Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

“Nghiên cứu thực trạng phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.59 KB, 86 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong bài khoá luận là trung thực. Nếu có gì sai sót tôi
xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 2 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hà


i
LỜI CẢM ƠN
Em xin gởi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các
thầy cô của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô
khoa Kinh tế và PTNT của trường đã tạo điều kiện cho em thực tập ở
khoa để có nhiều thời gian cho khóa luận tốt nghiệp. Và đặc biệt em xin
chân thành cám ơn cô giáo Thạc sĩ Hà Thị Thanh Mai đã nhiệt tình
hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận thực tập.
Em cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến lãnh đạo, cán
bộ công chức Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An; Phòng Kinh tế
hợp tác và Kinh tế hộ Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Nghệ An; Phòng
Nông nghiệp và PTNT các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu; ông Trần Văn
Hùng - trưởng phòng Kinh tế hợp tác và kinh tế hộ thuộc Chi cục PTNT
là người hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho em trong đợt thực tập này để
em có thể học hỏi được nhiều kiến thức cũng như tích lũy kinh nghiệm
cho bản thân.
Trong quá trình thực tập, cũng như là trong quá trình làm bài báo
cáo, khó tránh khỏi sai sót, rất mong các Thầy, Cô bỏ qua. Về trình độ lý
luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của em còn hạn chế nên bài báo cáo
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến giúp
đỡ, hướng dẫn của Thầy, Cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và
hoàn thành tốt hơn bài báo cáo tốt nghiệp sắp tới.


Em xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày 2 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Hà
ii
TÓM TẮT KHOÁ LUẬN
Từ khi luật HTX ra đời, với hệ thống hành lang pháp lý rõ rang
hơn trước đã tạo điều kiện cho các loại hình HTX phát triển hơn trước.
Thờ gian qua, các HTX nói chung và các HTXNN nói riêng trên địa bàn
tỉnh Nghệ An đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng các HTXNN
có tăng lên, hoạt động của một số HTX có khuynh hướng phát triển bền
vững hơn, góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế và giải quyết các
vấn đề xã hội trong nông thôn. . Bên cạnh đó, các HTXNN vẫn còn xuất
hiện nhiều vấn đề nổi cộm, chưa thực sự thể hiện được vai trò “bà đỡ”
cho xã viên trong sản xuất và đời sống. Trước tình hình đó, để nghiên cứu
toàn diện về hoạt động của HTXNN từ đó đề xuất những giải pháp phát
huy thế mạnh, đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, xác
định đúng vai trò, vị trí của HTXNN trong chương trình xây dựng nông
thôn mới và trước yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh Nghệ An; tôi
chọn đề tài “Nghiên cứu thực trạng phát triển HTXNN trên địa bàn
tỉnh Nghệ An”.
Mục tiêu chính của đề tài là nghiên cứu thực trạng phát triển
HTXNN ở tỉnh Nghệ An nhằm hiểu rõ và đánh giá những mặt mạnh, tồn
tại, hạn chế, nguyên nhân, từ đó đề xuất những giải pháp để tiếp tục đổi
mới hoạt động, phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời
gian tới.
Đề tài đề cập đến những lý luận cơ bản liên quan đến phát triển
HTXNN như các khái niệm, các hình thức, đặc điểm, vai trò, tính tất yếu,
những đặc trưng cơ bản của HTX kiểu mới. Đồng thời đề tài cũng đưa ra

những cơ sở thực tiễn về tình hình phát triển HTXNN ở Việt Nam, rút ra
các bài học kinh nghiệm từ các nước có HTXNN phát triển.
Đề tài áp dụng tổng hợp các phương pháp, trong đó sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp thống kê mô tả, so sánh,
iii
phương pháp điều tra thông qua phỏng vấn bán cấu trúc các cán bộ chủ
chốt trong HTXNN.
Các HTXNN tỉnh Nghệ An giai đoạn 2008 - 2012 đã chuyển đổi
hoạt động theo Luật HTX 2003. Đến nay, phong trào HTX của tỉnh đã có
sự chuyển biến khá cả về quy mô, số lượng, chất lượng hoạt động; hình
thức tổ chức và hoạt động của HTXNN dần phù hợp với pháp luật về
HTX. Qua nghiên cứu thực tiễn hoạt động tại các địa phương trong tỉnh,
hoạt động của các HTXNN đã góp phần quan trọng trong việc phát triển
kinh tế, xã hội nông nghiệp nông thôn của tỉnh trong mấy năm qua. Tuy
nhiên, hầu hết các HTXNN vẫn đang còn có quy mô nhỏ, thiếu vốn, cơ sở
vật chất - kỹ thuật còn nhiều yếu kém, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý
điều hành còn hạn chế, hiệu quả sản xuất – kinh doanh thấp, lợi ích mang
lại cho xã viên không nhiều…
Những giải pháp được nêu ra là nâng cao nhận thức của cộng đồng
về phát triển kinh tế HTX; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán
bộ làm công tác quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể từ tỉnh đến huyện;
tăng cường thực hiện chính sách cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho HTXNN; đẩy mạnh việc liên doanh, liên kết với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; chuyển giao và áp dụng khoa
học công nghệ mới vào sản xuất, chế biến nông lâm sản; hỗ trợ và phát
triển thị trường nông sản. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên có ý
nghĩa rất quan trọng trong toàn bộ quá trình đổi mới và phát triển mô
hình HTX của tỉnh; góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH - HĐH
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Nghệ An nói riêng, cả
nước nói chung.

iv
MỤC LỤC
v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Thông tin cần thu thập và nguồn cung cấp
Bảng 4.1: Tình hình thành lập mới và giải thể HTXNN tỉnh Nghệ An
Bảng 4.2: Tình hình đất đai HTXNN tỉnh Nghệ An và 2 huyện nghiên
cứu năm 2012
Bảng 4.3 : Tình hình xã viên và lao động HTXNN tỉnh Nghệ An và 2
huyện nghiên cứu
Bảng 4.4: Chất lượng cán bộ quản lý HTXNN tỉnh Nghệ An và 2 huyện
nghiên cứu
Bảng 4.5: Các hoạt động dịch vụ của các HTXNN tỉnh Nghệ An
Bảng 4.6 : Kết quả phân loại HTXNN tỉnh Nghệ An
Bảng 4.7: Doanh thu dịch vụ của các HTXNN tỉnh Nghệ An
Bảng 4.8: Tình hình tài chính các HTXNN tỉnh Nghệ An và 2 huyện
nghiên cứu năm 2012
Bảng 4.9: Những khó khăn trong phát triển HTXNN của 2 huyện nghiên
cứu
vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHYT Bảo hiểm y tế
BHXH Bảo hiểm xã hội
BVTV Bảo vệ thực vật
CHLB Cộng hoà liên bang
CBQL Cán bộ quản lý
CN Chủ nhiệm
HTX Hợp tác xã
HTXNN Hợp tác xã nông nghiệp
KHCN Khoa học công nghệ

KHKT Khoa học kĩ thuật
LĐTX Lao động thường xuyên
NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PTNT Phát triển nông thôn
QSD Quyền sử dụng
UBND Uỷ ban nhân dân
SXKD Sản xuất kinh doanh
XHCN Xã hội chủ nghĩa
vii
viii
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Trước đòi hỏi của việc phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, các
nông hộ, nông trại lại tự nguyện liên kết với nhau để hình thành và xây
dựng những hình thức hợp tác thích hợp với nhu cầu thực tế sản xuất của
họ. HTXNN ra đời là sự tất yếu nhằm tạo nên sức mạnh của tập thể, giúp
các hộ nông dân thực hiện những công việc mà từng hộ gia đình không có
khả năng thực hiện, hoặc thực hiện kém hiệu quả.
Phát triển kinh tế tập thể là chủ trương lớn, xuyên suốt trong quá
trình phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Chỉ tính trong mười
năm (2002 – 2012), Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương chính
sách về phát triển kinh tế tập thể, nhất là Hợp tác xã. Dấu mốc quan trọng
nhất là Nghị quyết số 13/NQ-TW, Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả kinh tế tập thể”, Luật Hợp tác xã 2003; Nghị định số
88/2005/NĐ-CP về “một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển
hợp tác xã”, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX và mới đây nhất
là Luật Hợp tác xã 2012.
Nghệ An là tỉnh có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới và phát triển
các hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp. Đến cuối năm 2012, toàn

tỉnh có 453 HTXNN được chuyển đổi và thành lập mới, với nhiều qui mô
khác nhau. Tuy tăng trưởng của HTXNN so với các thành phần kinh tế
khác còn hạn chế nhưng có ý nghĩa rất lớn trong phát triển kinh tế - xã
hội của các địa phương trong tỉnh. Các HTX đã trở thành cầu nối chuyển
giao khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế địa phương, thu hút lao động, tạo việc làm, xóa đói giảm
nghèo trong nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động tín dụng nội bộ của HTX
bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho sản xuất của người dân,
1
nhất là các hộ nghèo có điều kiện đầu tư cho sản xuất. HTX đã hỗ trợ cho
kinh tế hộ phát triển hiệu quả, đồng thời tạo việc làm thường xuyên cho
hàng chục nghìn lao động. Hoạt động chủ yếu của HTXNN là cung cấp
dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp, nhằm hỗ trợ cho kinh tế hộ, kinh tế
trang trại phát triển.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển kinh tế
theo chiều sâu và bền vững theo chủ trương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh
Nghệ An, việc phát triển các HTX trên địa bàn tỉnh còn nhiều bất cập cần
được tháo gỡ. Hầu hết các HTX có quy mô nhỏ, thiếu vốn, cơ sở vật chất
- kỹ thuật còn nhiều yếu kém, các HTX còn thiếu cán bộ có năng lực
quản lý và điều hành các hoạt động dịch vụ. Tập quán sản xuất, kinh
doanh vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của cơ chế quan liêu bao cấp nên
chưa năng động, tích cực trong tìm kiếm thị trường, sản phẩm dịch vụ
mới; vẫn còn số ít HTX tồn tại hình thức, hiệu quả hoạt động thấp, thu
nhập của xã viên trong các HTX chưa tương xứng với tiềm năng tại các
địa phương.
Để đánh giá tình hình chuyển đổi, thành lập mới các HTXNN; hình
thức tổ chức bộ máy quản lý và các hoạt động chủ yếu trong HTXNN;
tìm hiểu rõ nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, từ đó đề xuất những giải
pháp nhằm tiếp tục phát huy những mặt mạnh và khắc phục những mặt
hạn chế, phát huy đúng vai trò, vị trí của kinh tế HTXNN trước yêu cầu

phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng XHCN, góp phần hoàn thành
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh
Nghệ An, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu thực trạng phát triển HTXNN
trên địa bàn tỉnh Nghệ An”.
1.2 Mục tiêu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiêu cứu thực trạng phát triển HTXNN ở tỉnh Nghệ An nhằm
hiểu rõ và đánh giá những mặt mạnh, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, từ đó
2
đề xuất những giải pháp để tiếp tục đổi mới hoạt động, phát triển
HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển HTXNN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ
An.
- Đề xuất một số giải pháp để các HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu: các HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
 trên địa bàn tỉnh Nghệ An
 
Thời gian lấy số liệu: Các thông tin và số liệu phục vụ cho đề tài thu thập
từ năm 2008 – 2012.
Thời gian nghiên cứu đề tài: Đề tài nghiên cứu từ ngày 16/01/2014 đến
ngày 04/05/2014.
 
Các lí luận chung về HTX và HTXNN; tập trung phân tích, đánh
giá về tình hình chuyển đổi và thành lập mới các HTXNN, tổ chức bộ
máy quản lý và các hoạt động của HTXNN trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3

PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
2.1 Cơ sở lí luận
2.1.1 Một số khái niệm
 !!
Liên minh Hợp tác xã Quốc tế định nghĩa: “ HTX là một tổ chức tự
trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và
nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí
nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ.”
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa “HTX là sự liên kết
của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự
nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi, nghĩa vụ sử dụng
tài sản mà đã chuyển giao vào HTX, phù hợp với nhu cầu chung và giải
quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục
vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung”
Theo Luật HTX năm 2012 “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể,
đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện
thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ
sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp
tác xã”.
Như vậy, HTXNN là tổ chức kinh tế hợp tác của những người
nông dân (cá nhân, hộ gia đình) có cùng nhu cầu, nguyện vọng, tự
nguyện góp sức, góp vốn lập ra theo quy định của pháp luật, phối hợp
giúp đỡ nhau phát huy sức mạnh tập thể, nhằm thực hiện có hiệu quả các
hoạt động dịch vụ hỗ trợ và sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông
4
nghiệp, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống, vật chất và tinh thần của
mỗi thành viên.

"#$%!!
Phát triển HTXNN là sự mở rộng về quy mô cũng như đổi mới,
nâng cao và hoàn thiện hơn hình thức tổ chức quản lý, trình độ cán bộ
quản lý…trong mỗi HTXNN để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu ngày càng
cao của nông dân trong nền kinh tế thị trường.
2.1.2 Các hình thức của HTXNN
- HTX dịch vụ nông nghiệp: là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra
làm dịch vụ cho nông nghiệp, mục đích phục vụ cho các khâu sản xuất
nông nghiệp cho các hộ nông dân, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào
cho sản xuất nông nghiệp (các HTX cung ứng vật tư, giống vật nuôi, cây
trồng…); dịch vụ các khâu cho sản xuất nông nghiệp ( HTX thuỷ lợi, bảo
vệ thực vật…); dịch vụ các yếu tố đầu ra cho sản xuất nông nghiệp ( HTX
chế biến, tiêu thụ sản phẩm…).
- HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: đối với loại hình HTX này, ngoài việc
làm các dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ xã viên, còn tổ chức sản xuất, kinh
doanh và phát triển các ngành nghề khác phục vụ sản xuất, kinh doanh và
đời sống của hộ xã viên và cộng đồng, như tín dụng nội bộ, dịch vụ điện.
- HTX sản xuất nông nghiệp: giống như các HTX sản xuất nông nghiệp ở
nước ta trước đổi mới nhưng mục đích nhằm tạo ra quy mô sản xuất thích
hợp chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo ra những ưu thế mới ở những
ngành khó tách riêng, khai thác những nguồn lực cần đầu tư lớn…
2.1.3 Đặc điểm của HTXNN
- HTXNN là một tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
được thành lập để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch
vụ nông nghiệp, có đặc trưng gắn với hộ nông dân.
- HTXNN trước hết là để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng của nông
dân về sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nông nghiệp; nông dân gia nhập
5
HTX vì họ cần HTX trợ giúp những việc mà họ không thể tự làm hoặc
làm một mình không có hiệu quả, khắc phục được những nhược điểm và

hạn chế khi sản xuất kinh doanh đơn lẻ.
- Mục tiêu của HTX là phục vụ nhu cầu, lợi ích chung của xã viên, không
phải vì lợi nhuận. Như vậy, HTX là một tổ chức kinh tế mang tính hợp
tác có tính xã hội sâu sắc, hỗ trợ các hộ nông dân tăng cạnh tranh trong
kinh tế thị trường.
- HTX là một tổ chức dân chủ, xã hội cao của nông dân, trong đó các
thành viên được bình đẳng, phát huy vai trò của cộng đồng dân cư nông
nghiệp trong quản lí xã hội, kinh doanh.
- Khi tham gia HTX, xã viên HTX bắt buộc phải góp vốn theo quy định
của Điều lệ, còn việc góp sức là tuỳ thuộc vào từng loại hình HTX, vào
yêu cầu của HTX và nguyện vọng của xã viên, không bắt buộc xã viên
phải góp sức. Sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX được
phân phối như sau: thanh toán các khoản bù lỗ, trích lập các quỹ HTX,
chia lãi theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên có tính đến mức
độ sử dụng dịch vụ của xã viên.
- HTX tôn trọng quyền độc lập tự chủ kinh tế của xã viên. Việc thành lập
HTX dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện; xuất phát từ nhu cầu, lợi ích
chung, các thành viên liên kết lại với nhau để phát huy sức mạnh tập thể
của từng thành viên, cùng giúp đỡ lẫn nhau thực hiện có hiệu quả các
hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của từng thành viên.
- HTX có tư cách pháp nhân và chỉ chịu trách nhiệm trả nợ trong giới hạn
vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX tại thời điểm
tuyên bố phá sản, xã viên cũng chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ
trong phạm vi vốn góp của mình.
2.1.4 Vai trò và tính tất yếu khách quan phát triển HTXNN
&'()*+,#$%!!
6
Hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp là một nhu cầu khách quan. Đó
là con đường phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Bởi lẽ, do đặc

điểm của sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể
sống, chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu và
các sinh vật khác. Cùng với các điều kiện thuận lợi, sản xuất nông nghiệp
gặp không ít khó khăn, trở ngại do tác động của thời tiết, khí hậu và các
yếu tố sâu bệnh, thú dữ phá hoại…
Từ thời xa xưa, các hộ nông dân đã có nhu cầu hợp tác với nhau để
hỗ trợ, giúp nhau vượt qua khó khăn, nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi nền
sản xuất còn mang nặng tính tự cung tự cấp thì quá trình hợp tác mang
tính chất hợp tác lao động theo mùa vụ, đổi công, cùng làm giúp nhau
nhằm đáp ứng yêu cầu thời vụ, hoặc tăng thêm sức mạnh để giải quyết
những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện, hoặc
làm riêng rẽ không có hiệu quả như phòng chống thiên tai, thú dữ, sâu
bệnh, đào kênh dẫn nước, v.v Quá trình hợp tác này còn mang đặc điểm
tình cảm, tâm lý truyền thống cộng đồng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau vượt
qua khó khăn trong sản xuất và đời sống.
Khi nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá
trình tát sản xuất ngày càng tăng cả về qui mô và chất lượng dịch vụ, như
dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, chế biến và tiêu thụ nông sản, thuỷ
lợi Trong điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu
cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc không đủ khả năng đáp ứng,
hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Từ đó nảy sinh nhu
cầu hợp tác ở trình độ cao hơn, đó là hợp tác thường xuyên, ổn định, có
tính đến giá trị ngày công – giá trị dịch vụ, dẫn đến hình thành HTX. Như
vậy, sự ra đời của HTX trong nông nghiệp là nhu cầu khách quan, gắn
với quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển cùng với quá trình phân
công chuyên môn hoá nảy sinh các chuyên ngành như sản xuất lương
7
thực, hoa, rau, quả, cây công nghiệp như chè, cà phê Đồng thời, cũng
xuất hiện nhiều loại dịch vụ chuyên ngành phục vụ cho nông nghiệp như:

cung ứng vật tư, vận chuyển, chế biến tiêu thụ nông sản Như vậy, trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội,
xuất phát từ mục tiêu kinh tế nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ hình
thức giản đơn đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Lực lượng sản
xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng, mối quan hệ hợp tác
ngày càng sâu rộng, do đó tất yếu hình thành và ngày càng phát triển các
hình thức kinh tế hợp tác ở trình độ cao hơn. Trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, sự hình thành và phát triển HTX của các hộ, trang trại gia đình
nông dân còn xuất phát từ nhu cầu kết hợp để làm tăng sức mạnh giúp đỡ
lẫn nhau chống lại sự chèn ép, lũng đoạn của tư bản độc quyền lớn nhằm
bảo đảm sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ và trang trại gia đình nông
dân. Đây là tầng lớp người có khó khăn hơn và chịu nhiều thiệt thòi, rủi
ro hơn trong xã hội tư bản. Từ góc độ này mà kinh tế hợp tác của nông
dân còn được coi là loại hình kinh tế mang bản chất xã hội – nhân đạo.
Nó là hình thức kinh tế cần thiết cho những người nghèo có tiềm lực kinh
tế yếu hơn trong xã hội chống lại xu hướng chèn ép, “cá lớn nuốt cá bé”
trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tàn khốc.
Hợp tác tạo nên sức mạnh của tập thể, giúp các hộ nông dân thực
hiện những công việc mà từng hộ gia đình không có khả năng thực hiện,
hoặc thực hiện kém hiệu quả hơn hợp tác, như phòng chống thiên tai, xây
dựng công trình thuỷ nông, phòng trừ sâu bệnh v.v Ngoài mục tiêu kinh
tế, hợp tác còn thực hiện các mục tiêu xã hội quan trọng. Theo Hồ Chí
Minh, hợp tác góp phần xây dựng tình đoàn kết xóm làng, tinh thần tương
thân tương ái nhằm xây dựng cộng đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn. Nhờ
vậy mà tạo nên sức mạnh có thể vượt qua khó khăn, trở ngại trong sản
xuất đời sống, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đối với nước ta, mục đích việc
tổ chức HTX còn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “để cải thiện đời sống
8
nông dân, làm cho nông dân được no ấm, mạnh khoẻ, được học tập, làm
cho dân giàu, nước mạnh”. Vì vậy, HTX là con đường đưa nông dân đi

lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mục đích riêng và mục đích chung của việc
xây dựng HTX.
&-$.+/!!
Hiện nay, HTXNN vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong phát triển
nông nghiệp, nông thôn và nông dân, góp phần cùng chính quyền xây
dựng nông thôn mới, là cầu nối quan trọng giúp Nhà nước triển khai các
chính sách tới nông dân và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân
đến với Nhà nước. Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, HTX dần
chuyển từ sản xuất tập trung sang mô hình cung cấp dịch vụ đầu vào, đầu
ra cho bà con xã viên và có những vai trò to lớn đối với nông nghiệp,
nông thôn và nông dân.
HTXNN góp phần thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, giúp tăng sức
cạnh tranh, khai thác các nguồn tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật để
phát triển, góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, thực hiện tốt
vai trò là cầu nối giữa các hộ sản xuất, xã viên với nhà nước và các tổ
chức kinh tế nhà nước.
Thông qua HTXNN mà các thành viên có thể tương trợ, giúp đỡ
được cho nhau có điều kiện được cung cấp dịch vụ đầu vào, đầu ra với
giá rẻ hơn giá thị trường. Ngoài ra, thành viên HTX còn được tư vấn,
cung cấp thông tin khoa học - kỹ thuật và thị trường , trao đổi kinh
nghiệm thông qua HTXNN vì đó cũng thường là nơi tập hợp kiến thức,
hiểu biết, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh từ Ban quản lý HTX hoặc từ
các thành viên khác của HTX. Trước đây, khi chưa tham gia vào HTX,
nếu từ hoạt động kinh tế của bản thân, thành viên HTX không thể tạo ra
lợi nhuận hoặc chỉ tạo ra ít lợi nhuận thì nay, trong sự hợp tác, họ được
hỗ trợ và có điều kiện tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.
9
HTXNN phát triển sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc, góp phần giải
quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập và bảo đảm đời sống ổn định cho
xã viên và người lao động, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội ở địa

phương, là tiền đề quan trọng để thực hiện dân chủ hoá và nâng cao văn
minh ở nông thôn; các hợp tác xã phát huy tinh thần tương thân, tương ái,
đoàn kết hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau để vượt nghèo, góp phần làm giảm bớt
những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường và ổn định xã hội ở nông thôn.
HTXNN góp phần quan trọng vào việc nâng cấp và phát triển kết
cấu hạ tầng nông thôn: hệ thống điện, thuỷ lợi, giao thông nông thôn, các
công trình phúc lợi xã hội, như nhà mẫu giáo, nhà trẻ, nhà văn hoá,
trường học để phục vụ cho xã viên và cộng đồng dân cư.
2.1.5 Những đặc trưng cơ bản của HTX kiểu mới
01: khác với HTX kiểu cũ, thành viên HTX
chỉ gồm các thể nhân, HTX kiểu mới là một tổ chức kinh tế do các thành
viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, cán bộ, công
chức, các hộ sản xuất, kinh doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuộc các thành phần kinh tế, Luật HTX năm 2012 còn quy định thêm đối
tượng người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam…), cả người có ít
vốn và người có nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn hoặc
có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình
theo qui định của pháp luật về HTX. HTX không ngăn cản tính tự chủ sản
xuất, kinh doanh của các thành viên, mà chỉ làm những gì mỗi thành viên
riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các
thành viên phát triển. Thành viên tham gia HTX vẫn là những “đơn vị
kinh tế tự chủ”.
234: trong mô hình HTX kiểu cũ, sở hữu cá nhân
không được thừa nhận, sở hữu của các hộ gia đình bị xoá bỏ, chỉ thừa
nhận chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất; người lao động vào HTX
phải góp ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu. Trong HTX kiểu
10
mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của thành viên được phân định rõ.
Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn vốn tích luỹ tái đầu
tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX, tài

sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia và
các quỹ không chia. Thành viên khi tham gia HTX không phải góp tư liệu
sản xuất mà điều kiện tiên quyết là phải góp vốn theo quy định của Điều
lệ HTX, có thể góp sức khi HTX có nhu cầu; suất vốn góp không hạn
chế, song được khống chế một tỷ lệ nhất định so với tổng số vốn góp của
thành viên nhằm bảo đảm tính chất của HTX (theo Luật HTX năm 2003
thì không quá 30% - Luật năm 2012 quy định không quá 20%). Vốn góp
của thành viên được chia lãi hàng năm và được rút khi thành viên ra khỏi
HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng hiện vật, được qui định theo giá
thị trường tại thời điểm góp và giá trị hiện vật được ghi thành vốn góp
của thành viên, còn bản thân hiện vật thuộc sở hữu tập thể HTX. Sở hữu
thuộc cá nhân thành viên được tôn trọng; thành viên có toàn quyền sử
dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản xuất, kinh
doanh. Những thành viên của HTX vẫn là những chủ thể độc lập, có kinh
tế riêng. Vị trí và vai trò, cũng như quyền tự chủ của kinh tế thành viên
không bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTX để phát
triển.
2,567$8: trong các HTX kiểu cũ, quan hệ giữa
xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản
xuất trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của
HTX, tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn. Trong các HTX
kiểu mới, quan hệ giữa HTX và thành viên là quan hệ bình đẳng, thỏa
thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản xuất, kinh
doanh. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt động sản xuất, kinh
doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh
của thành viên như HTX kiểu cũ, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc,
11
từng công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và
do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành
viên tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như

phương án sản xuất, kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong
HTX… Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi
thành viên một phiếu bầu, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy
quản lý HTX tổ chức gọn, nhẹ, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ của Ban
quản trị, Ban kiểm soát được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm HTX
được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về
những quyết định cuả mình.
2#9#: trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối
mang nặng tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích người lao động
hăng hái, tích cực làm việc, xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công
sức làm kinh tế gia đình. Trong các HTX kiểu mới, hình thức phân phối
được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao
động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. Người lao động
là xã viên, ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao
động, còn được nhận lãi chia theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ;
lợi nhuận và vốn góp càng lớn, mức độ tham gia dịch vụ càng nhiều, thì
thu nhập càng cao. Đây là động lực khuyến khích người lao động hăng
say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, các HTX còn
tạo ra được các quỹ không chia, một mặt để mở rộng sản xuất, mặt khác
tạo nên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX, kết hợp chặt
chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài.
:;+*,567<=: các HTX kiểu mới đã được giải
phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp. Nếu như trước đây, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng
như hạch toán lỗ lãi, phân phối, giá cả… của HTX đều theo sự chỉ huy
12
cuả cơ quan quản lý cấp trên và theo kế hoạch của Nhà nước thì nay HTX
đã thực sự là một đơn vị kinh doanh độc lập trong cơ chế thị trường, bình
đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

khác, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành
phần kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa
vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn
trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ của HTX, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động
của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với HTX được
chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát
triển HTX. Vai trò xã hội của HTX đã được giảm dần. Các nghĩa vụ đóng
góp vật chất quá nặng trước kia của HTX đối với chính quyền và cộng
đồng, nhất là ở các HTX nông thôn đã từng bước được xoá bỏ, HTX tập
trung vào phục vụ và thực hiện các nghĩa vụ đối với các thành viên của
chính mình là chủ yếu.
20#8<+/ không còn bị giới hạn như
trước. Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau, không giới hạn địa giới hành chính. Các HTX có thể liên kết thành
Liên hiệp HTX. Mỗi thành viên có thể tham gia nhiều HTX (HTX không
cùng ngành nghề) nếu Điều lệ HTX không hạn chế. Không giới hạn số
lượng thành viên tham gia HTX.
,58<: HTX là một tổ chức kinh tế tập thể gồm
nhiều chủ sở hữu, hoạt động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm cả lợi
ích thành viên và lợi ích tập thể, nhưng HTX còn có vai trò quan trọng
trong việc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng… Do đó, mọi hoạt động của
kinh tế tập thể phải được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp, cả về kinh tế –
chính trị – xã hội; cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.
13
>: khác với các HTX kiểu cũ được áp dụng nhất loạt
trên cả nước theo mô hình sản xuất tập trung và chủ yếu được phát triển
trong lĩnh vực sản xuất, hầu như không có loại hình HTX làm dịch vụ cho

thành viên, mô hình HTX kiểu mới linh hoạt, đa dạng về hình thức, phù
hợp với đặc điểm của từng vùng, từng ngành; với nhiều trình độ phát
triển, từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các thành viên, đến mở mang ngành nghề,
vươn lên kinh doanh tổng hợp và hình thành các doanh nghiệp của mình
(Luật doanh nghiệp cho phép HTX được thành lập công ty TNHH một
thành viên); từ HTX phát triển thành các Liên hiệp HTX.
Với những đặc trưng trên, HTX kiểu mới hoàn toàn khác với mô
hình HTX kiểu cũ được xây dựng trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp trước đây, có các đặc trưng là tập thể hoá toàn bộ tư liệu
sản xuất, không thừa nhận vai trò của kinh tế hộ, phủ nhận vai trò kinh tế
hàng hoá, tổ chức và hoạt động theo địa giới hành chính, tổ chức sản xuất
tập thể, tập trung, phân phối theo ngày công lao động, thực hiện quá
nhiều trách nhiệm xã hội; mô hình HTX được áp dụng nhất loạt trong cả
nước, ít chú ý đến đặc điểm của từng nơi…
2.1.6 Nội dung nghiên cứu phát triển HTXNN
?>>+)%<@006A#=++!!
Thực hiện đường lối đổi mới HTXNN của Đảng và thi hành Luật
Hợp tác xã 2012, tất cả các địa phương đều đã tập trung chỉ đạo chuyển
đổi HTXNN kiểu cũ sang HTXNN kiểu mới cho phù hợp với quy luật
kinh tế thị trường và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp dựa trên quyền
tự chủ sản xuất kinh doanh của hộ nông dân. Xuất phát từ đặc điểm kinh
tế - xã hội của từng địa phương, sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới
HTXNN của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các địa phương đã tiến
hành chuyển đổi HTXNN kiểu cũ sang HTXNN kiểu mới hoặc thành lập
mới HTXNN.
14
Chuyển đổi HTXNN kiểu cũ thành HTXNN kiểu mới về cơ bản đã
giữ nguyên HTXNN cũ, nhưng đổi mới phương thức tổ chức, quản lý hợp
tác xã theo Luật Hợp tác xã bao gồm các nội dung: kiểm kê, xử lý tài sản,

công nợ của HTX cũ, đăng ký lại danh sách xã viên, xây dựng Điều lệ
Hợp tác xã, tổ chức lại hệ thống dịch vụ và bộ máy quản lý của HTXNN.
Cách làm này khá phổ biến ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Cách
chuyển đổi này có nhiều hạn chế, vẫn mang nặng tính hình thức; tổ chức,
cơ chế quản lý, cơ chế lợi ích chưa có sự đổi mới căn bản, chưa tạo được
động lực phát triển mới và gắn bó lợi ích của các hộ xã viên. Cụ thể số hộ
nông dân tham gia HTX đông vì chủ yếu vẫn theo cách "đánh trống ghi
tên", nên họ không góp vốn hoặc góp chiếu lệ, nơi thấp chỉ 30 - 50 ngàn
đồng, bản thân xã viên không có động lực kinh tế, HTXNN thì không có
nhiều vốn để hoạt động kinh doanh.
Thành lập HTXNN kiểu mới bao gồm thành lập HTXNN mới hoàn
toàn và thành lập HTXNN mới trên cơ sở giải thể HTXNN kiểu cũ. Đây
là cách làm chủ yếu ở các tỉnh phía Nam bao gồm vùng Đông Nam Bộ và
đồng bằng sông Cửu Long. Cách làm này có ưu điểm chính là xuất phát
từ nhu cầu phát triển kinh tế hộ, bảo đảm tính tự chủ cao, nên nông dân tự
nguyện góp vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của
HTX. Phương thức hoạt động cũng gắn được quyền lợi và trách nhiệm
của từng hộ xã viên đối với HTXNN. Những người sáng lập thường có
trình độ chuyên môn kỹ thuật và trình độ kinh doanh và trở thành cán bộ
quản lý HTX năng động, sáng tạo, thích ứng được với cơ chế thị trường,
phát triển vững chắc và có hiệu quả.
Ở các tỉnh phía Bắc, cũng xuất hiện một số HTXNN thành lập mới
theo đúng nguyên tắc của Luật Hợp tác xã thì kinh doanh phát triển và có
hiệu quả. Hạn chế cơ bản của cách làm này, trước hết, có lẽ ở số lượng
HTX và số hộ nông dân tham gia, số hộ nghèo tham gia HTXNN còn quá
ít. Chẳng hạn, tại xã Xuân Tây, Xuân Lộc, Đồng Nai có trên 3.000 hộ
15
nông dân, nhưng chỉ có 1 HTXNN với 21 xã viên. Điều này không phù
hợp với bản chất và mục đích của HTXNN là nơi để người nghèo, người
ít có những lợi thế có điều kiện để giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau cùng góp sức,

góp của thúc đẩy sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh
doanh, thoát khỏi đói nghèo và từng bước vươn lên khá và giàu.
? BC)<@D6C++/++
Vốn, cơ sở vật chất là điều kiện cần thiết để các HTXNN phát triển
các hoạt động sản xuất kinh doanh. Có vốn thì các HTX mới có thể phát
triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ cho xã viên; thực hiện
được các dự án đầu tư mới cũng như đầu tư chiều sâu để hiện đại hóa các
hoạt động kinh doanh của mình.
HTXNN là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện
thành lập nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động nông nghiệp của họ
thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và phân
công chuyên môn hóa lao động, dựa trên nền tảng kinh tế của hộ nông
dân, mà đa số họ là những người yếu thế về trình độ học vấn, trình độ kỹ
thuật - công nghệ và khả năng hạn hẹp về vốn, theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, cùng có lợi và cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. HTXNN
được thành lập nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích cho các xã viên chứ
không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Có thể nói xã viên vừa là chủ sở hữu vừa
là khách hàng của HTXNN.
Trong HTXNN, các cán bộ quản lý đòi hỏi phải có trình độ chuyên
môn nhất định vì đội ngũ cán bộ này điều hành các hoạt động của HTX.
Đây là nhân tố hết sức quan trọng, bởi vì ngay cả khi trình độ phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã chín muồi và các hộ nông dân nhận
thức được và tự nguyện đứng ra thành lập HTX, nhưng thiếu đội ngũ cán
bộ - đặc biệt là chủ nhiệm HTX giỏi và năng động trong quản lý và điều
hành, thì ngay cả khi HTX ra đời cũng khó có thể tồn tại và phát triển
được. Khi trình độ kinh tế phát triển thấp, đời sống thấp, thì mức tiền
16
lương, tiền công trung bình, đặc biệt trong nông nghiệp nông thôn sẽ
thấp, không đủ sức hấp dẫn người có trình độ ở lại tham gia quản lý
HTX, trong khi yêu cầu về trình độ quản lý lại vừa đòi hỏi trình độ

chuyên môn và kinh nghiệm trong các hoạt động dịch vụ nông nghiệp,
vừa đòi hỏi trình độ kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường.
?"*,58<+/++
HTX nào xây dựng được phương hướng, kế hoạch sản xuất kinh
doanh, dịch vụ dài hạn cho mình, thì có thể chủ động trong các hoạt động
kinh tế của HTX , tăng nhanh thu nhập cho xã viên cũng như tích lũy cho
HTX. Kết quả hoạt động của các HTX thể hiện ở tình hình các hoạt động
dịch vụ, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tài chính của HTXNN.
Mục tiêu của việc các xã viên hợp tác với nhau để thành lập HTX
là nhằm cung cấp sản phẩm, dịch vụ đầu vào hoặc tiêu thụ sản phẩm, dịch
vụ đầu ra cho xã viên, chứ không phải là nhằm chủ yếu cung cấp sản
phẩm, dịch vụ cho thị trường đại chúng nên việc xã viên càng sử dụng
nhiều sản phẩm, dịch vụ của HTX hoặc xã viên bán càng nhiều sản phẩm,
dịch vụ của mình cho HTX để từ đó HTX thay mặt xã viên bán sản phẩm
với số lượng lớn với giá cạnh tranh hơn so với từng xã viên bán sẽ bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển của HTX và sẽ mang lại nhiều lợi nhuận
cho HTX hơn. Do vậy, ở các nước trên thế giới, việc phân chia lợi nhuận
cho xã viên HTXNN chủ yếu theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX.
Thực tế ở Việt Nam, việc phân chia lợi nhuận cho xã viên được ưu tiên
chia theo vốn góp của xã viên. Do vậy, nếu muốn khuyến khích xã viên
sử dụng dịch vụ của HTX và bảo đảm HTX phát triển bền vững, HTX
cần trích chủ yếu lợi nhuận chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ
của HTX, phần còn lại mới chia theo vốn góp của xã viên.
Để xây dựng được mô hình HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp,
Ban quản trị các HTX cần phải hoạch định được kế hoạch xây dựng và
phát triển HTX ngắn và dài hạn, đi từ thấp đến phát triển cao; từ dịch vụ
17

×