Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Nhóm 10(Moitruong-nhatban,trung quoc) ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.35 KB, 42 trang )

GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
Khoa Thương Mại – Du Lịch – Marketing
Đề tài môn Quản trị kinh doanh quốc tế
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hoá
Trung Quốc và Nhật Bản đến hoạt động kinh
doanh quốc tế
GVHD: Th.S.Quách Thị Bửu Châu
Nhóm thực hiện:
HUỲNH THỊ NHƯ MAI_TM3_NHÓM TRƯỞNG
TRẦN THẾ MẠNH_TM3
NGUYỄN HỮU LUÂN_TM4
NGUYỄN NHƯ VŨ_TM3
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
2
ĐOÀN THANH BÌNH_TM4
MỤC LỤC
Lời mở đầu…………………………………………………………………………… 2
I.Các yếu tố văn hóa…………………………………………………………………….3
1.giới thiệu về văn hóa Trung Quốc………………………………………………… 3
2.giới thiệu về văn hóa Nhật Bản……………………………………………………14
II.Điểm tương đồng và khác biệt của văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản…………… 33
III.Sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản đến kinh doanh quốc tế ……34
Kết luận……………………………………………………………………………… 41
IV.Các tài liệu tham khảo…………………………………………………………… 42
V.Phân công công việc và mức độ thực hiện công việc của từng thành viên…………42
LỜI MỞ ĐẦU


Kinh tế thế giới ngày nay phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa, không có một quốc gia
nào tách khỏi phần còn lại của thế giới. Hoạt động kinh doanh ở các công ty cũng chịu tác đông
của xu hướng toàn cầu. Do vậy, đối với các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta việc nghiên
cứu hoat động kinh doanh quốc tế trở thành cấp thiết. Thành công sẽ đến với những công ty biết
tổ chức thành thạo viêc nghiên cứu môi trường kinh doanh quốc tế từ đó hoạch định chiến lược
kinh doanh phù hợp từng giai đoạn phát triển của công ty. Để thành công trong kinh doanh quốc
tế, con người phải hiểu văn hóa của các nước khác nhau và biết cách thích nghi chúng. Xét trong
một phạm vi, tất cả các cá nhân sẽ có hướng hành động theo văn hóa nước nhà, thách thức trong
kinh doanh quốc tế là phải biết cách mở rộng tầm nhìn để trách những quyết định dựa trên những
quan niệm sai lầm.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
3
Nội dung
I. Các yếu tố văn hoá.
1. Giới thiệu về văn hoá Trung Quốc.
1.1 Con người.
Tại Trung Quốc có khoảng hơn một trăm dân tộc, trong
đó đông nhất là người Hán, là dân tộc với sắc thái ngôn
ngữ và văn hóa có nhiều khác biệt vì thực ra là kết hợp
của nhiều dân tộc khác nhau được coi là cùng chia sẻ
một thứ ngôn ngữ và văn hóa. Hiện nay, Chính phủ
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công
nhận tổng cộng 56 dân tộc, trong đó người Hán chiếm
đa số.
1.2 Ngôn ngữ.
Tiếng Trung Quốc ( hay Hán ngữ, Hoa ngữ, Trung văn) là một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn
ngữ Hán - Tạng, sử dụng mẫu tự tượng hình. Mặc dù thường được coi là ngôn ngữ duy nhất
với lý do văn hoá, trên thực tế mức độ đa dạng giữa các vùng khác nhau có thể sánh với sự

đa dạng của các ngôn ngữ Roman. Từ hàng ngàn năm nay giới trí thức Trung Quốc dùng một
chuẩn viết chung là Văn ngôn. Ngày nay Văn ngôn không còn là cách viết thông dụng nữa,
tuy nhiên trong chương trình học nó vẫn tiếp tục được dạy và như vậy người Trung Quốc
bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Các ngôn ngữ nói khác nhau của
Trung Quốc chỉ được nói mà không có cách viết không như Phổ thông thoại ( hay là bạch
thoại: nghĩa là thứ tiếng bình dân dựa trên tiếng Quan thoại chuẩn - là ngôn ngữ mà tất cả
mọi người nói các thứ tiếng Trung Quốc khác nhau đều dùng chung một dạng văn viết thống
nhất có từ đầu thế kỉ 20 dùng gần như cùng một bộ chữ Trung Quốc.
Khoảng một phần trăm dân số thế giới hiện nay dùng một trong những thứ tiếng Trung
Quốc làm tiếng mẹ đẻ, khiến nó trở thành thứ tiếng đứng đầu thế giới về phương diện này.
Tiếng Trung Quốc nói ở thể Quan Thoại chuẩn là ngôn ngữ chính thức của Cộng hoà nhân
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
4
dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc tại Đài Loan, cũng như là một trong bốn ngôn ngữ
chính thức của Singapore, và là một trong sáu ngôn ngữ làm việc chính thức của Liên Hiệp
Quốc. Tiếng Trung Quốc nói ở thể Quảng Đông chuẩn thì là một trong những ngôn ngữ
chính thức của Hồng Kông (cùng với tiếng Anh) và của Ma Cao (cùng với tiếng Bồ Đào
Nha).
1.3 Tôn giáo.
Về văn hóa và tôn giáo Trung Hoa

thì đại đa số người dân vẫn còn giữ phong tục thờ cúng tổ
tiên
do ảnh hưởng của Khổng Giáo, cũng như kết hợp với Phật Giáo và Đạo Giáo trở thành "Tam
giáo đồng nguyên" (hoặc "Tôn giáo cổ truyền Trung Hoa" mà Phật Giáo Đại Thừa giữ vai trò
chính), số còn lại theo những tôn giáo chính sau với tỉ lệ chỉ mang tính ước lượng có thể
không chính xác:
- Phật giáo : bắt đầu xuất hiện tại Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau Công

nguyên, tới thế kỷ thứ tư được quảng bá rộng rãi, dần dần trở nên tôn giáo có ảnh hưởng
lớn nhất tại Trung Quốc. Hiện nay, trên toàn Trung Quốc có khoảng 13000 ngôi chùa
miếu Phật giáo và khoảng 200000 tăng ni. Khoảng 8% (quy y Tam Bảo), bắt đầu du nhập
vào Trung Quốc khoảng từ thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Số người theo chủ yếu là Đại
thừa, còn Tiểu thừa thì không đáng kể. Ngoài ra, còn có những người theo Phật giáo Tây
Tạng, chủ yếu tại Tây Tạng và Nội Mông Cổ. Con số thực của số lượng Phật tử trên danh
nghĩa có thể đạt trên 660 triệu đến 1 tỷ người (50% - 80%). Nhờ vậy mà Trung Quốc
đương nhiên trở thành quốc gia Phật Giáo đông dân nhất, theo sau là Nhật Bản và Việt
Nam, chiếm khoảng 2/3 trong tổng số 1,5 tỷ người theo Phật Giáo trên khắp Thế Giới.
Lưu ý là đa số người gốc Hán thường tôn thờ Phật Giáo cùng chung với các tôn giáo
truyền thống Trung Hoa khác (như Đạo Giáo hay Khổng Giáo).
- Lão giáo : xuất hiện dưới nhiều trạng thái khác biệt và khó phân ranh rõ ràng với những
tôn giáo khác nên người ta không nắm rõ số người theo. Theo các tài liệu gần đây nhất
(theo tài liệu nào) thì có khoảng 400 triệu người (30% tổng dân số) theo Đạo Giáo.
- Cơ Đốc giáo: khoảng 1 đến 4%, một số nhánh của đạo này được truyền rải rác vào Trung
Quốc thành nhiều đợt bắt đầu từ thế kỷ thứ 8. Ngoài ra còn có những người Trung Quốc
gốc Nga ở phía bắc và tây bắc Trung Quốc theo Chính Thống giáo với số lượng tương
đối nhỏ.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
5
- Nho giáo: đây là tôn giáo xuất phát từ Khổng Tử mà các triều đại Trung Quốc cố gắng
truyền bá theo chiều hướng có lợi cho chính quyền, tuy nhiên theo nhiều học giả thì bản
chất của nó không phải như vậy.
- Hồi giáo: Đạo Hồi được truyền bá tại Trung Quốc vào khoảng giữa thế kỷ thứ 7, thời kỳ
Đường, Tống, khi những thương gia Ả rập và Ba Tư theo đường bộ tới vùng Tây Bắc
Trung Quốc hoặc theo đường biển tới miền duyên hải Đông Nam. Đạo Hồi càng trở nên
hưng thịnh vào đời Nguyên. 1% đến 2%, có ở Tân Cương và các vùng có người dân tộc
thiểu số theo Hồi Giáo sinh sống rải rác. Đạo này phát triển mạnh vào thời nhà Nguyên

(1271-1368)
- Tôn giáo cổ truyền Trung Quốc: tôn giáo đa thần của phần lớn dân Trung Quốc trước
năm 1949, là kiểu tín ngưỡng pha trộn giữa một số trường phái Đạo giáo và Phật giáo và
các tín ngưỡng khác.
1.4 Đặc trưng văn hóa ẩm thực Trung Hoa
Văn hóa ẩm thực Trung Hoa đặc sắc và độc đáo bởi sự
toàn vẹn trong suy nghĩ, sự kết hợp tinh tế giữa hương,
sắc, vị và cả trong cách bày biện.
Trung Hoa cũng như đa phần các nước phương Đông
khác, là một đất nước thiên về nông nghiệp nên hai
thành phần chính trong ẩm thực Trung Hoa là "Chủ
thực" (gạo, mì hay màn thầu) và "Cải thực" ( là các
món cung cấp các chất dinh dưỡng khác như rau, thịt,
cá, hoặc những món bổ sung).
Người Trung Quốc rất coi trọng sự toàn vẹn, nên ngay cả trong các món ăn cũng phải thể
hiện sự đầy đủ, nếu thiếu sẽ là điều chẳng lành, vì sự việc không được “đầu xuôi đuôi lọt”.
Các món ăn từ cá thường được chế biến nguyên con, gà được chặt miếng rồi xếp đầy đủ lên
đĩa…
Sự tinh tế trong các món ăn chính là sự hội tụ đầy đủ từ hương, sắc, vị đến cách bày biện,
trang trí. Món ăn ngon phải đảm bảo có màu sắc đẹp mắt, có hương thơm ngào ngạt làm say
lòng thực khách, có vị ngon của đồ ăn được chế biến từ nguyên liệu tươi, và cách trình bày
thật thu hút và ấn tượng. Các món ăn không chỉ ngon, đẹp mắt mà còn bổ dưỡng bởi sự kết
hợp tài tình giữa các thực phẩm và các vị thuốc như hải sâm, thuốc bắc…
Có đến mười mấy cách chế biến như hâm, nấu, ninh, xào, hấp, rang, luộc, om, nhúng, mỗi
một cách chế biến đem lại những dư vị và cảm nhận khác nhau trong lòng thực khách. Để có
được các món ăn hấp dẫn đó không chỉ có khâu chọn thực phẩm, cách chế biến mà quan
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
6

trọng hơn nữa chính là việc nắm vững được độ lửa, điều chỉnh lửa to, nhỏ sao cho phù hợp,
và thời gian nấu là dài hay ngắn.
Cũng giống như Việt Nam, người Trung thường dùng đũa để gắp thức ăn. Điều này thể hiện
sự điềm đạm, lịch sự và khoan thai khi ăn. Đối với họ thì dao và dĩa được xem là vũ khí gây
thương tích.
8 phong cách ẩm thực truyền thống của Trung Hoa là: Sơn Đông, Tứ Xuyên, Giang
Tô, Chiết Giang, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hồ Nam, và An Huy. Người Trung Quốc đã hình
tượng hóa các trường phái ẩm thực của mình một cách nghệ thuật, ví trường phái ẩm thực
Giang Tô và Chiết Giang như một người đẹp phương Nam; ẩm thực Sơn Đông và An Huy
giống một chàng trai khoẻ mạnh, kiệm lời; ẩm thực Quảng Đông và Phúc Kiến là một thanh
niên lãng mạn; ẩm thực Tứ Xuyên và Hồ Nam lại là nhà bác học, nhà bách khoa thư.
- Ẩm thực Sơn Đông: bao gồm hai loại món ăn của Tế Nam và Dao Đông. Các món
ăn mang vị nồng đậm, nặng mùi hành tỏi, nhất là những món hải sản, có sở trường
làm món canh và nội tạng động vật. Món ăn nổi tiếng của Sơn Đông là ốc kho, cá
chép chua ngọt.
- Ẩm thực Tứ Xuyên: bao gồm hai trường phái Thành Đô và Trùng Khánh. Các món
ăn Tứ Xuyên nhiều mùi vị và có độ nồng đậm, cay. Nổi tiếng với món Vây cá kho
khô, cua xào thơm cay.
- Ẩm thực Giang Tô: bao gồm món ăn của Dương Châu, Tô Châu và Nam Kinh. Giang
Tô nổi tiếng về các món hầm, ninh, tần, đặc biệt các món canh bảo đảm nguyên chất,
nguyên vị. Món ăn có tiếng như: món thịt và thịt cua hấp.
- Ẩm thực Chiết Giang: Bao gồm các món ăn của Hàng Châu, Ninh Ba, Thiệu Hưng.
Chủ yếu là của Hàng Châu. Món ăn Chiết Giang thường tươi mềm, thanh đạm, không
ngấy. Nổi tiếng với món tôm nõn Long Tỉnh, cá chép Tây Hồ.
- Ẩm thực Quảng Đông: hình thành từ 3 truyền thống nấu bếp là Quảng Châu, Triều
Châu, và Đông Giang, phong phú về thành phần, cách chế biến tinh tế và phức tạp.
Quảng Châu nổi tiếng hơn cả về các món chiên, rán, hầm với khẩu vị thơm giòn và
tươi. Nổi tiếng với món Tam xà long hổ phượng, lợn quay.
- Ẩm thực Phúc Kiến: gồm các món ăn Phúc Châu, Tuyền Châu và Hạ Môn, chủ yếu
là món Phúc Châu. Các món ăn Phúc Kiến với nguyên liệu chủ yếu là hải sản, chú

trọng vị ngọt, chua, mặn thơm, màu đẹp vị tươi. Nổi tiếng với món Kim phúc thọ, cá
kho khô
- Ẩm thực Hồ Nam: được hình thành từ thời nhà Hán, các món ăn của Hồ Nam
thường được chú trọng độ thơm cay, tê cay, chua, cay và tươi. Đặc biệt là vị chua cay.
Hồ Nam có món kho vây cá là nổi nhất.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
7
- Ẩm thực An Huy: gồm các món ăn của miền Nam An Huy, khu vực dọc sông
Trường Giang và Hoài Hà. An Huy có sở trường về các món ninh, hầm. Người An
Huy đặc biệt chú trọng về mặt dùng lửa, nổi tiếng với món vịt hồ lô.

1.5 Giá trị và thái độ.
Văn hoá Trung Quốc là 1 nền văn hoá có tính kế thừa từ lâu
đời gắn liền với nền nông nghiệp và chế độ phong kiến. Ngày nay
tuy là đã có nhiều sự thay đổi nhưng vẫn còn nhiều giá trị tồn tại
đến ngày nay, tạo nên một nền văn hoá đặc sắc, đậm đà bản sắc
dân tộc. Các niềm tin, quan điểm sống ảnh hưởng rất lớn Nho giáo
của Khổng Tử.
Trong công việc:
- Người Trung Hoa rất coi trọng đến mối quan hệ cá nhân.
Hiếm người Trung Quốc nào đặt quan hệ làm ăn với người mà họ
không biết rõ ràng. Do đó, hãy giới thiệu thật kỹ bản thân để tạo
niềm tin khi bước đầu bắt tay vào kinh doanh. Thêm vào đó, bạn
cũng cần nắm rõ thứ bậc trong tổ chức công ty. Người Trung Quốc nhìn nhận mỗi cá nhân là
một thành phần trong hệ thống bậc thang của tổ chức. Bạn đừng vào phòng họp trước người
có chức danh cao hơn bạn.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.

Món ăn Quảng Đông
Món ăn Tứ xuyên
Món ăn Sơn Đông
Món ăn Phúc Kiến
Món ăn Hồ Nam
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
8
- Quan hệ lâu dài cũng được xem là có giá trị hơn sự giao dịch, giải quyết công việc nhất
thời. Vì thế, đừng vội vã “tấn công”, sự tin cậy là điều cần xây dựng trước và khiêm tốn cộng
với kiên nhẫn chính là chìa khoá của thành công.
- Người Trung Quốc rất coi trọng thời gian. Sự đúng hẹn là chìa khóa đã giúp người
Trung Quốc thành công trong thời gian vừa qua. Họ sẽ không bao giờ đợi nếu bạn không
đúng giờ.
Ngoài ra, một điều bạn phải hết sức chú ý là người Trung Quốc rất kiêng kị số 4. Vì trong
tiếng Trung Quốc có thể hiểu là “chết”. Do đó, bạn không được tặng bất cứ cái gì có liên
quan đến con số này.
- Tính giai cấp: Người Trung Quốc rất coi trọng đẳng cấp của đối tác qua cách ăn mặc bề
ngoài, chỗ ở.
- Nên khi giao dịch kinh doanh phải ăn mặc sang trọng: đối với nam giới thì comple sẫm
màu và cravat, không nên mặc quần bò thắt cravat, càng không nên màu sắc lòe loẹt. Đối với
phụ nữ thì tùy theo tập tục nước mình. Thông thường là quần và áo vét sẫm màu.
- Nên ở trong khách sạn từ hạng trung trở lên vì nhận biết đối tác thuộc đẳng cấp nào là
chuyện rất quan trọng ở Trung Quốc. Câu hỏi rất hay gặp phải ở Trung Quốc là bạn ở khách
sạn nào.
1.6 Thói quen và cách cư xử.
Chào hỏi : Không nên bắt tay chặt, mà lỏng tay hoặc nhẹ nhàng. Chào hỏi người có chức
quyền cao nhất trước chứ không chào hỏi phụ nữ trước. Khi giới thiệu người khác với ai đó
thì không bao giờ được phép dùng ngón tay trỏ chỉ về người đó, điều này được xem như
không lịch sự, tốt nhất là dùng cả bàn tay đã được ngả lòng ra rồi chỉ về phía người đó.
Làm quen : Khi gặp gỡ làm quen có thể hỏi những chuyện liên quan đến cá nhân như có

vợ chồng chưa, mấy con, thậm chí cả về mức lương. Nếu được hỏi như vậy thì bạn không nên
lảng tránh trả lời. Chủ đề trao đổi khi gặp gỡ làm quen nên là thể thao, tốt nhất là bóng đá, tuyệt
đối không nên đề cập tới các chủ đề về chính trị,tôn giáo, không nên có lời phê phán.
Trao danh thiếp : Bạn nhớ luôn mang danh thiếp theo, trao và nhận bằng cả hai tay, nhớ
đọc danh thiếp nhận được rồi mới cất đi.
Văn hóa trong ăn uống :
Không được lấy đũa gõ vào bát.
Không bao giờ được cắm đũa vào bát cơm vì chỉ có cơm cúng người chết mới làm
như vậy.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
9
Khi ăn tiệc ở chỗ người Trung Quốc, bạn không nên ngại những tiếng động do ăn
uống gây nên. Người Trung Quốc coi đó là dấu hiệu khách hài lòng với bữa ăn.
Khi được mời đến dự tiệc, người Trung Quốc thường lịch sự dụt dè, bạn phải thường
xuyên mời họ ăn uống, rót đồ uống (rượu, bia) thường phải đầy cốc, nếu không có người
phục vụ thì nam giới rót đồ uống cho phụ nữ, cấp trên rót cho cấp dưới.
Đàm phán : Đàm phán với người Trung Quốc không đơn giản và thường kéo dài. Ban
đầu thường là một bữa tiệc kéo dài mà trong đó không bàn về chuyện làm ăn mà để dành đến
cuối bữa. Nếu không đi đến nhất trí thì bạn cũng đừng bực bội mà hãy cố vui vẻ và quả quyết
là rất quan tâm tới việc đạt được sự nhất trí với nhau để hợp tác kinh doanh. Thường sau đó
vài ngày sẽ có được chuyển biến tích cực.
Quà tặng : Tặng quà là thông lệ bình thường, có thể tặng hoa quả, bánh ngọt hay đồ
uống có rượu, nhưng không được phép tặng đồng hồ vì “tặng đồng hồ” trong tiếng Trung
Quốc cũng có nghĩa là “đi dự một đám tang”. Nếu được người Trung Quốc tặng quà thì
không được mở gói quà trước mặt người tặng.
Cách cư xử : Trung Quốc, bạn không được phê trách thẳng thắn và công khai mà nên
diễn giải theo cách khác, chẳng hạn như cộng sự hay nhân viên đó đã làm việc tốt, lần sau
chắc chắn sẽ còn tốt hơn. né tránh giao tiếp bằng mắt cũng bị coi là không đáng tin cậy.

Bạn cũng không nên từ chối trực tiếp, sẽ bị coi là ứng xử thiếu lịch sự. Thay vì trả lời
“Không” một cách dứt khoát, bạn nên nhẹ nhàng và tế nhị hơn để giữ thể diện cho đối
tác. “Có thể” hay “Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó” là cách từ chối thường thấy của người
Hoa.
1.7 Thẩm mỹ.
- Hội họa Trung Quốc : Đối với những bức tranh mang đậm nét truyền thống, dân gian
thì giá trị cốt lõi của nó chủ yếu nằm ở chủ đề với ý nghĩ biểu tượng hơn là phong cách
hay kĩ thuật thể hiện. Thí dụ như tranh có các chủ đề như: hoa điểu, rồng, ngựa, vượn, cá,
tùng hạc, sơn thuỷ, v.v. Những hình ảnh biểu
tượng trong tranh Trung Quốc có thể nhắc đến
là:
- Thuỷ mặc
- Hoa điểu:
- Hoa cúc: cho kẻ ẩn dật.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
10
- Mẫu đơn: quyền quý
- Hoa sen: quân tử.
- Mai, lan, cúc, trúc thường được gộp chung thành một cụm, xem như biểu tượng của
bậc quân tử, nên cũng được gọi là «tứ quân
tử»
- Quả đào: sự trường thọ
- Quả lựu: sự đông con cái
- Quả quít: sự tốt lành
- Chim hạc: sự trường thọ.
- Chim én hoặc vịt trời (Cặp): tình nghĩa vợ
chồng.
- Chim khách (tranh thập toàn báo hỉ): chúc thành công

- Con công: sự bình an thịnh vượng
- Linh vật: Long, lân, qui, phụng.
- Ngựa: đức tính trinh tiết, trung thành, sự mau chóng và thành đạt.
Ngoài ra, trong tranh Trung Quốc người ta còn có thể phối hợp giữa yếu tố này với yếu tố
khác để tạo ra nhiều ý nghĩa độc đáo.
Có hai điểm nổi bật của loại tranh này.
Thứ nhất, trong cuộc sống người ta thường gán cho một sự vật nào đó một ý nghĩa
biểu tượng. Thí dụ: trúc là quân tử, mai là giai nhân, cây tùng và chim hạc ngụ ý trường
thọ (tùng hạc diên niên 松鶴延年), v.v
Đặc điểm thứ hai là thông qua ngôn ngữ (nhất là từ ngữ đồng
âm hay cận âm) người ta sẽ liên tưởng hình vẽ này đến một sự vật
nào đó với ý nghĩa biểu tượng nhất định trong tâm thức chung của
mọi người.
- Thư pháp.
Thư pháp là nghệ thuật viết chữ của người Trung Quốc với các
công cụ gọi là văn phòng tứ bảo. Nói đến thư pháp là nói đến khổ
luyện và đây là một môn nghệ thuật tao nhã của người Hoa.

Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
11
Thư pháp là một trong những nghệ thuật xưa nhất của Trung Quốc. Khi hân thưởng một tác
phẩm thư pháp, người sành điệu thưởng thức bút pháp và sự sáng tạo của tác giả thể hiện qua
từng nét bút với tiết tấu nhanh chậm, với nét mực ướt đẫm lâm li hay xác xơ tiêu sái và với
độ đậm nhạt của mặc tích cũng như sự tương phản giữa giấy trắng mực đen. Với sự am tường
về chữ Hán, về tính cách ước lệ của thứ tự nét bút và số nét bút của từng chữ, người thưởng
ngoạn sành điệu sẽ cảm thấy thân thiết với tác phẩm và tác giả, đó là một thứ cảm xúc mà
những bộ môn nghệ thuật khác ít khi tạo được. Hình thức phổ biến nhất của thư pháp là đôi
câu đối (đối liên) mà người Trung Quốc thường treo ở cổng nhà, bàn thờ gia tiên, phòng

khách, cột nhà của họ. Câu đối có nhiều loại: câu đối ngày xuân gọi là xuân liên; loại dán ở
cửa gọi là môn liên; loại dán ở cột gọi là doanh liên (doanh là cột nhà lớn ở tiền sảnh). Vào
dịp tết, những câu đối là những lời cầu chúc cát tường thể hiện khát vọng hạnh phúc của họ
trong mùa xuân mới. Khát vọng đó sẽ tựu thành và phát triển giống như chồi non lộc mới
trong tiết xuân sang.
1.8 Giáo dục.
Phát triển giáo dục được Trung Quốc đặt là một nhiệm vụ hàng đầu và hết sức quan
trọng. Với chính sách "phát triển đất nước thông qua khoa học và giáo dục", trẻ em Trung
Quốc được hưởng nền giáo dục bắt buộc, miễn phí trong 9 năm (từ lớp 1 tới lớp 9). "Hướng
tới nền giáo dục hiện đại, tới thế giới và tương lai" là đường hướng chủ đạo cho sự phát
triển hệ thống giáo dục cả ngắn hạn và dài hạn.
Hiện nay, Giáo dục Trung Quốc được chia thành 3 cấp : Giáo dục tiểu học, giáo dục trung
học, giáo dục bậc cao. Tổng số lên tới 2210 trường cao đẳng và đại học (1054 trường cao đẳng
và 1156 trường đại học) với số sinh viên theo học tại các trường lên tới gần 7 triệu học sinh.
Giáo dục tiểu học : Bao gồm các trường phổ thông học cả ngày với thời gian học 6 năm. Căn
cứ vào luật giáo dục bắt buộc ma chính phủ Trung Quốc đã qui định, chính quyền địa phương
có nghĩa vụ phổ cập giáo dục tiểu học theo chế độ bắt buộc.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
12
Giáo dục trung học : Bao gồm giáo dục phổ thông và giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp.
Giáo dục phổ thông được chia thành 2 giai đoạn sơ trung và cao trung (tương đương với
cấp 2 và 3). Chế độ học bình quân mỗi giai đoạn là 3 năm. Các môn học bao gồm ngữ văn,
toán, ngoại ngữ, chính trị, lịch sử, địa lý, vật lý, hoá học, sinh vật, kỹ thuật lao động. Giáo
dục trung cấp kỹ thuật nghề nghiệp được chia thành 3 loại trường : Trung cấp chuyên
nghiệp, công nhân kỹ thuật và dạy nghề. Thời gian học tập từ 2 đến 3 năm tuỳ theo nội
dung học tập cảu từng trường.
Giáo dục bậc cao : Giáo dục cao đẳng và đại học : Hiện nay hệ thống giáo dục cao đẳng và
đại học ở Trung Quốc bao gồm các bộ môn khoa học toàn diện, đa hình thức với thời gian

học tập là 4 năm, cá biệt có một số trường học 5 năm.Theo thống kê của Bộ giáo dục Trung
Quốc, các trường đại học có tên tuổi ngày nay gồm đại học Bắc Kinh, đại học Thanh Hoa,
đại học Phúc Đán, đại học Nam Khai, đại học Nam Kinh.
Nguồn: hhtp://www.iced.edu.vn
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
13
Ngoài ra, Trung Quốc cũng là nước rất nhanh nhạy trong việc theo kịp xu hướng phát
triển giáo dục trên toàn thế giới, trong đó có giáo dục hệ tư thục. Từ năm 1992, Trung Quốc
đã cho phép mở các trường tư thục, nhằm mở rộng cơ hội học tập cho thanh thiếu niên. Đối
với giáo dục đại học và sau đại học, trong những năm qua, cải cách được diễn ra theo hướng
thay đổi chức năng của chính phủ từ bảo đảm mọi thứ cho trường học sang kiểm soát và điều
phối vĩ mô. Theo hướng này các trường ĐH của Trung Quốc không còn dựa hoàn toàn vào
việc phân bổ tài chính theo các quyết định của chính phủ nữa mà trải tự tìm ra các phương
thức hoạt động và phát triển mới theo các điều kiện của riêng mình.
1.9 Khoa học và kỹ thuật.
Trung Quốc cổ đại đã đạt được rất nhiều thành tựu
trong nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Trong số những
thành tựu về khoa học của Trung Quốc cổ đại phải kể
đến la bàn, thuốc súng, kỹ thuật làm giấy và kỹ thuật in
ấn, được coi là tứ đại phát minh. Ngoài ra cũng còn
nhiều phát minh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chương
trình không gian của Trung Quốc ngày nay là thành tựu
đáng kể, sử dụng và phối hợp nhiều tiến bộ khoa học và kỹ thuật tiên tiến:
+ Khoảng năm 1970, Trung Quốc có các kế hoạch để xây dựng chương trình tàu không
gian có người lái cũng vào với dự án 714 và tàu không gian có người lái Thự Quang. Dự án
này sau đó bị hủy bỏ vì một loạt những trục trặc chính trị và kinh tế.
+ Năm 1992, chương trình tàu không gian có người lái theo dự án 992 được triển khai.
Vào ngày 19 tháng 11 năm 1999, tàu không gian không người lái Thần Châu 1 được phóng

lên không gian coi như chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của chương trình. Sau ba lần thử
nghiệm nữa, phi thuyền Thần Châu 5 được tên lửa Trường Chinh 2F phóng lên vào ngày 15
tháng 10 năm 2003, mang theo nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vỹ, đưa Trung Quốc thành
nước thứ ba trên thế giới đưa được người vào không gian bằng khả năng của riêng mình. Lần
phóng thứ hai tàu có người lái Thần Châu 6 vào ngày 12 tháng 10 năm 2005 với 2 nhà du
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
14
hành vũ trụ Phí Tuấn Long và Nhiếp Hải Thắng cũng đã thành công. Thành quả này của
Trung Quốc có thể dấy lên một cuộc chạy đua vào không gian mới.
2. Giới thiệu về văn hoá Nhật Bản.
2.1 Con người.

Một đặc điểm của người Nhật là mức độ thuần
nhất cao của họ, nếu không kể thiểu số người Ainu
hiện nay còn khoảng 18.000 người sống ở
Hokkaido và Sakhalin thì tất cả người Nhật đều
thuộc về cùng một chủng tộc và chỉ nói một ngôn
ngữ. Một phần vì vậy mà tính cách của người Nhật
Bản mang sắc thái khá rõ ràng và đồng nhất.
Ngoài ra, hiện nay trong lòng Nhật Bản có một bộ phận khá đông đảo cư dân mang quốc
tịch Hàn Quốc, Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên sinh sống. Những người này không có tạo
ra những nét riêng biệt khác văn hóa Nhật Bản. Ở thành phố Yokohama có nhiều người Hoa
kiều sinh sống, không mang quốc tịch Nhật và họ tạo ra nét văn hóa Trung Hoa rất đậm nét.
2.2 Ngôn ngữ.
Chữ Hán được truyền từ Trung Quốc sang Nhật
Bản từ khoảng 2000 năm trước, được sử dụng phổ
biến ở Nhật Bản từ khoảng thế kỷ 5. Sau đó, dựa
trên cơ sở chữ Hán, người Nhật đã sáng tạo ra kiểu

chữ của mình là chữ Hiragana và Katakana (kiểu
chữ biểu thanh).
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
15
Hệ ngôn ngữ Nhật Bản được chia ra làm 2 nhóm chính: tiếng Nhật và Lưu Cầu
(Ryukyuan).
Nhóm tiếng Nhật chỉ gồm duy nhất tiếng Nhật.
Nhóm Lưu Cầu (Ryukyu) chia làm 2 nhóm ngôn ngữ, một nhóm bao gồm trực tiếp các
ngôn ngữ thành viên và nhóm còn lại tiếp tục phân thành 2 nhánh ngôn ngữ (hay trong một
số trường hợp còn được định danh là tiểu nhóm ngôn ngữ).
Họ ngôn ngữ Nhật Bản có 12 ngôn ngữ thành viên, tất cả trong số đó đều đang được duy
nhất những cư dân đang sống trên đất Nhật sử dụng. Tuy các ngôn ngữ thuộc hệ này đã được
phát triển biệt lập, nhiều nhà ngôn ngữ học vẫn đang tìm kiếm các liên hệ giữa chúng với các
ngôn ngữ khác. Một thuyết được để ý nhất đề nghị xếp hệ này cùng với một ngôn ngữ đã mai
một – tiếng Goguryeo – vào Nhóm Fuyu. Một thuyết khác nhắc đến những điểm giống nhau
về ngữ pháp giữa các ngôn ngữ trong hệ này và tiếng Triều Tiên – tuy không giải thích được
về sự khác biệt về từ vựng.
Tiếng Nhật được viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: Hán Tự ( Kanji) và hai kiểu chữ đơn
âm mềm Hỉagana (Bình Giá Danh) và đơn âm cứng Katakana (Phiến Giá Danh).
Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ
Hán để thể hiện rõ nghĩa.
Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ,
đuôi động từ, tính từ v.v.
Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài, trừ tiếng Trung và từ vựng của một số
nước dùng chữ Hán khác.
Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và
biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hóa, khi nhập tiếng Nhật vào máy tính
và được dạy ở cấp tiểu học nhưng chỉ có tính thí điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được

dùng để ghi số, nhưng cách viết số theo ngữ hệ Hán - Nhật cũng rất phổ biến.
Ngôn ngữ có nhiều mặt hạn chế ( như rất ít các nguyên âm, Phụ âm luôn đặt trước
nguyên âm, một tỉ trọng lớn từ ngữ gốc ngoại nhập được thể hiện dưới dạng chữ Kanji và
chữ Katakana ) góp phần khiến người Nhật Bản rất cẩn trọng khi phát biểu, thể hiện chính
kiến, và thường thông qua thái độ ngầm định, những yếu tố phi ngôn ngữ, sự nỗ lực thể hiện
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
16
của bản thân để điền vào chỗ trống của ngôn từ. Bởi vậy để hiểu họ thường phải kết hợp
nghe họ nói, quan sát những gì họ thể hiện và thấu hiểu tính cách của họ.
2.3 Tôn giáo.
Có thể nói Nhật Bản là một trong những quốc gia phức tạp nhất thế giới về tôn giáo. Ở
đây cùng đồng thời tồn tại các phong tục tập quán có nguồn gốc và theo phong cách tôn giáo
khác nhau. Người Nhật đến lễ ở các đền của đạo Shinto (Thần đạo) vào năm mới, đi thăm
các chùa chiền của đạo phật vào mùa xuân nhưng tổ chức tiệc tùng và tặng quà nhau vào dịp
lễ Noel theo cách của đạo Thiên chúa. Các đám cưới thường được tổ chức theo nghi lễ của
thần đạo hoặc đạo thiên chúa. Nhưng thủ tục ma chay lại tiến hàng theo nghi lễ của đạo phật.
Có những người một lúc theo hai hoặc ba đạo, do đó vào năm 1995 theo thống kê của cuốn
niên giám về tôn giáo của hiệp hội văn hóa thì tín đồ của tất cả các giáo phái cộng lại là
219,83 triệu, gần gấp đôi dân số Nhật lúc bấy giờ là 120triệu.
Theo truyền thống Nhật Bản, tôn giáo không phải là một tổ chức tách biệt với cuộc sống
hàng ngày mà gắn liền với mọi khía cạnh trong cuộc sống kinh tế và xã hội. Các lễ nghi theo
suốt cuộc đời một con người, từ lúc sinh ra đến lúc lập gia đình và xuống cõi âm. Tôn giáo có
ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều lĩnh vực như tư tưởng, kiến trúc, văn hóa-nghệ thuật của
người Nhật.
Ba tôn giáo lớn của Nhật Bản là Thần đạo, Phật giáo và Thiên chúa giáo.
- Thần đạo.
Thần đạo là tôn giáo độc đáo của Nhật Bản. Thời xưa, người Nhật có quan niệm rằng trên
đất nước mình có nhiều vị thần. Họ coi tất cả những vật chất hay hiện tượng mang tính thần

bí, đáng kính sợ đều là những vị thần. Ngoài ra, người Nhật tin rằng mỗi dòng họ, mỗi xã đều
có vị thần tổ tiên, vị thần xã riêng. Vì vậy, trong tiếng Nhật có cụm từ “tám trăm vạn vị
thần”. Cách suy nghĩ này hiện nay vẫn còn tồn tại.
Trên toàn Nhật Bản, nơi đâu cũng có đền Ujigami. Ujigami vốn là vị thần dòng họ và đền
Ujigami vốn là đền của 1 dòng họ riêng vì ngày xưa ở Nhật Bản, những người thuộc 1 họ
sống tập trung ở 1 khu vực. Xã hội Nhật Bản đã thay đổi nhiều và ít có trường hợp những
người cùng dòng họ sống tập trung. Trong bối cảnh đó, Ujigami biến thành vị thần của từng
xã, khu vực. Nếu trong một khu vực nào đó có người dân tộc Nhật sinh sống thì đền Ujigami
đương nhiên coi họ là tín đồ của đền này. Chính vì vậy, số lượng tín đồ Thần đạo tương
đương với dân số Nhật Bản.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
17
Giống như các dòng họ khác, Hoàng gia cũng có vị thần riêng. Đó là Amaterasu-o-mi-kami –
thần Mặt trời. Trong thần đạo, vị thần của Hoàng gia được coi là vị thần của dân tộc Nhật
Bản. Thần đạo có nhiều vị thần quan trọng khác như Ameno-minakanushino-kami là vị thần
xuất hiện đầu tiên trên thế giới, Izanagi-no-mikoto và Izanami-no-mikoto là hai vợ chồng vị
thần sinh ra đất đai Nhật Bản. Thần đạo có đặc điểm coi cái gì đáng kính sợ, thần bí đều là
thần, nên có các vị thần liên quan đến thiên nhiên như thần gió, thần sấm. Gió thổi là do vị
thần gió sử dụng bao gió, sấm động là do vị thần sấm đánh trống, v,v… Núi Phú sĩ và các núi
cao khác cũng được coi là thần. Có một số trường hợp, những người có cống hiến lớn, sau
khi qua đời trở thành thần
- Phật giáo.
Tuy vậy ở Nhật ngày nay đạo phật chiếm ưu thế hơn so với các đạo khác, với khoảng 92
triệu tín đồ, mặc dù trên thực tế thì các tín đồ này cũng không tuân theo các qui định của đạo
phật một cách nghiêm ngặt.
Phật giáo được chính thức chấp nhận sau chiến thắng về chính trị và quân sự của dòng họ
Soga trước dòng họ Mononobe. Dưới thời trị vì của Thiên hoàng Suiko, nhiếp chính
Shotoku-taishi cho xây dựng nhiều chùa chiền, trong đó có chùa Horyu-ji và Shitenno-ji.

Chùa Horyu-ji là kiến trúc gỗ cổ nhất trên thế giới còn lại đến đời nay. Trong thời Nara (thế
kỷ 8), Phật giáo bắt đầu phát triển mạnh mẽ và nhiều đền chùa được dựng lên nhờ sự ủng hộ
của Nhật Hoàng. Nhật Hoàng Shomu (701-756) lên ngôi vua năm 724 quy định lấy Phật giáo
là “tôn giáo nhà nước” và xây dựng chùa Todai-ji, trong đó có đặt tượng Đại Phật Nara cao
15m, đồng thời xây dựng các chùa Kokubun-ji và Kokubunni-ji tại từng xứ trên toàn quốc.
Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng, trong khi đó Hoàng gia vẫn cúng vị thần tổ tiên, tức vẫn
theo Thần đạo. Vì vậy hầu hết các đền Thần đạo có chùa phụ thuộc còn các chùa Phật giáo
lớn cũng có đền phụ thuộc.
Ở Nhật Bản hiện có 13 tông phái Phật giáo chính. 6 phái được đưa từ Trung Quốc sang
Nhật vào thời Nara, trong đó phải kể đến 3 phái là Kegon (Hoa Nghiêm), Hosso (Pháp
Tương) và Ritsu (Luật). Trong thời Heian, lần đầu tiên có 2 phái Phật giáo do các nhà sư
Nhật Bản thành lập là phái Tendai (Thiên Đài) và phái Shingon (Chân Ngôn).
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
18
Từ cuối thời Heian đến thời Kamakura có thêm 7 tông phái nữa là phái Yuzu-nenbutsu,
phái Jodo, phái Jodo-shin, phái Ji, phái Nichiren, cùng 2 phái thiền lớn của Nhật Bản Rinzai
và Soto. Vào đầu thời Edo, xuất hiện 1 phái thiền khác là phái O-baku, được đưa từ Trung
Quốc vào Nhật Bản.
Khi Phật giáo được đưa sang Nhật từ Triều Tiên và Trung Quốc, tại Nhật Bản đã có Thần
đạo nên các nhà sư gặp nhiều khó khăn trong quá trình truyền đạo. Để 2 tôn giáo Thần đạo
và Phật giáo cùng tồn tại, các nhà sư xây dựng hệ thống tư tưởng “thần phật tập hợp”. Theo
tư tưởng này, các vị thần của Thần đạo là hóa thân của các đức phật trong Phật giáo. Ví dụ,
vị thần Amaterasu-o-mikami (vị thần chính của thần đạo) là hóa thân của Đức Phật Như Lai
mà tên tiếng Nhật là Birushana-butsu hoặc Dai-nichi Nyo-rai (Bì Lô Già Na Phật hoặc Đại
Nhật Như Lai). Tư tưởng này tiếp tục đến cuối thời Edo, trước khi chính phủ Minh Trị quy
định Thần đạo là tôn giáo nhà nước và đàn áp Phật giáo. Nhưng sau đó, chính phủ Minh Trị
cho phép Phật giáo cùng tiếp tục tồn tại vì trong khoảng 1200 năm, Phật giáo đã đóng vai trò
rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và không thể nào xóa bỏ được ảnh hưởng của Phật

giáo.
Nói riêng về Phật giáo Nhật Bản, Thiền tông (hay Zen) là một tông phái khá đặc biệt.
Việc đưa thiền vào Nhật Bản là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử tôn
giáo của Nhật Bản. Thiền được nuôi dưỡng trong những nền văn hóa vĩ đại của châu Á là
Trung Quốc và Ấn Độ, đạt tới đỉnh cao ở Nhật Bản để rồi lan sang các nước phương Tây.
Khi kỹ thuật đe dọa thống trị thế giới, thiền thức tỉnh nhiều người về những giá trị tinh thần
cần thiết cho cuộc sống của con người.
Thiền tông, với giáo lý chủ yếu là tham thiền nhập định để chứng ngộ Phật tính, vốn do
nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma khởi xướng. Khi Bồ Đề Đạt Ma 60 tuổi, ngài sang Trung Quốc
để truyền bá thiền nhưng vua chúa Trung Quốc bấy giờ không hiểu được nên ngài tới chùa
Thiếu Lâm và dạy thiền cho các nhà sư tại chùa đó. Hai phái thiền của NB, tức phái Rinzai
(Lâm Tể) và phái Soto (Tào Đỗng), cũng là do nhà sư Trung Quốc sáng lập ra trong thời
Đường, rồi đầu thế kỷ 13 du nhập vào Nhật Bản.
- Thiên chúa giáo.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
19
So với Thần đạo và Phật giáo, lịch sử của Thiên chúa giáo Nhật Bản tương đối trẻ. Năm
1549, nhà truyền giáo Francisco de Xavier, người Tây Ban Nha sang Nhật và lần đầu tiên
giới thiệu tôn giáo này. Thời đó, cả triều đình và chính quyền Muromachi đều không có sức
chi phối toàn quốc nữa, các sứ quân daimyo chia đất nước Nhật Bản thành nhiều khu vực và
cai trị khu vực của mình. Những người truyền giáo Thiên chúa giáo thời đó không chỉ giới
thiệu Thiên chúa giáo mà còn mang đến nhiều máy móc, kỹ thuật, ấn phẩm tiên tiến của
phương Tây cũng như những điều mới lạ của các nước đông nam, tây nam Á. Vì vậy có một
số sứ quân daimyo cho phép nhà truyền giáo hoạt động tại khu vực của mình để tranh thủ học
hỏi kỹ thuật tiên tiến, giao dịch buôn bán, v,v…
Nhưng sau khi thống nhất đất nước, sứ quân Toyotomi Hideyoshi đã cấm các nhà truyền
giáo Thiên chúa giáo hoạt động trên lãnh thổ Nhật Bản vào năm 1587, khi đã có khoảng 150
nghìn người theo. Chính quyền Tokugawa sau đó cũng tiếp tục đẩy mạnh chính sách này,

nghiêm cấm người Nhật theo Thiên chúa giáo. Năm 1637, tại vùng Shimabara-Amakusa
(tỉnh Nagasaki hiện nay) cuộc chiến Shimabara bùng nổ, 37.000 tín đồ Thiên chúa giáo trong
khu vực này chiếm thành lũy, giao chiến với quân đội chính quyền. Sau đó, chính quyền tăng
cường đàn áp tín đồ Thiên chúa giáo tới mức những người theo đạo này phải che giấïu tín
ngưỡng của mình. Sau Minh Trị Duy Tân, chính sách cấm Thiên chúa giáo được hủy bỏ.
Nhiều nhà truyền giáo, hầu hết từ Mỹ, đã tới Nhật Bản để phổ biến Thiên chúa giáo và đặt cơ
sở tại Nhật Bản.
Từ sau Minh Trị Duy Tân đến khi kết thức Thế chiến 2, vai trò của Thần đạo tăng lên.
Trong thời kỳ đó, Thần đạo được coi là tôn giáo nhà nước vì Minh Trị Duy Tân có quan
điểm lật đổ chính quyền võ sĩ để tái lập chính quyền của Nhật Hoàng, và như đã nói ở trên, vị
thần tối cao của Thần đạo là vị thần tổ tiên của Hoàng gia. Tư tưởng này được sử dụng để
tăng cường chi phối dân chúng dưới sự chỉ đạo của Nhật Hoàng. Nhưng, sau Thế chiến 2,
chính sách “Thần đạo là tôn giáo của nhà nước” được bãi bỏ và Hiến pháp Nhật Bản hiện nay
đảm bảo tự do tín ngưỡng
Ngoài ra, người Nhật cũng coi trọng đạo Khổng, nhưng trên thực tế thì đạo khổng đối với
người Nhật có tư cách như chuẩn mực đạo đức hơn là một tôn giáo.Đạo khổng du nhập vào
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
20
Nhật từ đầu thế kỷ thứ 6, có ảnh hưởng lớn tợ nếp suy nghĩ và cách xử sự của người Nhật,
sau này ảnh hưởng của đạo này cũng suy yếu đi nhiều.
2.4 Ẩm thực
So với những nước khác, cách nấu nướng của người Nhật hầu như không sử dụng đến gia
vị. Thay vào đó, người ta tập trung vào các hương vị tinh khiết của các thành phần món ăn: cá,
rong biển, rau, gạo và đậu nành. Với ít đất đai, các loại gia cầm ở đây hạn chế nhưng Nhật Bản
lại nổi tiếng với món thịt bò Kobe. Cá thường được chế biến thành các món gọi là ashimi hoặc là
sushi.
Một bữa ăn ở Nhật chưa thể gọi là bữa ăn nếu như chưa có đủ ba mặt: việc trình bày món ăn, bao
gồm cả việc trang trí và hình thức bên ngoài, việc chọn đĩa hay các loại dụng cụ thức ăn, và

hương vị của chính món ăn đó. Một bữa tối của người Nhật là sự thưởng thức hài hòa cả ba mặt
đó.
Bữa ăn của người Nhật được bài trí rất đẹp mắt, nhưng cũng đơn giản và khiêm tốn. Bữa
tối là bữa ăn chính, bắt đầu bằng món khai vị và một ly nhỏ rượu sake, một loại rượu gạo lên
men thường uống nóng. Bữa ăn được bày trên một bàn thấp, và người ta ngồi trên những chiếc
gối kê trên nền nhà được trải tatami.
Bữa ăn thường gồm món hầm, món rau trộn, món chiên, món hấp hoặc món nướng, ăn
với cơm hoặc cháo. Những món ăn thường được chuẩn bị một cách đơn giản, nhưng hương vị và
bản chất món ăn tạo một sự thanh nhã và phong phú đặc trưng kiều Nhật. Các món ăn được dọn
ra cùng một lúc và ai muốn ăn món nào thì gắp món đó.
Mì là món ăn trưa điển hình. Các quán mì ở khắp mọi nơi trên đất Nhật. Thường thì loại
mì làm bằng lúa mì được ăn dưới dạng mì nước, trong khi đó loại mì làm bằng kiều mạch thường
ăn trộn với rau theo kiểu gỏi.
Rau thường ít khi ăn sống mà thường muối dưa hoặc hầm hoặc xào kỹ, như trong món
tempura (món sốt cá, cua, tôm). Những loại rau củ mọc tốt ở Nhật, do đó cà rốt, củ ngưu bàng,
củ cải thường được sử dụng. Cùng với những loại củ này, dưa leo đóng vai trò quan trọng trong
việc trang trí, thường được cắt thành hình quạt, hình cánh hoa hay những dạng vui mắt khác. Một
dạng đẹp mắt gây ấn tượng nhất là “lưới đánh cá” được làm từ một miếng củ cải trắng, thường
thấy trong sushi.
Không giống như những nước khác, Nhật Bản rất ít tập trung vào sự đa dạng theo địa
phương. Có lẽ vì ít có sự khác biệt về địa lý trong ẩm thực của người Nhật. Tuy có những vùng
có món đặc biệt riêng của nó, nhưng nhìn chung người Nhật vẫn có một lối ăn chung cho cả
nước.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
21
Người Nhật cũng có các thức ăn theo mùa. Chẳng hạn như vào mùa đông, các loại quít
tượng trưng cho mặt trời và được người ta dùng làm quà năm mới. Mùa xuân có gạo anh đào.
Tháng 9 là tháng của mặt trăng, và những món hầm trắng được ưa chuộng – bào ngư, dưa leo và

măng.
Một số món ăn
Sashimi: cá sống xắt lát mỏng và chấm nước tương hay
wasabi (tương của một loại cây ngải ngựa).
Sushi: cá sống được xếp trên cơm trộn giấm. Món này
cũng ăn chung với wasabi và nước tương. Gừng muối chua
được dùng làm món tráng miệng.
Rượu Sake đóng một vai trò quan trọng trong đời sống
và văn hóa Nhật Bản suốt hai ngàn năm qua. Ngày nay, khoảng
2.000 lò rượu lớn nhỏ sản xuất khoảng 10.000 chủng loại Sake
khác nhau, với mục đích giới thiệu cho người nước ngoài
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
22
những đặc trưng và sự đa dạng của loại rượu quốc hồn quốc túy này. Lịch sử phát triển của Sake
gắn chặt với các mặt của đời sống Nhật Bản đến độ nếu người ta hiểu về rượu Sake sẽ hiểu rõ
hơn về lịch sử, văn hóa, xã hội và môi trường vật lý của Nhật Bản.
Nguyên liệu Làm rượu.
Rượu Sake được làm từ gạo và nước, dưới sự tác động của một loại vi khuẩn gọi là koji và men
rượu Sake.
Cụ thể gạo để làm rượu phải được xây xát kỹ. Nhật có hai loại gạo, loại gạo thường, dùng để nấu
ăn, và loại gạo Sakamai dùng để nấu rượu Sake. Tất nhiên là loại gạo thường vẫn có thể dùng để
làm rượu, nhưng chất lượng không bằng loại gạo Sakamai. Gạo Sakamai có hạt lớn hơn và mềm
hơn, và chỉ được trồng ở một số vùng nhất định, với kỹ thuật canh tác phức tạp hơn.
Nước cũng đóng vai trò quan trọng trong công việc làm rượu Sake. Loại nước nửa cứng là phù
hợp nhất vì hàm lượng thấp của chất sắc và chất ma nhê.
Lịch sử rượu Sake : Người Nhật bắt đầu làm rượu Sake vào khoảng thời gian sau khi
người ta bắt đầu trồng lúa nước vào thế kỷ 3 trước Công nguyên. Tài liệu đầu tiên viết về việc
uống rượu Sake là vào khoảng năm 300 sau Công nguyên. Trong thời cổ Nhật Bản, việc sản xuất

Sake có liên quan mật thiết tới cung đình và những đền thờ. Đó là lý do tại sao Sake thường kết
hợp với những nghi thức và lễ hội tôn giáo. Ngay cả ngày nay, Sake vẫn được sử dụng trong các
nghi thức truyền thống tại Nhật. Sake đối với người Nhật còn hơn là một thứ thức uống. Ngay từ
thời cổ, Sake đã được trân trọng cao độ. Những món đồ sứ được trang trí đầy tính nghệ thuật
hoặc những món đồ bằng gỗ dùng để uống rượu đã cho thấy giá trị mà người Nhật đặt lên loại
thức uống này.
Uống rượu Sake. Rượu Sake có thể uống nóng hoặc uống lạnh. Người ta cũng có thể uống rượu
Sake một cách tuyệt hảo với nhiệt độ trong phòng. Hương và vị của rượu sẽ thay đổi tùy theo
nhiệt độ. Người ta có thể chọn nhiệt độ cho rượu tùy thuộc vào mùa hoặc thức nhắm. So với bia
hoặc rượu vang, Sake được uống ở một dải nhiệt độ rộng hơn nhiều, từ 5 •C đến 55 •C. Không
nên hâm nóng lên quá 60 •C và cũng không nên nấu sôi. Nhiệt độ cũng tùy thuộc vào loại rượu
Sake đang uống. Chẳng hạn như loại rượu có mùi thơm và nhẹ, êm nên uống lạnh.
Về dụng cụ để uống, rượu Sake có thể được uống bằng bất kỳ loại nào. Người ta có thể uống
Sake bằng tách, bằng ly, hoặc bằng những loại khác nhau, bất kể hình dáng và chất liệu. Nhiều
người Nhật thích uống Sake bằng tách sứ hoặc tách gỗ.
Sake cũng có thể hòa chung với cốc tai trái cây để uống. Người ta vẫn thường thưởng thức một
ly cốc tai có Sake. Ngoài ra, Sake cũng có thể hòa chung với các loại rượu mùi khác để có một
thứ hương vị tổng hợp, đa dạng.
2.4 Giá trị và thái độ.
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
23
Với phương châm “mở cửa” để học tập văn minh tiên tiến phương Tây nhằm chấn hưng
đất nước, đồng thời giữ vững cốt cách tinh thần văn hóa dân tộc, Nhật Bản là nước châu á
duy nhất, sớm nhất thực hiện thành công cách mạng công nghiệp, hiện đại hóa đất nước để
sánh cùng các cường quốc phương Tây, làm cho mọi quốc gia khâm phục, nể trọng. Nước
Nhật chỉ mất hơn 20 năm để trở thành quốc gia có nền công nghiệp phát triển trong khi nước
Anh phải mất hơn 100 năm. khi nói đến bản thân văn hoá truyền thống Nhật Bản còn có
những đặc điểm cơ bản sau:

Ngay từ thời cổ xưa, Nhật Bản đã từng nhìn vào Trung Hoa như một tấm gương, Nhật
Bản cử những sứ bộ hào hứng sang các triều Đường, Tống, Nguyên, Minh… giao lưu, có
người còn ở lại làm quan cho triều đình Trung Hoa. Trong những chừng mực nào đó, Nhật đã
cố gắng du nhập và mô phỏng văn hoá Trung Hoa, cải tiến cho phù hợp ở Nhật, ví dụ cải tiến
chữ Hán, tham khảo các điển tích Trung Hoa trong sáng tác văn học; nhấn mạnh tính chất
Thiền “Zen” của đạo Phật, chấp nhận một số giáo lý của đạo Khổng. Về điểm này có thể rút
ra rằng: Nhật Bản học hỏi để làm ra cái riêng của Nhật là “Giản lược và quyết liệt”- tính chất
đó được thể hiện rõ từ những nét bút Nho, những bức tranh, cốt truyện hay đường kiếm của
họ.
Trong lịch sử, Nhật Bản chưa từng bị nước ngoài đô hộ. Khi quân Nguyên Mông hùng hổ
tấn công 2 lần thì đều bị bão biển nhấn chìm tàu thuyền gần hết, một lần bỏ dở cuộc chinh
phạt, lần sau một số tàu thuyền bị bão đắm, số quân tướng tràn lên bờ đều bị các samurai
thiện chiến của Nhật tiêu diệt hoàn toàn. Đến khoảng những năm 50 của thế kỉ XIX, khi các
nước phương Tây bắt đầu xâm lấn châu á, thì hầu hết các quốc gia vùng này từ Trung Quốc
to lớn đến các nước nhỏ khác đã trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa của các nước thực
dân, đế quốc. Nhung xứ sở Hoa anh đào lại thoát khỏi nạn kiếp bị đô hộ nhờ vị trí khu biệt về
địa lí, xa lạ về văn hóa và nhờ các tư tưởng canh tân, học hỏi du nhập điều hay của ngoại
bang kể cả của những kẻ đối địch với mình.
Trên thực tế, sau khi tiến hành cách mạng Minh Trị ít lâu, người nước ngoài đến Nhật rất
đông, người Nhật bắt đầu học cách mặc đồ Âu mạnh mẽ, ăn bánh mì bơ, phó mát, dùng dao
nĩa. Có lúc tưởng chừng một số nhân tố văn hoá nước ngoài lấn át được phần nào văn hóa
bản xứ. Tới khi cao trào đó lắng dịu xuống, văn hóa truyền thống Nhật Bản lại trỗi dậy và
xảy ra quá trình "Nhật Bản hoá" những gì được du nhập, thâu nhận, trao đổi và học hỏi được
từ phương Tây. Chính vì vậy, việc du nhập, tiếp biến yếu tố văn hóa ngoại lai đã không phá
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
24
hỏng, làm lai căng nền văn hóa bản xứ hay chia cắt văn hóa xứ sở này, trái lại còn giúp Nhật
Bản tạo dựng được những hình mẫu văn hóa đặc sắc của mình. Với tư cách là một quốc gia

dân tộc, Nhật Bản đã duy trì được nền văn hoá thuần nhất, riêng biệt, đặc sắc của mình từ
thời tiền sử đến tận thời hiện đại và điều này làm nên sức mạnh của Nhật Bản, tạo nên một vị
thế hiếm có của Nhật trên thế giới trong thời gian qua.
2.5 Thói quen và cách cư xử.
Nhật Bản là một xã hội theo đẳng cấp dọc, vì thế người Nhật không có quan niệm về
sự “bình đẳng” giống như các nước khác. Các mối quan hệ ở Nhật theo khuynh hướng
người trên và kẻ dưới, người chủ hoặc sếp trong công ty được ví như cha mẹ và nhân
viên được xem như con cái trong gia đình.
2.5.1 Danh thiếp : phải được trao và nhận bằng hai tay. Danh thiếp cung cấp những
thông tin này, nên bạn phải trao danh thiếp của mình ngay khi chào hỏi lần đầu tiên. Người Nhật
luôn trông đợi tấm danh thiếp của mình được người khác xem và ngắm nghía ngay khi nhận.
Trong suốt cuộc gặp gỡ, danh thiếp nên được để trên bàn. Sau khi gặp xong phải được trân trọng
cho vào ví và không bao giờ được nhét trong túi quần sau.
2.5.2 Sự hòa thuận :
Trong giao tiếp, người Nhật không muốn có sự đối đầu, họ tin tưởng vào sự thỏa hiệp
và hòa giải. Họ tin tưởng tuyệt đối vào quyết định của tập thể, ưu tiên cho những quyết
định có kết quả. Họ sẽ nói ra cảm xúc thật sự của họ bởi vì muốn duy trì sự hòa thuận.
Tính bằng hữu trong kinh doanh thì quan trọng hơn cả tính logic, người Nhật cũng
thường trò chuyện xã giao để thiết lập quan hệ với bạn trước khi bàn bạc công chuyện
kinh doanh. Hãy quan sát các đối tác này để quyết định thời điểm bắt đầu thảo luận công
việc. Nếu đại diện nhóm nói chuyện thì những người còn lại nên ghi chú những điều cần
thiết để bàn bạc thêm với nhóm sau đó, vì người Nhật thường thể hiện mình khá phức
tạp, khó hiểu.
Lời nói “Vâng” (Yes) của họ có thể có nghĩa là “không” nếu đi kèm với những cụm
từ như We will think about it (Chúng tôi sẽ suy nghĩ về điều đó), We will see (Chúng tôi
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.
GVHD:Th.S.Quách Thị Bửu Châu
25
sẽ xem lại) hoặc Perhaps (Có lẽ). Bạn có thể mất ba lần gặp gỡ và có khi một năm để mối

quan hệ kinh doanh với họ được trở thành chính thức.
2.5.3 Nghệ thuật chiêu đãi khách:
Ăn uống là thông lệ chung của các doanh nhân, sự tương tác của hai phía trong bữa
tiệc còn quan trọng hơn cả thức ăn. Không nên mang vợ đến những buổi tiệc này, chủ
tiệc người Nhật thường là đàn ông và họ không bao giờ mang phu nhân theo họ. Người
Nhật vẫn còn trọng nam hơn nữ, nên chúng ta rất ít gặp những đối tác kinh doanh là nữ.
Các buổi tiệc chiêu đãi thường vào buổi tối và có rất nhiều thức ăn và rượu uống thoải
mái, và đây là lúc họ nói lên cảm xúc thật của mình. Việc đổ nước tương trực tiếp lên
cơm bị xem là bất thường.
Người ta ít khi tự rót rượu cho mình trong các cuộc giao tế. Thông thường, một người
sẽ rót rượu cho người đi cùng và ngược lại người bạn sẽ rót rượu cho người đó. Tuy
nhiên nếu một trong hai người đang uống rượu từ trong chai và người kia chỉ uống từ ly
thì bạn có thể tự rót rượu, nếu không sẽ phải chờ rất lâu.
2.5.4 Cương vị lãnh đạo và cấp bậc xã hội:
Người Nhật đánh giá cao sự đồng tâm hiệp lực, lãnh đạo là người ra quyết định sau
cùng sau khi đã lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Quyết định của lãnh đạo là đại diện của
sự đồng tâm hiệp lực của tất cả mọi người. Giá trị của mỗi công ty là sự hòa thuận và
tuân theo của từng thành viên và quyết định sau cùng phải được mọi người nghiêm túc
chấp hành.
Không tranh cãi: người Nhật không quen với việc tranh luận bởi vì họ không tách
mình ra khỏi tập thể. Tỏ thái độ bất đồng được xem là thô thiển, họ thích nói nhẹ nhàng
lịch sự.
2.5.5 Các cuộc gặp gỡ trong kinh doanh:
Làm quen: giai đoạn làm quen trong kinh doanh bắt đầu trong những lần gặp gỡ đầu
tiên, giai đoạn này không được quá hấp tấp. Chỗ ngồi với người Nhật phải theo cấp bậc
và có thể trao đổi những vấn đề chung như thời tiết, gia đình, du lịch… Nên giới thiệu
Phân tích ảnh hưởng của môi trường văn hóa Trung Quốc và Nhât Bản đến hoạt động kinh doanh
quốc tế.

×