Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

ĐỀ TÀI: " QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.77 KB, 32 trang )






Luận Văn

ĐỀ TÀI:
QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở
NƯỚC TA







MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY 2
1.1. Tính tất yếu khách quan của quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 2
1.2. Vai trò của quan hệ phân phối 4
1.3. Các hình thức phân phối ở nướ ta hiện nay 6
1.3.1. Phân phối theo lao động 6
1. 3.2. Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác 9
1.3.3. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội 10
1.4. Kinh nghiệm một số nước về quan hệ phân phối 11
1.4.1. Singapore 11
1.4.2. Malayxia 11
1.4.3. Inđônêxia 12


1.4.4. Philippin 12
1.4.5. Thái Lan 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN TỚI 15
2.1. Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 15
2.1.1. Thực trạng về chính sách tiền lương 15
2.1.2. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận 20
2.2. Những nhận xét khi rút ra khi nghiên cứu thực trạng của quan hệ phân phối ở
nước ta hiện nay 21
2.2.1. Ưu điểm 21
2.2.2. Nhược điểm 21
2.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời
gian tới 22
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26


LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội ngày nay thì phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá
trình taí sản xuất , phân phối là khâu quan trọng nối liền sản xuất và tiêu dùng.
Phân phối phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay không tốt lại ảnh
hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân.
Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang
nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối
nối liền sản xuất với sản xuất,sản xuất với tiêu dùng ,nối liền thị trường hàng tiêu
dùng ,dịch vụ thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị
trương diễn ra thông suốt.
Tuy nhiên,khi chuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh
vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao

động ,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường
cũng như các tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước
tađang đòi hỏi có sư nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu
vấn đề quan hệ phân phối ở việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách .
Kết cấu đề tài này gồm hai chương
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay
Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay và những giải
pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay
Em xin chân thành cảm ơn thâỳ Trần Việt Tiến đã tận tình hướng dẫn,tạo điều
kiện ,giúp đỡ cho em hoàn thành đề tài này .









CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUANCỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐỈ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
Trong nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ vi trí hết sức quan trọng .Trong
quá trình tái sản xuất thi phân phối làm khâu trung gian nối liền giũa sản xuất với
sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu
dùng. Nhưng sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối với phân phối ,sản xất tao
ra đối tượng và vật liệu cho phân phối ,quyết định quy mô và cơ cấu của cải để
phân phối .

Phân phối không thể vượt qúa khả năng cho phép của sản xuất,thu nhập thực
tế chỉ có thể tăng lên theo đà phát triển của sản xuất nhưng tốc độ tăng của thu
nhập thực tế phải chậm hơn tốc độ tăng lên của sản xuất ,có như thế mới đảm bảo
tái sản xuất mở rộng . Hiện nay nứoc ta đang thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất
nước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội . Chế độ xã hội chủ
nghĩa là chế độ làm chủc tập thể của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực
trong đó làm chủ tập thể về kinh tế là cơ sở .Trong chế độ làm chủ tập thể về kinh
tế thì làm chủ về tư liệu sản xuất là cơ sở ,điều kiên để đảm bảo làm chủtập thể về
phân phối. Một khi tư liệu sản xuất la thuộc sở hữu chung của nhân dân lao động
thì của cải làm ra cũng thuộc sở hữu chung của họ và việc phân phối của cải làm
ra chỉ có thể nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động .Trong điều
kiện của nước ta hiện nay nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu , nghèo nàn
chưa đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu .Vì thế việc thực hiện phân phối
theo thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mộ vấn đề vô cùng
quan trọng đẻ tạo ra đọng lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát
triển ,ổn định tình hình kinh tế -xã hội nâng cao đời sống nhân dân thực hiện mục
tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng ,dân chủ ,văn minh .



1.1.1.Bản chất và vị trí của phân phối.
Quá trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu:sản xuất, phân phối ,trao đổi,
tiêu dùng.Cáckhâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó sản xuất là khâu cơ
bản đóng vai trò quyết định;các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất,nhưng chúng
có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau chính vi có quá
trinh phân phối này mới có sự tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùngvà từ đó
thúc đẩy sản xuất phát triển ,tăng quy mô tiêu dùng .
Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
quyết định. Khi ta xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ
sản xuất quyết định. Quan hệ trong sản xuất như thế nào thì quan hệ trong phân

phối như thế ấy. Xã hội luôn tồn tại mối quan hệ sản xuất và sản phẩm. Bản thân
phân phối là sản phẩm của sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức.
Phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập đứng bên cạnh sản xuất. Bản chất
của quan hệ phân phối hoàn toàn do quan hệ sản xuất quyết định.
Mặt khác ta thấy rằng phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực
của sản xuất và trao đổi mà nó còn tác động mạnh mẽ ngược trở lại trao đổi và
sản xuất. Phân phối có tính độc lập tương đối của nó,nó có chức năng cụ thể ,có
những quy luật đặc thù tác động tích cực đến cáckhâu của quá trình tái sản xuất.
Trước khi phân phối sản phẩm thì nó là: phân phối những công cụ sản xuất và
điều này là một tính qui định nữa cũng của một mối quan hệ ấy - phân phối các
thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau. Rõ ràng phân phối sản
phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản
thân quá trình sản xuất và quyết định trong cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất một
cách độc lập với sự phân phối đó, sự phân phối bao hàm trong sản xuất, thì rõ
ràng là một sự trừu tượng trống rỗng, còn sự phân phối sản phẩm thì trái lại, đã
bao hàm trong sự phân phối này là sự phân phối ngay từ đầu đã là một yếu tố của
sản xuất.
Cơ sở kinh tế của sự phân phối bao gồm cả sự phân phối cho sản xuất và phân
phối cho tiêu dùng do đó tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng


cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong
xã hội . Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả sự phân phối cho sản xuất
xem là yếu tố của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá
trình sản xuất,cho nên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân
phối cho tiêu dùng cá nhân mà cần trích ra để bù đắp những tư liệu sản xuất hao
phí, mở rộng sản xuất lập quỹ dự phòng, chi phí về quản lý hành chính tổ chức
Phần còn lại phù hợp với số lượng và chất lượng lao động. Như vậy,phân phối là
tổng sản phẩm xã hội và phân phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối
để tiêu dùng cho cá nhân.

I.2 VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐI
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ăngghen cho
rằng:
‘’
Sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối,
thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi
trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể
phát triển, duy trì và thực hiện những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất.
,,
(1)

Ta thấy rằng mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm cả một hệ
thống phức tạp các lợi ích mà trong đó lợi ích kinh tế đóng vai trò quyết định.
Các lợi ích kinh tế được quy định bởi quan hệ sản xuất cua mỗi chế độ xã hội,
trong đó quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất có vai trò chi phối hệ thống lợi ích
kinh tế.
Bản chất của quan hệ sản xuất trong mối phương thức sản xuất được thể
hiện qua hình thức sở hữu - đó không phải là quan hệ đơn thuần như mọi sự việc
tồn tại trong xã hội mà nó là mối quan hệ phức tạp giữa con người với con người.
Trong lịch sử không hề có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những
quan hệ trong sản xuất.
‘’
Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó
không tồn tại một nên sản xuất nào cả, do đó cũng không một xã hội nào cả.
,, (2)

Sở hữu - đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất.
Sở hữu với tư cách là những quan hệ sản xuất, nó là cơ sở của các lợi ích.
Hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi chế độ xã hội sẽ quy định hệ thống các



lợi ích vốn có trong giai đoạn phát triển của nó. Trong hệ thống các lợi ích thì
lợi ích kinh tế giữ vai trò chủ đạo. Lợi ích kinh tế được hiểu là những quan hệ
kinh tế phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt động của
các gia cấp, những nhóm xã hội hoặc của từng người làm viêc riêng biệt do quan
hệ sản xuất quyết định. Nói lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan
hệ kinh tế của mỗi xã hội nhất định nghĩa là lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế
khách quan, nó chỉ xuất hiện khi giưa những người sản xuất có những mối quan
hệ kinh tế khác nhau. Lợi ích kinh tế vừa mang tính chất khách quan vừa mang
tính chủ quan. Nó mang màu sắc khách quan bởi vì nó luôn tồn tại và vận động.
Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra mà quan
hệ sản xuất ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Còn nó mang màu sắc chủ quan là
ở chỗ nó biến các tác động khách quan của các quy luật kinh tế thành các động
cơ hành đọng kinh tế cử con người.
Lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng là động lực mạnh mẽ đối với sự phát
triển của xã hội. Những hình thức chủ yếu của lợi ích kinh tế trong hệ thống này
luôn được đặc trưng bằng tính đại diện và tính thống nhất giữa ba nhóm lợi ích
cơ bản.
Đó là lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể lợi ích và lợi ích của bản thân người
lao động. Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã
hội sẽ dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập nhau giữa chúng. Trong đó lợi
ích cá nhân trực tiếp là động lực mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của xã hội.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đã nói lên
sự không đồng nhất về lợi ích kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là một xu thế tất yếu
bởi điểm xuất phát đi lên là thấp trong khi đó yêu cầu hội nhập quốc tế là cách
duy nhất để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tương ứng với
quá trình đó, trong nền kinh tế sẽ có nhiều quy luật vận động. Các quy luật kinh
tế phát sinh trên cơ sở những quan hệ kinh tếa tương ứng và cũng trực tiếp quy
định sự hình thành các lợi ích kinh tế của từng giai cấp từng tầng lớp dân cư

trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh sự thống nhất giữa các lợi ích kinh tế cơ bản,
không loại trừ những mâu thuẫn giữa chúng cũng như trong phạm vi mỗi nhóm
lợi ích. Vì vậy cần phải phát hiện kịp thời các mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm
cách giải quyết các mâu thuẫn đó.


Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện thông qua
quan hệ phân phối. Khi phương thức sản xuất còn phù hợp (lợi ích của giai cấp
thống trị còn phù hợp với lợi ích của xã hội) thì người ta còn bằng lòng với sự
phân phối của xã hội. Nhưng khi nó thoái trào thì không còn điều kiện để tồn tại
phân phối bởi phân phối khi đó đã không còn là công cụ đẩm bảo cho sự công
bằng xã hội, bất công ngày càng sâu sắc đẫn đến đấu tranh xã hội và cuối cùng là
một phương thức sản xuất mới ra đời. Như vây quan hệ phân phối mang tính lịch
sử và thước đo mức độ tiến bộ của một hình thái xã hội. Nó chỉ có thể thay đổi
khi quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối đó mất đi - đó là thông qua cách
mạng xã hội.Bởi trong mỗi hình thái kinh tế thì quan hệ phân phối giải quyết
những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và đến khi nào nó không thể giải quyết được
nữa thì tất yếu sẽ bị thay thế bằng hình thức phân phối khác cho phù hợp.
1.3. CÁC HÌNH THỨC PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định và Đại hội
Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá
độ là nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước ,tương ứng với
nó là nhiều hình thức phân phối nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu , đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp nguồn
lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã
hội.
Trong nền kinh tế này xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế khác nhau với các
hình thức sở hữu khác nhau và cũng vì lẽ đó mà xuất hiện nhiều phương thức
phân phối khác nhau.Mỗi thành phần kinh tế có phương thức sản xuất –kinh
doanh khác nhau nên kết quả kinh doanh khác nhaudo đó cần các hình thức phân

phối khác nhau
Vì vậy ở nước ta hiện nay không thể tồn tại một hình thức phân phối duy
nhất
1.3.1. Phân phối theo lao động
Trong thời kỳ quá độ hiện nay ,hình thức phân phối theo lao động là hình
thức phân phối căn bản , là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất với


các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà
nước)hoặc các hợp tác xã cổ phần mà góp vốn của các thànhviên bằng nhau (kinh
tế hơp tác )
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc
phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Do đó dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ.Người lao động làm chủ
những tư liệu sản xuất nên tất yếu cũng làm chủ phân phối theo thu nhập . Lao
động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người.
Chính vì vậy mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các
thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta.
Trước đây nước ta đã thực hiện sự phân phối bình quân là phân phối cho
mỗi người một lượng sản phẩm như nhau, không phân biệt mức đóng góp của
từng người vào sản xuất xã hội. Phân phối bình quân đã gây ra sự bất hợp lý
và tiêu cực trong xã hội.Trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay thì phân phối
theo lao động là hình thức thức căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích
hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu
sản xuất. Trong thành phần kinh tế này tất cả mọi người dều có quyền bình
đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những
người lao động với nhau thông qua việc láy lao động làm thước đo. Đối với các
thành phần kinh tế thì việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu. Bởi
nhiều nguyên nhân:

Nhờ dựa trên chế độ công hữu mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ.
Quyền làm chủ về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở
quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người.Chính vì vậy mà
phân phối theo lao động và phù hợp với các thành phần kinh tế đang tồn tại ở
nước ta hiện nay.
Lý do thứ hai khiến phân phối theo lao động là cần thiết là: trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất còn thấp, chưa có đủ sản phẩm để phân phối theo
nhu cầu. Tiếp đó là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động Dẫn đến


mỗi người có cống hiến khác nhau đến kết quả lao động do đó phải căn cứ vào
lao động đã cống hiến cho xã hội để phân phối.
Thêm một nguyên nhân nữa cho thấy sự cần thiết phải phân phối theo lao
động là lao động chưa trở thành nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để
kiếm sống, còn là
‘’
nghĩa vụ
,,
và quyền lợi của mỗi công dân. Hơn nữa còn những
tàn dư về tư tưởng của xã hội cũ như thái độ
‘’
muốn trút bỏ gánh nặng cho người
khác, làm ít hưởng nhiều
,,
. Do đó cần phải có hình thức phân phối để các thành
viên trong xã hội dựa vào đó là cơ sở, động lực trong các hoạt động của mình.
Như vậy việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu và phù hợp với
hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động là phải lấy kết quả lao

động làm thước đo để phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân. Lấy số lượng lao
động và chất lượng lao động của mỗi người làm căn cứ trả công. Tuy nhiên
nguyên tắc này phải gắn liền với yêu cầu đảm bảo công ăn việc làm cho những
người có năng lực lao động, và tất yếu không thể nằm ngoài yêu cầu đảm bảo
những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
Trong quá trình phân phối theo lao động cần chống hai sai lầm cơ bản
khi thực hiện, đó là chủ nghĩa bình quân tiểu tư sản trong việc trả công lao động,
vì nó gạt bỏ hoàn toàn nuyên tắc lợi ích vật chất, kìm hãm động lực lao động của
người lao động. Thứ hai là khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách
giữa các bậc lương, thang lương một cách không có căn cứ kinh tế và những đòi
hỏi có sự ưu đãi đặc biệt đối với một số người.
Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với
xã hội và bản thân người lao động. Bởi lẽ nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp
bách của sự công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích
của sản xuất xã hội với lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích người
lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn làm cho đội ngũ lao động lành nghề
ngày càng đông đảo. Điều đó còn thúc đẩy người lao động ra sức học tập văn hoá
kỹ thuật, góp phần làm cho sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động bằng
chân tay bị xoá bỏ dần. Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao
động được ổn định trong cả nước đảm cho sản xuất xã hội cân bằng và có kế


hoạch. Thêm vào đó nó góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và kỷ luật lao
động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi
ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình , từ đó ra sức
mà đẩy mạnh sản xuất.
Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu
‘’
làm theo năng lực hưởng theo nhu
cầu

,,
thì còn nhiều việc phải làm. Bởi theo Mac phân phối theo lao động vẫn là
một thứ pháp quyền tư sản, quyền bình đẳng vẫn nằm trong khuôn khổ tư sản, tức
là trong xã hội sản xuất hàng hoá được thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang
giá và quyền của người lao động tỷ lệ với lao động người ấy cung cấp thì điều đó
vẫn còn thiếu xót. Bởi vởi với một công việc ngang nhau một phần tham dự như
vào quỹ tiêu dùng xã hội nhưng trên thực tế người này vẫn được hưởng nhiều hơn
người kia.
Chế độ phân phối theo lao động vẫn còn những thiếu xót nhưng đó là
những thiếu xót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa công sản.
Nếu như trong xã hội tư bản phân phối dựa trên cơ sở
‘’
người có của, kẻ có công
,,

thì trong xã hội XHCN được dựa trên nguyên tắc
‘’
người làm nhiều hưởng nhiều,
người làm ít hưởng ít, không làm kong hưởng
,,
đó là bình đẳng. Mặc dù còn tồn
tại thiếu xót nhưng với tác dụng của mình thì phân phối theo lao động vẫn là hình
thức phân phối phù hợp nhất trong điều kiện vừa thực hiện công nghiệp hoá - hiện
đại hoá vừa đảm bảo công bằng cho các thành viên trong nền kinh tế hoạt động có
hiệu quả.
1.3.2. Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác
Bên cạnh việc thực hiện phân phối theo lao động thì nước ta còn sử dụng
hình thức phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế
nước ta trong bước quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội . Với cơ cấu nhiều
thành phần ,nên tất yếu co nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ

xuất hiện nhiều hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau
Một đặc điểm rõ nét của nước ta trong quá độ định hướng lên CNXH từ
một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn phân tán vốn. Quá trình sản xuất, tích
tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn vốn sản xuất hiện nay
còn nằm rải rác ,phân tán trong tay người tư hữu nhỏ ,tư sản nhỏ ,trong đó có cả


dưới dang jtư liệu sản xuất , vàng bạc ngoại hối và tiền mặt vv…. Để sử dụng
nguồn vốn đó cho sản xuất thì không thể sử dụng cá chính sách ắp đặt như trưng
thu, trưng mua hoặc đóng góp cổ phần một cách bình quân. Từ sau nghị quyết
hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) thì ở nước ta đã xuất
hiện các biện pháp huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn
và góp cổ phần không hạn chế, với mức lãi suất hợp lý. Cách làm như vậy có tác
dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự
có. Như vậy mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính
xã hội. Xét tình hình đất nước ta thì cần phải tạo điều kiện pháp lý cho các thành
phần kinh tế tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên trong xã hội yên tâm và mạnh
dạn đầu tư vốn và sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó thực hiện phân phối kết quả
sản xuất kinh doanh theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá
trình sản xuất xã hội dươí hình thức “lợi tức”và “lợi nhuận” và được coi là hình
thức phân phối hợp pháp và được sự bảo hộ của pháp luật. Do sự liên doanh liên
kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nên đã xuất
hiện các công ty liên doanh, các xí nghiệp cổ phần. Ở các loại xí nghiệp này, việc
phân phối dựa trên cơ sở vốn cổ phần, dưới hình thức lợi tức cổ phần. Phân phối
thu nhập dưới hình thức lợi tức tiền gửi của các cá nhân hoặc tập thể vào ngân
hàng.
1.3.3. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể , phúc lợi xã hội
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu
khách quan trong quá độ hiện nay ở nước ta , vì các hình thức phân phối đó đều

nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội
giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện
nay , nhưng ngoài những người khoẻ mạnh có khả năng lao động và đang lao
động, được trả công theo lao động, những có vốn và tài sản đóng góp vào qúa
trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những
người vì lẽ này hay lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của


xã hội. Đời sống số đông người này được gia đình đảm bảo. Mặt khác, ngay cả
mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc
trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không chỉ dựa vào tiền công cá nhân. Bởi
mức tiền công theo qui định của Nhà nước chưa đảm bảo được mức sống. Họ
phải dựa một phần vào các quĩ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của các doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Vì vậy mà ngoài việc phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì
trong xã hội còn tồn tại hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua quĩ
phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không phải là
phân phối là phân phối theo lao động mà đây mới chỉ là phân phối của thời kỳ quá
độ mà thôi. Đây là hình thức phân phối bổ sung cần thiết và quan trọng đối với
nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp với việc thoả mãn những nhu
cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thù lao lao
động tính theo đầu người tương đối thấp. Nó không những bảo đảm cho tất cả
mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác
dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi
thành viên trong xã hội. Đây là hình thức phân phối của thời kỳ quá độ, nó góp
phần thúc đẩy sự phát triển của một đất nước.
Cả ba hình thức phân phối trên đều là những hình thức phân phối cơ bản ở
nước ta hiện nay trong đó phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.Phân phối
ngoài thù lao lao động qua các quĩ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng
trong quá trình phát triển xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn và những

đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp qui luật.
1.4. KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ QUAN HỆ PHÂN PHỐI
1.4.1. Singapore
Là một đất nước giầu có và có thu nhập cao sự tăng trưởng kinh tế cao và
liên tục trong nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải
hơn tỷ lệ nghèo tuyệt dối giảm từ19 % xuống còn chỉ 13 %. Trong những năm
gần đây, chính phủ Singapore đã có những cố gắng đáng khể để tăng kỹ năng và


chất lượng của toàn bộ lực lượng lao động. Chi phí cho giáo dục tăng nhanh từ
đầu năm 80 trở đi, chủ yếu là tập chung vào các lĩnh vực đào tạo chuyên ngành.
Ở Singapơre có sự can thiệp của nhà nước về thị trường lao động và giáo
dục có tác dụng tạo nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và cá nhân. Các
biện pháp trên tuy không trực tiếp loại bỏ mức thu nhập thấp và những bất bình
đẳng về của cải. Nhưng nó đã giúp cho mọi cá nhân có cơ hội công suất phản
kháng được việc làm tốt với mức thu nhập xứng đáng.
1.4.2. Malayxia
Ở Malayxia trong những thập niên 60 – 70 sự phát triển kinh tế kèm theo
sự gia tăng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập những nhà tư sản người hoa
và các quan chức hành chính, chính trị người Malay là những người được hưởng
thụ phần lớn kết quả của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của những năm 60 . Hậu
quả là các quan hệ xã hội trở nên hét sức căng thẳngcác vụ bạo động lật đổ đã nổ
ra vào cuối những năm đó. Khi những người được gọi là TURKS trẻ nên nắm
chính quyền đã đưa ra chính sách kinh tế mới, tạo điều kiện về mặt kinh tế xã hội
nhằm đạt được sự đoàn kết dân tộc trên cơ sở chính sách tái phân phối thu nhập
công bằng hơnnhờ đó mà tỷ lệ người nghèo ở Malayxia đã giảm từ 49,3 % xuống
còn 17,3 %. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ nghèo ở Malayxia chủ yếu là kết quả của
mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm chứ không phải do thu nhập
nhiều hơn. Ở Malayxia chi phí từ ngân sách cho các hoạt động xã hội tăng liên
tục từ 18 % trong suốt thời kỳ 1970 đến 37 % trong thời kỳ 1988. Trong các dịch

vụ xã hội thì giáo dục được dành vị trí ưu tiên hàng đầu, tiếp theo là nhà ở, y tế và
các dịch vụ chung. Nhờ nỗ nực của chính phủ và sự phát triển kinh tế chủa xã hội
nói chung tỷ lệ học sinh sơ cấp tăng từ 88 % lên 96,4 %. Các chỉ số về y tế như tỷ
lệ sinh tỷ lệ chết tuổi thọ trung bình đều có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên ,
việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của những người nghèo vẫn còn là vấn đề
cần quan tâm.
1.4.3. Inđônêxia
Ở Inđônêxia các vấn đề được quan tâmchủ yếu là giáo dục và tạo việc
làm.Từ những năm 60 chính phủ ở đây đã tiến hành các chính sách nhằm tăng


cường việc làm ở khu vực nông thôn với một phần kinh phí do nhà nước cấp,phần
còn lại do các chương trình viện trợ.Nhờ chương trình này mà giai đoạn từ1976
đến 1987 số dân sống dưới mức nghèo khổ đã giảm từ 54.000.000 xuống còn
30.000.000.tỉ lệ nghèo khổ ở nông thôn giảm nhanh hơn so với ở thành thị.Tại
quốc gia này các tổ chức phi chính phủ có đóng góp to lớn trong việc tiếp
cận,giúp đỡ tầng lớp nghèo khổ dưới các hình thức như:tư vấn,giúp đỡ sản xuất,
huấn luyện nghiên cứu …Hoạt động của các tổ chức này đã ghóp phần giảm bớt
gành nặng cho chình phủ Indonexia do có một số nơi mà hệ thồng quản lí của
chính phủ cũng không thể với tới được.Với tư cách là người trung gian họ chuyển
những nguyện của người nghèo đến với chính phủ sở tại.
1.4.4. Philippin
Khi nghiên cứu tình trạng nghèo khổ ở Philippin các nhà kinh tế đã chỉ ra
một số nguyên nhân sau:
+.Nguồn cung cấp lao động tăng nhanh dẫn tới thất nghiệp và lương thấp.
+.Mô hình đầu tư công nghiệp với cường độ vốn tăng nhanh đã làm giảm khả
năng thu hút lao động
+.Sự thiếu hụt về việc làm đã dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực nông thôn
không chuyển được sang các nghành thứ yếu khác.
+.Sự phân phối đất đai khá chênh lệch.

+.Những sai lầm trong chiến lược công nghiệp hoá như:bảo hộ quá mức,tập
trung quá nhiều nguồn lực vào trong thành phố
Trên đây là một số vấn đề mà Philippin gặp trong việc phân phối .Thậm
chí trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá Philippin cũng tập trung quá
nhiều vào thành thị,chính sách phân phối có lợi cho người có thu nhập cao.Hệ
thống thuế chủ yếu dựa vào thuế gián thu.Các gia đình có thu nhập cao chỉ phải
đóng 12%,trong đó các gia đình có thu nhập thấp lại phải đóng tới 20%.Chương
trình giảm nghèo khổ có mục đích chính là thực hiện một sự phân phối công bằng
hơn trên cơ sở phân phối một cách hợp lí hơn.
1.4.5. Thái lan


Thái lan vẫn được coi là ít có sự can thiệp của chính phủ vào đời sống
kinh tế hơn cả . Thái lan đã thành công trong việc phát triển kinh tế .Tốc độ tăng
trưởng nhanh , tỷ lệ sinh đẻ hạ từ 3,3 trong ba thập kỷ đầu xuống còn 2,2 hiện nay
đã làm thu nhập đầu người tăng một cách ổn định . Tuy nhiên sự nghèo khổ ở đây
vẫn thể hiện rõ nét , có sự bất công bằng lớn giữa nông thôn và thành thị , giữa
các khu vực , chênh lệch về thu nhập ngày càng gia tăng .
Tuy nhiên Thái lan cung đạt được nhièu thành tựu trong việc cung cấp các
dịch vụ cơ bản dưới nhiều hình thức phong phú như phúc lợi bằng tiền mặt , bằng
hiện vật , phúc lợi trẻ em và thanh niên ,trợ giúp việc làm phúc lợi cho người có tuổi
Tóm lại các chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ở các nước
ASEAN đã thất bại chủ yếu do phân phối thu nhập không đều.Chính vì việc phân
phói không đều đã bó hẹp thị trường nội địa không chỉ do đông đảo quần chúng
nghèo khổ mà còn do những ngưòi có thu nhập cao thường mua hàng ngoại ,
hoặc tiêu dùng những sản phẩm đơn lẻ.Qua đó đã chứng minh rằng ,giữa tăng
trưởng kinh tế và phân phối thu nhập có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động
qua lại lẫn nhau .Tăng trưởng kinh tế không chỉ dẫn đến sự giàu có chung của đất
nước , mà còn tạo điều kiện thuận lơi để giúpcácnhóm có thu nhập thực hiễn xoá
đói giảm ngheo mặt khác không thể có tăng trưởng kinh tế kéo dài nếu không áp

dụng các chinh sách phân phối thu nhập công bằng hơn
Thành công của các nước này thường đi kèm với sự gia tăng vững chắc
của tiền lương thực tế năng xuất và sự tham gia vào các hoạt kinh tế của đại đa số
dân chúng.Một bài học chung rút ra từ thực tế các nước ASEAN là thành công
trong phát triển phụ thuộc vào sự can thiệp một cách có hiệu quả của nhà nước
vào đời sống thực tế và lợi ích của đại bộ phận nhân dân.
+ Phát triển ,hoàn thiện lực lượng sản xuất ngày một tốt hơn trong thời gian tới
về mọi mặt .
+ Hoàn thiện chính sách tiền lương,bình quân chống chủ nghĩa bình quân và
thu nhập bất chính.Trong vấn đề này,vai trò của chính phủ là phải gắn vhặt tiền
công,tiền lương với người lao động nhằm tường bước thực hiện hpân phối công


bằng hợp lí.Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính,chúng ta phải từng bước
tiền tệ hoá tiền lương,xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối
+ Điều tiết thu nhập dân cư giữa các khu vực khác nhau.Trong hoàn cảnh kinh
tế như hiện nay chúng ta phải thừa nhận sự chênh lệch thu nhập giữa các tổ chức
với nhau.Tuy vậy vai trò của nhà nước là phải làm giảm đi phần nào sự chênh
lệch đó.Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan ở bất kì chế độ nào nhằm
duy trì và ổn định xã hội.Điều tiết thu nhập thông qua các hình thức như:thuế thu
nhập,tự nguyện đóng góp vào các quỹ phú lợi xã hội
+ Khuyến khích làm giàu một cách hợp pháp.Mục tiêu hàng đầu của nước ta là
dân giàu,nứơc mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh.Chính phủ luôn khuyến
khích mọi người dân,mọi tổ chức kinh tế làm giầu một cách hợp pháp.Ngoài ra
chúng ta còn thực hiện các chính sách xoá đói,giảm nghèo,đền ơn đáp nghĩa đối
với các gia đình chính sách.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY VÀ

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUANHỆ PHÂN PHỐI Ở
NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1 THỰC TRẠNG QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung , quan liêu
,bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , đa hình
thức sở hữu đang nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối. Để đánh
giá được thực trạng phân phối ở nước ta hiện nay thì ta xem xét 3 nguyên tắc
phân phối cơ bản :phân phoi theo lao động , phân phối theo tài sản vốn hay những
đóng góp khác ,phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã
hội .Tương ứng với nguyên tắc phân phối theo lao động co hình thức tiềnlương và
tiền thưởng . Trong đó, chính sách tiền lương và tiền công lao động là đặc biệt
quan trọng vì nó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong sự hình thành
và phân phối thu nhập trong điều kiện của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
2.1.1 /Thực trạng về chính sách tiền lương
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là
quá trình chúng ta dần thừa nhận sức lao động là hàng hoá. Một khi sức lao động
trở thành hàng hoá, thì người có sức lao động hoàn toàn có quyền tự do bán sức
lao động của mình theo những hợp đồng lao động nhất định và khi đó các chủ
doanh nghiệp sử dụng sức lao động phải trả công cho họ theo đúng những cam
kết trong hợp đồng đã ký. Sau quá trình làm cho các chủ doanh nghiệp hoặc các
tổ chức kinh tế quốc doanh, người lao động nhận được một khoản thu nhập gắn
với kết quả lao động của họ. Về nguyên tắc khoản thu nhập đó phải tương xứng
với số lượng và chất lượng lao động mà mỗi người đã cống hiến. Số thu nhập theo
lao động đó gọi là tiền lương. Hay nói cách khác tiền lương chính là hình thức thu
nhập theo lao động.
Với tư cách là một phạm trù kinh tế, tiền lương là sự biểu hiện của bộ phận cơ
bánp cần thiết được tạo ra trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc doanh



để đi vào tiêu dùng cá nhân của người lao động, tương ứng với số lượng và chất
lượng lao động mà họ đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Về cơ cấu tiền lương bao gồm hai phần: phần tiền lương cơ bản và phần tiền
lương bổ sung (tiền thưởng). Trong đó phần tiền lương cơ bản phụ thuộc vào
thang lương, bậc lương của mỗi người, phần tiền thưởng phụ thuộc vào kết quả
hoạt động của đơn vị. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương
theo từng ngành và theo từng khu vực có tính đến trình độ chuyên môn và điều
kiện lao động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Điều đó thúc đẩy những người lao
động quan tâm hơn nữa tới việc hoàn thành các công việc được giao. Khi đó họ
hoàn toàn phấn khởi vì đã hiểu ra rằng trước hết, họ làm việc cho chính mình và
tiếp đến là làm việc cho xã hội.
Việc cải cách tiền lương diễn raliên tục bắt đầu từ khi ban hành nghị định
235/HDBT tháng 9 năm 1985 đến đầu năm 1993, Nhà nước đã phải điều chỉnh
tiền lương 21 lần.Về cơ chế của chính sách tiền lương .Nhà nước trực tiếp định
mức lao động ,định mức tiền lương duyệt quỹ lương ,bảng lương bậc ,bậc lương
cụ thể cho các đơn vị sản suất kinh doanh phải thực hiện .Chuyển sangmột cơ chế
mới ,trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông
số để tính toán ,Nhà nước khống chế lương tối thiểu, khống chế thu nhập tối đa .
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của
nhà nứơc ,có lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh
của các đơn vị kinh tế cơ sở ,có lĩnh vực chưa chuyển lập như cơ chế kiểm soát
và điều tiết tiền lương ,thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyển
sang kinh doanh ,vv…
Chính sách tiền lương theo Nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian
ngắn ,sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm mạnh và giảm liên tục .Trên thực tế
diễn ra tình hình tốc độ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá .


Trước tình hình biến động của giá làm cho tiền lương thực tế ,đời sống của dân cư
nói chung ngày càng sa sút ,đã gây ra sự phản ứng của các đối tượng trong xã

hội.Cụ thể là :
* Ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp
che chắn kiểm soát liên tục ,nhưng một số địa phưong tựđịnh lại mức lương tối
thiểu vidụ, Long an nâng lên hai lần ….không theo chính sách chung .
* Ở các đơn vị sản xúât –kinh doanh :dựa vào quyền tự chủ kinh doanh và
những sơ hở của cơ chế quản lý đang trong bứơc giao thời , đều tìn mọi cách tăng
thu nhập cho mình .Nhìn xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao
* Ở các đơn vị hành chính sự nghiệp :phải thực hiện theo nghị định
235/HĐBT.Nhưng lại được nhà nứơc cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời
sống đủ loại để tăng thu nhập .Toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh
lệch về thu nhập rất lớn ,mà phần lớn không phải sự chênh lệch đó là do tài năng
lao động của họ tạo ra .
* Ở ngoài xã hội trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước quy định là
22.500đ/tháng ,thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho người lao động binh
thường là từ 3000-5000đ/công .Trong khi nhà nước quy định lương tối đa bằng
3,5 lần lương tối thiểu ,thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần . Đặc biệt ở
khu vực này tiền công đã được tiền tệ hoá hoàn toàn và đã tính đén quan hệ cung
cầu về lao động . Nhưng đến Tháng 4-1993 nước ta thực hiện cải cách chính sách
tiền lương, ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công
nhân viên chức khu vực khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh.
Từ đó đến nay mặc dù các thang bảng lương và cơ chế quản ly chưa thay đổi,
nhưng mức lương tối thiểu cũng thường xuyên thay đổi từ 1/4/1993 là 120.000 đ;
1/10/1997 là 144.000 đ; 1/1/2000 là 180.000 đ đến 1/1/2001 là 210.000 đ; đến
1/1/2003 là 290.000 đ. Qua thời gian áp dụng chính sách lương mới vào cuộc
sống thì việc phân phối đã công bằng hơn, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác.


Qua những số liệu ở trên cho ta thấy thực trạng về vấn đề tiền lương ở
nước ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần đang hoạt động trong một thị trường thống nhất .Tiền lương đó chưa thực
sự là thước đo giá trị –lao động ,chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng
sức lao động không ngừng ,chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của ngưòi lao
động làm công ăn lương
Tiền lương vừa mang tính chấ bình quân ,vừa mang tính chất bao cấp
.Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta đang triển khai thí điểm chinh sách tiền
lương mới nhưng trong đó vẫn còn chứa đựng nhiều ván đề bất hợp lí Thứ
nhấtTính đến tháng 12/1999, tổng các đối tượng là 6.2 triệu người chiếm 8% dân
số, trong đó 66.9% thuộc 2 nhóm cuối- hưu trí và các chính sách xã hội. Trên thế
giới không một quốc gia nào có tỷ lệ như vậy. Số cán bộ công chức đang làm việc
thực tế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: khối quản lý hành chính Nhà nước chiếm 3.4%
tổng số, khối sự nghiệp chiếm 18.4% tổng số, cán bộ cấp phường xã chiếm 6.2%
tổng số.
Hai là mức tiền lương tối thiểu là quá thấp cho đến trước 1/1/2003. Đối với
đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước (mức lương được xây dựng trên mức lương
tối thiểu) thì tiền lương chỉ chiếm từ 20-30% thu nhập dẫn đến hiện tượng tiền
lương chỉ còn là danh nghĩa và chủ yếu dùng làm căn cứ đóng bảo hiểm. Người
lao động không quan tâm đến công việc chính của mình, dành nhiều thời gian,
sức lực và trí tuệ làm các công việc khác để tăng thu nhập. Trong khi đối với lao
động tại các doanh nghiệp, khi thu nhập chủ yếu là từ tiền lương, thì mức lương
tối thiểu đã là 210.000(VND) đến 360.000(VND) đối với doanh nghiệp Nhà
nước, 410.000(VND) đến 620.000(VND) đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài. Như vậy là mức lương tối thiểu (thực chất là mức lương cơ bản) cho
đội ngũ công chức là không còn phù hợp nữa.
Ba là mặc dù lương tối thiểu và tối đa đã chênh lệch hơn 10 lần, tưởng
chừng khắc phục được tình trạng bình quân trong phân phối, nhưng do sự chi tiết
đến thái quá làm cho tiền lương rơi vào tình trạng bình quân chủ nghĩa. Khoảng


cách giữa các bậc lương quá ngắn, thấp nhất là 0.09 và cao nhất là 0.43. bên cạnh

đó lại có quá nhiều ngạch lương gây nên sự phức tạp không cần thiết. Đơn cử khu
vực hành chính sự nghiệp hiện có 21 bảng lương và 196 thang lương tương ứng
với 196 ngạch công chức. Hiện tượng không bao giờ đạt đến hệ số lương cao nhất
là phổ biến. Cơ chế quản lý tiền lương hiện nay còn bộc lộ hàng loạt những yếu
điểm quan trọng. Trước hết tiền lương chưa gắn với trách nhiệm và kết quả lao
động. Chúng ta vẫn chủ yếu trả lương theo thâm niên, theo bậc chứ chưa trả
lương theo chức vụ và gắn liền với nó là trách nhiệm, kết quả lao động hầu như
không có tác động gì đến mức lương của người lao động trong khu vực hành
chính sự nghiệp.
Mô hình quản lý hành chính yếu kém dẫn đến việc các khoản chi là rất
lãng phí, các nguồn thu thì không được công khai. Phần lớn các khoản thu chi bất
hợp pháp này được hợp pháp hoá và chuyển thành các khoản thu nhập ngoài
lương. đây là một trong những khâu yếu nhất của chính sách tiền lương Việt
Nam.
Bốn là sự bất cập lương đối với nhu cầu của cuộc sống đang đẻ ra nhiều
nghịch lý. Mọi người đều biết rằng mức lương hiện nay là không đảm bảo được
cuộc sống bình thường. Chênh lệch về thu nhập giữa các ngành, các cơ quan, đơn
vị là rất lớn. Hiện nay có khoảng 40% số các đơn vị hành chính sự nghiệp cả nước
là hoạt động sự nghiệp. Đó là chưa kể sự chênh lệch đến quá lớn giữa lao động
trong biên chế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác. những chênh lệch và
những nghịch lý ấy đang là lý do cả về vật chất lẫn ý thức làm cho người lao động
coi tiền lương là một khoản thu nhập phụ, không ai sống bằng lương, Nhà nước
không quản lý được thu nhập và chúng đang gây ra những hậu quả tiêu cực như:
hạch toán sai, báo cáo không đầy đủ, giấu nguồn thu, trốn thuế thu nhập, sử dụng
thu nhập mập mờ, tuỳ tiện, cản trở kiểm tra kiểm soát Điều tệ hại là không đo
đếm và tạo ra tâm lý lạm dụng của công, nạn tham nhũng tập thể, dùng tiền công
để “của người phúc ta”, kéo bè kéo cánh. cùng cánh thì được “ăn chia”, nếu
không cùng cánh thì lương "ba cọc một đồng” ,tìm cách hạ bệ nhau,bôi nhọ danh



dự của nhau gây mất dân chủ và mất đoàn kết trong không ít các cơ quan tổ chức.
.Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội khác
như nhà ở phân phối điện ,nước sinh hoạt …có liên quan mật thiết với nhau .Song
trong qúa trình giải quyết vấn đề tiền lương chưa tính toán cân đối với từng
chính sách một cụ thể ,do đó nó phát sinh nhiều hiện tượng mâu thuẫn khó giải
quyết gây ra sự bất bình đẳng lớn trong xã hội
Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lý
tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động .
2.1.2. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận
Từ năm 1989 đến nay thì nên kinh tế việt nam có bước chuyểnbiến quan
trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước .Xét tình hình lợi nhuận ở nước ta,thì do chính sách cơ chế hình thành và
phân phối thu nhập, lợi nhuận ở nước ta còn nhiều hạn chế, bất hợp lý nên đang
tạo nên sự phân hoá và bất bình đẳng lớn trong xã hội. Đây là nguyên nhân quan
trọng nhất tạo ra tình trạng “lãi giả lỗ thật”. Cũng từ đây nảy sinh ra một hiện
tượng phổ biến khác là có nhiều doanh nghiệp thường tìm cách tăng chi phí để
giảm lợi nhuận và giảm phần lợi nhuận trích nộp vào ngân sách Nhà nước. Nhà
nước chưa quản lý được thu nhập của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì vậy
mà chưa có một căn cứ chính xác để tính thuế. Hơn nữa trong công tác quản lý
còn tồn tại tình trạng trốn lậu thuế, buôn bán lậu qua biên giới và trong nước, làm
hàng giả, núp bóng dưới doanh nghiệp quốc doanh để trốn thuế khá phổ biến
đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư nhân. Điều này đã nảy sinh sự
bất bình đẳng lớn trong xã hội. Và nếu Nhà nước không có chính sách quản lý
phù hợp thì khó có thể thực hiện tốt các mục tiêu xã hội đã đặt ra. Như vậy, ở
nước ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận chưa được phát huy đúng sức mạnh vốn có
của nó. Sở dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận không hợp lý đồng thời
cơ chế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực kích thích các doanh nghiệp


sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất

nước nói chung.
Về vấn đề lợi tức và lợi tức cổ phần thì chưa thu hút được phần lớn nguồn
vốn nhàn rỗi trong nhân dân, cho nên một khối lượng vốn lớn còn chưa đi vào
chu chuyển tạo ra sự lãng phí. Tuy số lượng các công ty cổ phần là khá lớn nhưng
hoạt động thực sự hiệu quả thì chưa nhiều, hoạt động mua bán cổ phiếu công ty
vẫn còn rất mới mẻ.
Một vấn đề nữa còn tồn tại hiện nay ở nước ta đó là thu nhập từ các quĩ
phúc lợi xã hội còn thấp. Các khoản tiền trợ cấp, tiền bảo hiểm xã hội và các
khoản chi trả khác như học hành, chữa bệnh, thưởng thức văn hoá, nghệ
thuật còn rất hạn chế. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do thu nhập chính
của người dân về cơ bản còn thấp, đa số chỉ đảm bảo được cuộc sống vừa đủ.
Trước những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề phân phối ở nước ta
hiện nay, để đảm bảo cho phân phối được công bằng thì cần có những giải
pháp để khắc phục những hạn chế đó.
2.2. NHỮNG NHẬN XÉT KHI RÚT RA KHI NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CỦA
QUAN HỆ PHÂN PHỐI Ở NỨOC TA HIỆN NAY
2.2.1 Ưu điểm : Ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều cố gắng để
giải quyết vấn đề phân phối thu nhập . Đặc biệt rõ nét nhất là từ khi nền kinh
tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay ,hàng loạt các chính
sách kinh tế được áp dụng để giải quyết vấn đề tiền lương , lợi nhuận , lợi tức
địa tô ,bảo hiểm ,trợ cấp xã hội ….nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân
phối lưu thông để "cởi trói " cho lĩnh vực sản xuất . Qua thời gian áp dụng
chính sách lương mới vào cuộc sống thì việc phân phối đã công bằng hơn, tạo
động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
công tác
2.2.2. Nhược điểm: Tuy nhà nước ta đã cố gắng giải quyết những vấn đề
phân phối thu nhập nhưng tuy nhiên vấn đề phân phối theo thu nhập vẫn còn


nhiều khuyết tật đã kìm hãm sự phát triển của nước ta ví dụ như bộ máy quản

lý cồng kềnh , chưa thực sự kiểm soát và làm chủ trong quản lý tiền
lương,chế độ tiền lương , phụ cấp vẫn còn mang bất hợp lí mang nặng tính
bao cấp, cơ chế hình thành và phân phối thu nhập, lợi nhuận ở nước ta còn nhiều
hạn chế, bất hợp lý nên đang tạo nên sự phân hoá và bất bình đẳng lớn trong xã
hội.

×