân lớn hơn 500.000.
1. các phương pháp kiểm tra trên bò
1.1. Kiểm tra đặc tính lý học.
Kiểm tra đặc tính lý học tốt nhất là trên bầu vú cạn sữa, ngay sau

khi cho sữa. Kiểm tra bầu vú để tìm ra các núm vú cứng, sưng và
nóng do viêm vú cấp tính, các núm vú méo mó với các mô sẹo là
biểu hiện của sự thiệt hại vĩnh viễn.
1.2. Kiểm tra những giọt sữa đầu tiên (striptest).
Sữa đầu phải được kiểm tra trong suốt thời kỳ chuẩn bị cho sữa.
Quá trình này được ví như là sự kiểm tra ban đầu (forestripping).
Phương pháp này cho phép tìm ra sữa không bình thường có biểu
hiện bệnh lý được giữ trong các thùng sữa và các có biểu hiện
viêm vú cần được chú ý. Sữa không bình thường có biểu hiện mất
màu, tạo váng, lổn nhổn và có thể loãng. Sự loại bỏ những giọt sữa
đầu cũng có tác dụng kích thích cơ chế tiết sữa.
Cách truyền thống, kiểm tra sữa đầu bằng cách sử dụng các cốc
(strip cụp) hay đĩa (strip plate). Tiến trình này được kiểm tra ở
phòng vắt sữa. Các cốc kiểm tra chỉ được sử dụng khi đã sạch và
đã làm vệ sinh sau mỗi lần vắt sữa.
Phòng vắt sữa thì nền nhà phải được dội sạch, sữa đầu có thể vắt ra
nền bằng cách dùng một tấm màu đen đặt lên trên nền và vắt sữa
lên trên đó để tăng tiến trình kiểm tra sữa. Quá trình kiểm tra sữa
thường làm dây các sữa có nhiễm bệnh lên các núm vú, bầu vú và
dây vào các cốc kiểm tra do người vắt sữa, vì vậy bầu vú, núm vú
và các cốc vắt sữa phải được rửa ngay lập tức. Theo thường lệ sữa
không bao giờ được dây ra tay và vi khuẩn không được lây lan từ
núm vú đến núm vú, từ bò đến bò.
1.3. Phương pháp thử viêm vú Califomia (CMT).
CMT và các phép thử tương tự để ước tính lượng tế bào thân trong
sữa, sự ước tính này sẽ được ghi vào bảng số lượng tế bào thân
theo điểm. Lượng tế bào thân có xu hướng tăng trong thời gian tiết
sữa và vẫn giữ số lượng cao trong nhiều giờ sau đó, kể cả ở những
núm vú không bị bệnh. Vậy ta chỉ nên thực hiện các test trước khi
vắt sữa (ngay sau khi kích thích bò tiết sữa bằng cách loại bỏ sữa

đầu) CMT phản ứng với chất có mặt trong tế bào thân ở sữa nhờ
các gel. Các phản ứng sẽ được ghi ở mức độ 0, T, 1, 2, 3 theo
lượng gel khi ta trộn sữa với chất gây phản ứng theo bảng sau:
điểm đánh giá
0
T
1
2
3
Không phản ứng
Phản ứng nhẹ
Phản ứng nhẹ TB
Phản ứng TB
Phản ứng mạnh

Nhiều chủ trang trại yêu cầu sử dụng hệ thống ghi điểm đơn giản
hơn theo bảng bên:
điểm đánh giá
N
(âm tính) Không phản ứng
S (nghi ngờ)
P (dương tính)
Phản ứng ít
Phản ứng rõ rệt

Các nghiên cứu cho thấy rằng phản ứng CMT tương đương với
lượng tế bào thân trong sữa theo bảng sau:
điểm đánh giá
0
T

1
2
3
100.000
300.000
900.000
2.700.000
8.100.000

Kết quả kiểm tra ở mỗi bò phải được ghi lại để tham khảo sau này.
Khi ta ghi lại như vậy và cùng với các lần ta có thể tìm ra các
trường hợp nhiễm bệnh cận lâm sàng, các trường hợp nhiễm bệnh
cận lâm sàng này ta sẽ không biết trước cho tới khi bệnh nặng hơn.
Các tế bào có trong sữa là các tế bào bạch cầu đi vào bầu vú qua
máu. Số lượng TBBC tăng lên là do nhiễm bệnh viêm vú hoặc do
các tổn thương cơ học.
Sự tập trung tế bào thân cao trong sữa (>200.000 Tb/ml) là dấu
hiệu không bình thường của bầu vú. CMT sẽ không xác định được
một cách chính xác là bò nào cần được điều trị bởi vì chỉ 60% bò
với lượng tế bào thân >500.000/ml thực sự nhiễm bệnh viêm vú.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×