LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ
chức xã hội trong xây dựng Nông thôn mới xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An” là kết quả nghiên cứu nghiêm túc.
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong khoá luận này
là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khoá luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khoá luận này đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Lê Đức Toàn
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ. Tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể và cá
nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời
cảm ơn tới thầy giáo GVC.ThS Lê Khắc Bộ, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa, các thầy giáo, cô giáo
Khoa Kinh Tế & PTNT, cùng toàn thể các thầy cô giáo trường ĐH Nông nghiệp
Hà Nội đã luôn tận tâm giảng dạy, tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt
4 năm học tập tại trường.
Cho phép tôi gửi lời cảm ơn đến các bác, các cô, các chú trong sở NN và
PTNT tỉnh Nghệ An, UBND xã Quỳnh Văn, các hộ nông dân ở xã Quỳnh Văn
đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ và động viên khích lệ tôi, đồng thời có những ý
kiến đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài.
Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Lê Đức Toàn
ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Để thích ứng kịp với quá trình phát triển của đất nước, tỉnh Nghệ An nói
chung và huyện Quỳnh Lưu nói riêng, trong đó có xã Quỳnh Văn đã tiến hành
xây dựng, cải thiện bộ mặt nông thôn theo các tiêu chí NTM mà Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành ngày 16/4/2009. Để góp phần xây dựng NTM xã Quỳnh
Văn, vấn đề đặt ra là phải đánh giá được thực trạng vai trò của các đoàn thể và
tổ chức xã hội cấp cơ sở với việc tham gia xây dựng NTM, đề ra được các giải
pháp cụ thể, phương hướng vận động, nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ
chức xã hội trong việc xây dựng NTM. Xét trên tình hình thực tế tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong
xây dựng Nông thôn mới xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”
với mục tiêu từ việc tìm hiểu thực trạng xây dựng nông thôn mới và vai trò của
các đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng Nông thôn mới tại xã Quỳnh Văn
huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, đề tài góp phần chỉ ra kết quả đã đạt được
cũng như các yếu tố ảnh hưởng, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến
nghị nhằm nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng
Nông thôn mới, từ đó đẩy nhanh tiến độ mô hình NTM thành công tại địa
phương.
Nhằm làm rõ mục tiêu đề ra thì chúng ta cần nắm rõ cơ sở lý luận của đề
tài, giúp hiểu sâu hơn về đối tượng cần nghiên cứu. Vì vậy, tôi đưa ra khái niệm,
mục tiêu, vai trò của nông thôn, nông thôn mới, đoàn thể và tổ chức xã hội. Cuối
cùng trong phần này, tôi còn nêu ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy vai
trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng NTM, các văn bản chỉ đạo
của Đảng và nhà nước đối với các đoàn thể và tổ chức xã hội. Ở phần cơ sở thực
tiễn, tôi đưa ra kinh nghiệm về xây dựng nông thôn mới ở một số nước trên thế
giới, đó là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan; kinh nghiệm về xây nông thôn
iii
mới ở một số tỉnh của Việt Nam như Hà Tĩnh, Vĩnh Phúc và Tây Ninh. Từ đó
rút ra một số bài học kinh nghiệm từ xây dựng nông thôn mới.
Sau khi tiến hành chọn điểm nghiên cứu trên địa bàn hai thôn, xóm của xã
Quỳnh Văn là thôn 6 và thôn 16 thì tôi tiến hành đi điều tra và thu thập số liệu
dưới hai nguồn: số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp. Thực hiện phỏng vấn hộ nông
dân và tham vấn cán bộ địa phương qua phiếu điều tra nhằm thu thập số liệu sơ
cấp. Số liệu được xử lý qua phương pháp thống kê mô tả và phương pháp so
sánh…
Qua quá trình nghiên cứu thực trạng các đoàn thể và tổ chức xã hội trong
xây dựng NTM tại xã Quỳnh Văn huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, có một số
vấn đề nổi bật như sau:
Về công tác tuyên truyền: Các cán bộ trong đoàn thể và tổ chức xã hội đã
tuyên truyền đầy đủ và kịp thời tới từng người dân đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, các Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành của
Trung ương và của địa phương về xây dựng nông thôn mới.
Về tham gia thành lập Ban quản lý: Ban quản lý xây dựng nông thôn mới
ở các thôn do cộng đồng người dân tại thôn tổ chức họp, bàn bạc và bầu ra, đại
diện cho tiếng nói của người dân ở thôn. Nhìn chung, Ban quản lý đã làm việc
tốt và hoàn thành đúng kỳ vọng của người dân.
Về lập kế hoạch và công tác quy hoạch: Vai trò của các đoàn thể và tổ
chức xã hội được thể hiện thông qua các cuộc họp dân để bàn bạc các phương
án, trình bày các hoạt động ưu tiên thực hiện trước. Đồng thời, thông qua các
cuộc họp lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và người dân trên địa bàn, cắm
mốc, đánh giá hiện trạng, những truyền thống, đặc điểm riêng của vùng, đóng
góp ý kiến vào bản quy hoạch,… Tuy nhiên, công tác giám sát thực hiện quy
hoạch vẫn chưa thể hiện rõ được vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội một
phần do trình độ, năng lực của cán bộ còn hạn chế, sự hiểu biết về quy hoạch thì
iv
hầu như không có, phần khác do thời gian triển khai thực hiện quy hoạch thường
khá dài.
Về công tác giám sát: Qua điều tra thực tiễn, chúng ta có thể thấy đại diện
các đoàn thể và tổ chức xã hội (ban giám sát) cùng đại diện người dân tham gia
giám sát từng nội dung cụ thể trong quá trình thi công các hạng mục từ kiểm tra
chất lượng vật tư cho đến chất lượng kỹ, mỹ thuật của công trình. Có thể nói,
qua quá trình thực hiện giám sát sẽ giúp các hội viên, đoàn viên phát huy được
tính tự chủ cũng như trách nhiệm của mình trong mọi hoạt động xây dựng nông
thôn mới tại địa phương, đảm bảo sự dân chủ, công khai và minh bạch trong tiến
trình xây dựng phát triển thôn, xã.
Về nghiệm thu và sử dụng các công trình: Sau khi công trình hoàn thành,
chủ đầu tư tiến hành nghiệm thu và thực hiện quyết toán công trình. Thành phần
tham gia nghiệm thu gồm: đại diện Ban quản lý xã, nhóm thợ, tổ chức, cá nhân
thi công xây dựng, đại diện giám sát của chủ đầu tư và Ban giám sát cộng đồng,
tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng công trình, đại diện cộng đồng dân cư hưởng
lợi công trình do mỗi thôn bầu ra.
Quá trình kiểm tra, giám sát được thực hiện ở cấp thôn, xóm thông qua tổ
giám sát cộng đồng do chính người dân trong ngõ, trong thôn xóm tham gia.
Hoạt động của các ban giám sát và tổ giám sát cộng đồng được đánh giá tích
cực. Tuy nhiên, chất lượng giám sát của tổ giám sát cộng đồng còn yếu.
Sau khi công trình được hoàn thành thì được bàn giao lại cho người dân
tại thôn xóm quản lý. Tuy nhiên việc không quy định cũng như chế tài không rõ
ràng trách nhiệm của ai nên việc quản lý vẫn còn xem nhẹ.
Ngoài ra, đề tài còn nêu ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy vai trò
của các đoàn thể và tổ chức xã hội như trình độ cán bộ còn nhiều hạn chế, năng
lực triển khai thực hiện chương trình của đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cơ sở
còn nhiều hạn chế, sự tham gia của các cán bộ đảng viên còn chưa tích cực, trình
độ người dân thấp, chính sách của Đảng và nhà nước còn nhiều bất cập.
v
Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng việc phát huy vai trò
của các đoàn thể và tổ chức xã hội trên địa bàn vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Để
khắc phục phần nào những khó khăn này tôi xin đưa ra một số giải pháp như
sau: giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền, vận động; giải pháp xây dựng
các đoàn thể và tổ chức vững mạnh; giải pháp về tổ chức thực hiện các phong
trào thi đua; giải pháp nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ hoạt động ở các
đoàn thể và tổ chức xã hội cấp cơ sở. Bên cạnh đó tôi đã đưa ra một số kiến nghị
đối với nhà nước, đối với chính quyền xã nhà, đối với các đoàn thể và tổ chức xã
hội và đối với người dân nhằm góp phần thực hiện thành công nâng cao vai trò
của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng NTM tại xã Quỳnh Văn,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
vi
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ii
Phát triển nông thôn với việc nâng cao vai trò của người dân
trong việc tham gia xây dựng nông thôn là mục tiêu quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế, bình ổn xã hội, nhằm đạt đến
sự phát triển bền vững cho mỗi quốc gia. Tuy nhiên mỗi quốc gia
có một quốc sách phát triển để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của đất nước mình 25
2.2.4 Một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan 38
- Cơ sở vật chất trụ sở Đảng ủy, HĐND, UBND xã 56
- Hệ thống chính trị 56
Các ban nghành đoàn thể và tổ chức xã hội có nhiệm vụ triển khai chủ
trương của Đảng, các chương trình, nghị quyêt của tổ chức đoàn
thể tỉnh và của huyện về xây dựng NTM. 57
Đồng chí Chủ tịch xã là thành viên Ban chỉ đạo xây dựng NTM có trách
nhiệm tham mưu đề xuất việc triển khai thực hiện nghị quyết 26
BCH TW Đảng, xây dựng kế hoạch và chỉ đạo người dân các cơ
sở triển khai thực hiện. Đồng thời hàng tháng có báo cáo về ban
chỉ đạo xã qua cơ quan thường trực ban chỉ đạo xây dựng NTM
vào ngày 20 hàng tháng 57
Cuộc họp 68
Các tổ chức trong xã (1) 68
Đại diện các tổ chức tham gia (2) 68
So sánh (%) (2)/(1) 68
Số hộ trong 2 xóm (3) 68
Đại diện hộ dân tham gia (4) 68
So sánh (%) (4)/(3) 68
Lần thứ 1 68
36 68
36 68
100.00 68
vii
4.766 68
1.933 68
40,56 68
Lần thứ 2 68
36 68
29 68
80,56 68
4.766 68
2.378 68
49,89 68
Lần thứ 3 68
36 68
33 68
91,67 68
4.766 68
2.120 68
44,48 68
BQ 68
- 68
- 68
90,74 68
- 68
- 68
44,98 68
Nguồn: Báo cáo của BQL xã Quỳnh Văn. .68
“Tôi thấy từ khi huyện, xã phát động chương trình xây dựng nông thôn
mới gia đình chúng tôi được hỗ trợ rất nhiều trong sản xuất như,
là cán bộ khuyến nông giới thiệu những cây, con giống tốt,
viii
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhờ thế
mà mô hình VAC nhà tôi cho thu nhập cao hơn hẳn so với trước
kia, gia đình tôi sống cũng thoải mái hơn, có của ăn, của để” 80
Bà Đỗ thị Hà, xóm 6 80
80
PHIẾU PHỎNG VẤN 105
VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN THỂ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở XÃ QUỲNH VĂN, HUYỆN
QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN 105
ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của xã Quỳnh Văn (2011-2013) Error:
Reference source not found
Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động của xã Quỳnh Văn (2011-2013) Error:
Reference source not found
Bảng 3.3 Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Quỳnh Văn (2011-2013) Error:
Reference source not found
Bảng 4.1 Thực trạng cán bộ cơ sở năm 2013. .Error: Reference source not found
Bảng 4.2 Các kênh thông tin mà người dân nhận được về chương trình xây
dựng nông thôn mới Error: Reference source not found
Bảng 4.3 Ý kiến đánh giá của người dân về năng lực làm việc của Ban quản lý,
ban giám sát trong xây dựng NTM tại xã Quỳnh VănError: Reference source not
found
Bảng 4.4 Tiến trình hoạt động của xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội Error:
Reference source not found
Bảng 4.5 Tỷ lệ đại diện các tổ chức và người dân tham gia các cuộc họp Error:
Reference source not found
Bảng 4.7 Các tổ chức đoàn thể tham gia công tác xây dựng quy hoạch Error:
Reference source not found
Bảng 4.6 Các tổ cức đoàn thể tham gia lập kế hoạch phát triển.Error: Reference
source not found
Bảng 4.8 Ý kiến đánh giá của người dân về vai trò của các tổ chức đoàn thể
trong xây dựng NTM tại xã Quỳnh Văn Error: Reference source not found
Bảng 4.9 Công tác quản lý và sử dụng tài sản.Error: Reference source not found
Bảng 4.10 Tác động của chương trình NTM đến thu nhập của người dân Error:
Reference source not found
x
Bảng 4.11 Tác động của chương trình đến Văn hoá - xã hội Error: Reference
source not found
Bảng 4.12 Tác động của chương trình đến môi trường. .Error: Reference source
not found
xi
DANH MỤC HỘP
Hộp 4.1 Tâm sự của cán bộ Hội phụ nữ trong việc tuyên truyền, vận động
người
dân tham gia xây dựng nông thôn mới Error: Reference source not found
Hộp 4.2 Tác động của xây dựng nông thôn mới đến đời sống của người dân
Error: Reference source not found
Hộp 4.3 Tác động của xây dựng nông thôn mới đến tình hình an ninh trật tự
Error: Reference source not found
Hộp 4.4 Tác động của nông thôn mới dến môi trường Error: Reference source
not found
xii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCĐ: Ban chỉ đạo
BCH : Ban chấp hành
BQ : Bình quân
CC : Cơ cấu
CCB : Cựu chiến binh
CNH : Công nghiệp hóa
GTSX: Giá trị sản xuất
HĐH: Hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTND : Hỗ trợ nông dân
HTX : Hợp tác xã
KTXH : Kinh tế xã hội
NTM: Nông thôn mới
PTNT : Phát triển nông thôn
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TW : Trung ương
UBND : Uỷ ban nhân dân
VH-XH : Văn hoá xã hội
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
xiii
Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều
chủ trương chính sách thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển, nhằm cải
thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần cho nông dân. Song đối với cả nước
nói chung thì đời sống người dân nông thôn vẫn chưa mấy được cải thiện, thu
nhập thấp; ngành nghề, dịch vụ chưa phát triển, chưa có những mô hình phát
triển tốt ở các làng, xã.
Với hơn 73% dân số sinh sống, khu vực nông thôn đã đóng góp đặc biệt
quan trọng cho phát triển nền kinh tế đất nước và đảm bảo an sinh xã hội. Đẩy
mạnh CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông
nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất chất
lượng và khả năng cạnh tranh cao, gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn
mới, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện
nay.
Xây dựng nông thôn mới là chương trình tổng hợp về phát triển nông thôn
với 5 nội dung cơ bản là: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực của
người dân; Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội; Phát triển sản xuất và xây dựng các
hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả trong nông thôn; Phát triển văn hoá xã
hội, môi trường và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; nhằm nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của người dân nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Định hướng phát triển xây dựng nông thôn mới là một mục tiêu quốc gia có
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH - HĐH, tạo nền móng
1
cho phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, nâng cao đời sống cả về vật chất và tinh
thần cho người dân nông thôn, giảm dần khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn
với thành thị, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái, tạo môi trường sống trong lành cho khu vực nông thôn.
Cùng với cả nước, xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã
sớm triển khai thực hiện Chương trình. Sau một thời gian, Chương trình đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống, trở thành phong trào chung của cả hệ thống
chính trị trên địa bàn, được tầng lớp nhân dân hết sức quan tâm, ủng hộ và tích
cực triển khai. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền đã xác định đây là nhiệm vụ
trọng tâm, vì lợi ích đa số nhân dân, góp phần đảm bảo công bằng và ổn định
chính trị, xã hội; đã có Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch hành động và nỗ lực triển
khai Chương trình phù hợp với điều kiện địa phương.
Tuy nhiên, qua thực tế triển khai cho thấy, đại bộ phận các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và nhân dân nông thôn còn chưa hiểu đúng, đầy đủ về các nội dung
xây dựng NTM nhất là về vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng NTM;
cách thức phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn; thu hút nguồn
lực trong xây dựng NTM;… tâm lý chủ quan, thờ ơ vẫn còn tồn tại, nhiều người
vẫn coi đây như là một dự án phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước đầu tư và
chờ đợi sự hỗ trợ về kinh phí,… Nguyên nhân chính là công tác tuyên truyền,
tập huấn đến người dân và đội ngũ cán bộ còn chưa chú trọng; năng lực của cán
bộ còn hạn chế; vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội chưa được phát huy
đúng mức,…
Để góp phần xây dựng NTM xã Quỳnh Văn, vấn đề đặt ra là phải đánh
giá được thực trạng vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội cấp cơ sở với việc
tham gia xây dựng NTM, đề ra được các giải pháp cụ thể, phương hướng vận
động, nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong việc xây dựng
NTM. Xuất phát từ thực tế này, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Nâng cao
2
vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng Nông thôn mới xã
Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới và vai trò của các đoàn thể
và tổ chức xã hội về việc xây dựng NTM xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các
đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng NTM ở địa phương trong thời gian
tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các đoàn
thể và tổ chức xã hội trong xây dựng NTM;
- Đánh giá vai trò của các đoàn thể và tổ chức tham gia xây dựng NTM xã
Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An;
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới phát huy vai trò của các đoàn thể và
tổ chức xã hội tham gia xây dựng NTM;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ chức
xã hội, góp phần tham gia xây dựng NTM ở địa phương trong thời gian tới.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội
trong việc thực hiện xây dựng NTM ở xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An;
- Chủ thể nghiên cứu của đề tài là người dân và cán bộ của các đoàn thể
và tổ chức xã hội cấp cơ sở;
- Khách thể nghiên cứu của đề tài là các đối tượng có liên quan khác như :
UBND, Đảng bộ xã, Chi bộ Đảng các thôn, HTX, các bộ phận quản lý kinh tế
cấp xã,… và những vấn đề có liên quan đến đề tài.
3
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng xây dựng mô hình NTM và vai trò
của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong việc thực hiện xây dựng NTM trên địa
bàn xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
* Phạm vi không gian
Khảo sát các đoàn thể và tổ chức xã hội cấp cơ sở về hoạt động tham gia
xây dựng NTM. Khảo sát thực trạng mô hình NTM ở xã Quỳnh Văn, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
* Phạm vi về thời gian
Thu thập tài liệu về sự tham gia của các đoàn thể và tổ chức xã hội, thực
trạng xây dựng NTM xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An từ 2011-
2013; số liệu được thu thập qua điều tra, phỏng vấn các cấp uỷ, chính quyền,
ban ngành về hoạt động của các đoàn thể và tổ chức xã hội; phỏng vấn các hộ
nông dân năm 2014; đề xuất giải pháp nâng cao vai trò của các đoàn thể và tổ
chức xã hội trong xây dựng NTM xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An giai đoạn 2014 - 2020.
4
Phần II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
CÁC ĐOÀN THỂ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Nông thôn
Nông thôn hiểu theo nghĩa rộng nhất được coi như là một khu vực địa lý,
nơi diễn ra các hoạt động sinh kế cộng đồng gắn bó, có quan hệ trực tiếp đến
khai thác, sử dụng, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên phục vụ hoạt
động sản xuất nông nghiệp.
Cho đến nay, không có một khái niệm chuẩn cho nông thôn, tùy theo mục
đích nghiên cứu mà người ta đưa ra nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm phân biệt nông thôn với đô thị, người ta thường xem xét các
chỉ tiêu về mật độ dân số, mức sống người dân ở nông thôn thấp hơn ở đô thị.
Có ý kiến lại cho rằng nên dựa vào trình độ phát triển cơ sở hạ tầng để
phân biệt rằng nông thôn là vùng có cơ sở hạ tầng kém phát triển hơn đô thị.
Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào trình độ tiếp cận thị trường, phát
triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn vì cho rằng nông thôn có trình độ sản
xuất hàng hóa cũng như khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn so với đô thị.
Cũng có quan điểm cho rằng nông thôn là vùng có dân cư chủ yếu làm
nông nghiệp, tức là nguồn sinh kế chính của cư dân trong vùng nông thôn là từ
hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Những quan điểm trên chỉ đúng trong từng khía cạnh cụ thể và chỉ phù
hợp đới với từng quốc gia nhất định. Nó phụ thuộc vào trình độ phát triển, cơ
cấu kinh tế và cơ chế áp dụng cho từng nền kinh tế. Như vậy, khái niệm về nông
thôn chỉ mang tính tương đối, có thể thay đổi theo thời gian cho phù hợp với tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới.
5
Đối với Việt Nam trong điều kiện hiện nay, chúng ta có thể hiểu:
“Nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó chủ yếu là nông
dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội
và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các
tổ chức khác”
(Giáo trình Phát triển nông thôn, trường ĐHNN Hà Nội, 2005, trang 11)
2.1.1.2 Nông thôn mới
Trước tiên cần phải hiểu rõ hai vấn đề về khái niệm nông thôn mới. Thứ
nhất, nông thôn mới vẫn phải là nông thôn chứ không phải thị tứ, đô thị. Thứ
hai, là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền thống. Nếu so sánh giữa
nông thôn mới và nông thôn truyền thống thì nông thôn mới phải bao hàm cơ
cấu mới và chức năng mới.
Xây dựng nông thôn mới không phải là việc biến làng xã thành thị tứ mà
phải lấy đô thị hóa và phi nông hóa nông dân làm động lực chính. Xây dựng
nông thôn mới phải đặt trong bối cảnh đô thị hóa, trong đó chuyển dịch lao động
nông thôn chính là nội dung quan trọng của sự nghiệp xây dựng nông thôn mới
với các chủ thể là các tổ chức nông dân. Hợp tác xã nông dân là tổ chức đóng
vai trò đặc biệt trong sự nghiệp này.
Khái niệm mô hình nông thôn mới mang đặc trưng của từng vùng nông
thôn khác nhau. Nhìn chung mô hình nông thôn mới được áp dụng thí điểm ở
cấp xã, thôn, được phát triển toàn diện theo hướng CNH - HĐH dân chủ hóa và
văn minh hóa.
Về lý thuyết, sự hình dung chung của các nhà nghiên cứu về mô hình
nông thôn mới là những kiểu mẫu cộng đồng theo tiêu chí mới, tiếp thu những
bài học khoa học - kỹ thuật hiện đại, song vẫn giữ được những đặc trưng cơ bản
của con người và lối sống Việt Nam. Mô hình nông thôn mới được quy định bởi
các tính chất: Đáp ứng nhu cầu phát triển; Có sự đổi mới về tổ chức, cách thức
vận hành và cảnh quan môi trường; Đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các lĩnh
6
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; Tiến bộ hơn so với mô hình cũ; Bao hàm
những đặc điểm thích hợp chung có thể phổ biến và vận dụng trên cả nước.
Xây dựng nông thôn mới căn bản phải chú trọng đổi mới tư duy, nâng cao
năng lực của người dân, tạo động lực giúp họ chủ động phát triển kinh tế, xã hội,
góp phần thực hiện chính sách vì nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thay đổi cơ
sở vật chất và diện mạo đời sống xã hội theo hướng kế thừa, phát huy và đổi
mới. Xây dựng nông thôn mới có nhiệm vụ nâng cao chất lượng cuộc sống
người dân nông thôn, qua đó thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và
thành thị. Đây là quá trình lâu dài và liên tục, là một trong những nội dung trọng
tâm cần tập trung lãnh đạo trong toàn bộ đường lối, chủ trương phát triển đất
nước và của từng địa phương trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Mục tiêu xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội hiện
đại; Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xã hội nông
thôn ổn đinh, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; Môi trường sinh thái được bảo vệ;
Nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; Xây dựng
giai cấp nông dân, củng cố liên minh công - nông và đội ngũ trí thức, tạo nền
tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc, đảm bảo thực hiện thành công sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Vì vậy, có thể quan niệm: “Mô hình nông thôn mới là toàn bộ những đặc
điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng
yêu cầu đặt ra cho nông thôn nước ta trong điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn
được xây dựng mới so với mô hình nông thôn cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt”
(Phan Xuân Sơn, Nguyễn Cảnh, Xây dựng mô hình nông thôn mới nước ta hiện
nay, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia)
7
2.1.1.3 Đoàn thể
Đoàn thể là tổ chức quần chúng gồm những người có chung quyền lợi và
nghĩa vụ, hoạt động vì những mục đích chính trị, xã hội,… nhất định.
Các đoàn thể trong nông thôn thường có ý thức về tôn chỉ, mục đích
chung nên dễ thành lập, tổ chức các hoạt động cũng như duy trì ý nghĩa, mục
đích của đoàn thể trong các tành viên của mình, nó thường bền vững do có cơ sở
tại chỗ.
Các đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ,
Hội cựu chiến binh được lập ra bởi các nhu cầu khác nhau về xã hội, kinh tế, tín
dụng, nghề nghiệp,… Các đoàn thể này gắn kết các thành viên và hoạt động
theo pháp luật , những quy định của từng đoàn thể. Điểm chung của các đoàn
thể là được lập ra do nhu cầu cần thiết của các thành viên, người lãnh đạo và các
thành viên đều tự nguyện, hào hứng tham gia các hoạt động vì lợi ích chung.
Thông qua vai trò thành viên của một tổ chức, các cá nhân trở nên tích cực hơn,
tự giác hơn, họ sẵn sàng tham gia các hoạt động mang lại lợi ích thiết thực cho
bản thân và cho các thành viên khác. Ở nông thôn, các thành viên của các tổ
chức này có gắn kết với nhau bởi tình làng nghĩa xóm, có vai trò tích cực trong
các hoạt động khuyến nông, xoá đói giảm nghèo cho các thành viên, tín dụng,
vận động các thành viên tham gia tích cực các hoạt động sản xuất, văn hoá, y tế,
giáo dục, môi trường. Các tổ chức này còn là chỗ dựa vững chắc của chính
quyền địa phương, cùng chính quyền thực hiện tốt việc phát huy quyền tự chủ
của người dân trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
2.1.1.4 Tổ chức xã hội
Khái niệm tổ chức xã hội được dùng với nhiều nghĩa khác nhau trong các
ngành khoa học khác nhau và trong tư duy đời thường. Tổ chức xã hội có thể
được hiểu hoặc là một thành tố của cơ cấu xã hội, hoặc là một dạng hoạt động,
hay là mức độ trật tự nội tại, sự hài hoà giữa các thành phần của một chỉnh thể.
Khái niệm tổ chức xã hội được xem như là một thành tố của cơ cấu xã hội; với ý
8
nghĩa này, tổ chức xã hội chính là một hệ thống các quan hệ, tập hợp liên kết cá
nhân nào đó để đạt được một mục đích nhất định. Như vậy, định nghĩa này nhấn
mạnh đến hệ thống các quan hệ liên kết cá nhân chứ không phải chính tập hợp
cá nhân trong các tổ chức và các quan hệ ở đây là các quan hệ xã hội. Nếu như
giữa tập hợp các cá nhân không có những quan hệ xã hội thì họ chưa thể được
coi là thành viên của một tổ chức xã hội nào đó. Những quan hệ này sẽ liên kết
các cá nhân vào một nhóm để họ cùng thực hiện một hoạt động chung nào đó
nhằm đạt được những lợi ích nhất định.
2.1.1.5 Vai trò của các đoàn thể và tổ chức xã hội trong xây dựng nông thôn
mới
Xây dựng nông thôn mới là một vấn đề rộng lớn, liên quan không chỉ đến
Chính phủ, những người dân mà còn đến các đoàn thể và tổ chức xã hội trong
nông thôn. Các đoàn thể và tổ chức xã hội này đóng góp tích cực và mọi mặt
hoạt động của sự phát triển và bổ sung vào vai trò của Đảng, Nhà nước trong sự
phát triển nông thôn.
Các đoàn thể và tổ chức xã hội là những cơ quan trực tiếp với người dân
và triển khai các vấn đề, nội dung trong xây dựng nông thôn mới. Nâng cao vai
trò đồng thời tạo điều kiện để các đoàn thể và tổ chức xã hội phát huy có hiệu
quả trong các hoạt động xây dựng nông thôn mới là trách nhiệm của Nhà nước
và mỗi người dân. Các đoàn thể và tổ chức xã hội liên quan đến xây dưng nông
thôn mới bao gồm chính quyền tỉnh, huyện, xã; các tổ chức đại diện cho nông
dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, hợp tác xã kiểu mới;
các ngân hàng và hiệp hội tín dụng; các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
tư nhân.
2.1.2 Sự cần thiết xây dưng nông thôn mới
Nông thôn nước ta là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về
thành phần tộc người, về văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập
quán của cộng đồng. Một trong những vấn đề cần đặc biệt quan tâm trong quá
9
trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là
thực sự tôn trọng, phát huy tối đa vai trò, vị thế chủ thể của người nông dân về
chính trị, kinh tế và văn hóa Đây là nhóm dân số đông nhất ở nước ta hiện nay,
là giai cấp Cách mạng, đồng hành cùng với giai cấp công nhân trong suốt chiều
dài lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng lại đang gặp nhiều khó
khăn trong đời sống và ít được hưởng lợi nhất các thành quả của Cách mạng.
Nhìn chung, trình độ học vấn của nông dân nước ta hiện nay còn thấp, nặng về
kinh nghiệm, nên cần kiên trì, lâu dài hỗ trợ nông dân về khoa học - kỹ thuật,
đưa tiến bộ khoa học vào nông nghiệp, nông thôn.
Nông thôn đang rất cần những quyết sách phát triển phù hợp trên cơ sở
khoa học, sát thực tế cho từng địa phương, vùng miền và thậm chí cho từng
nhóm dân tộc, mà trước hết là công tác quy hoạch để hoàn thiện định hướng, nội
dung đầu tư theo lộ trình phù hợp hướng tới phát triển bền vững và hiệu quả
trong từng bước đi.
Xây dựng nông thôn mới là chủ trương có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Chủ trương này có mục tiêu toàn diện: xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội nông thôn từng bước hiện đại; xây dựng cơ cấu kinh tế và các
hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xây dựng
xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi
trường sinh thái; giữ vững an ninh - trật tự; tăng cường hệ thống chính trị ở nông
thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Như vậy, chủ trương xây dựng nông thôn mới mang tính nhân văn sâu
sắc, vừa là mục tiêu, yêu cầu của phát triển bền vững, vừa là nhiệm vụ cấp bách,
lâu dài, đòi hỏi phải tiến hành đúng quy trình, đồng bộ, chắc chắn.
10
2.1.3 Đặc điểm của nông thôn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập khu vực và
quốc tế
Làn sóng đô thị hoá, công nghiệp hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa của Việt
Nam những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đã thổi luồng sinh khí mới vào
nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam.
Đô thị hoá gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã trực tiếp góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng giá trị nông, lâm, thuỷ
sản trong tổng thu nhập quốc dân trong nước (GDP) và tăng dần tỷ trọng các
ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP. Đối với nông nghiệp, cơ cấu
nội ngành chuyển dịch theo hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn. Trong trồng trọt, tỷ trọng hoa màu, cây công
nghiệp, cây ăn quả ngày càng tăng.
Sự hình thành trên địa bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu chế
xuất các trung tâm dịch vụ, các khu đô thị mới… đã nâng giá trị sử dụng của đất
đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động, tạo môi
trường ứng dụng rộng rãi khoa học, công nghệ… Đô thị hoá kích thích và tạo cơ
hội để con người năng động, sáng tạo hơn trong tìm kiếm và lựa chọn các
phương thức, hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính
đáng. Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện - đó là xu
hướng chủ đạo và là mặt tích cực của đô thị hoá.
Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô thị hoá cùng với sự phát triển hạ
tầng văn hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại chúng, tăng cường quan
hệ làm ăn, buôn bán giữa các vùng miền… đã làm cho diện mạo nông thôn và
đời sống tinh thần của cư dân nông thôn ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Ở
nông thôn đã xuất hiện những yếu tố văn hoá đô thị mới, hiện đại, sự truyền bá
các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học, nghệ thuật có giá trị; sự du nhập
lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ… làm cho văn hoá làng
quê có những sắc thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ hưởng thụ và tham gia
11
sáng tạo văn hoá của nông dân nhìn trên tổng thể, được nâng lên.
Đó là xu hướng chủ đạo của quá trình đô thị hoá ở Việt Nam trong những
năm đổi mới. Thực tiễn đã chứng minh tính phù hợp quy luật và những tác động
tích cực của đô thị hoá đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam.
Tuy nhiên, do những khó khăn của bản thân nền kinh tế của đất nước đang
trong quá trình chuyển đổi và những hạn chế chủ quan trong quản lý, điều hành, đô
thị hoá ở Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế, đang phát sinh những vấn đề liên quan
đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân cần được nhận thức đúng và giải quyết hiệu
quả đó là: Nóng bỏng vấn đề quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai nông nghiệp; Sự
chậm chạp, ít hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế; Sự ùn đọng lao động ở
nông thôn; Sự phân tán, chia cắt trong quy hoạch; Hệ lụy về văn hoá, xã hội, môi
trường…
2.1.4 Vai trò của nông thôn mới đối với phát triển kinh tế xã hội và môi
trường
Xây dựng mô hình NTM có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội địa phương và được thể hiện qua các lĩnh vực sau:
* Về kinh tế: Nông thôn có nền sản xuất hàng hóa mở, hướng đến thị
trường và giao lưu, hội nhập. Để đạt được điều đó, cơ sở hạ tầng của nông thôn
phải hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng sản xuất, giao lưu buôn bán,
chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
- Thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, kích thích mọi người
tham gia vào thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, điều chỉnh, giảm bớt sự phân
hóa giàu nghèo, chênh lệch về mức sống giữa các vùng, giữa nông thôn và thành
thị.
- Phát triển các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó chú ý xây dựng mới
các HTX theo mô hình kinh doanh đa ngành. Hỗ trợ các HTX ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ phù hợp với các phương án sản xuất, kinh doanh, phát
triển ngành nghề ở nông thôn.
12