Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Lịch sử điện ảnh Nhật Bản pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.73 KB, 9 trang )

Lịch sử điện ảnh Nhật Bản



Lịch sử điện ảnh Nhật Bản bắt đầu cùng lúc với sự ra đời của máy chiếu phim
Kinetoscope do nhà bác học Mỹ Thomas Edison sáng chế năm 1886. Hơn 10 năm sau,
hai anh em nhà Lumiere đến Nhật và thực hiện nhiều bộ phim mô tả cảnh đẹp của
nước Nhật. Tuy nhiên, các đoạn phim không được bảo quản tốt nên đã mai một dần.


Đề tài geisha

Theo các sử gia điện ảnh thì bộ phim đầu tiên do chính người Nhật thực hiện ra đời
vào năm 1897. Nội dung phim xoay quanh các cô gái geisha nhảy múa, lồng trong
cảnh đường phố Tokyo đông đúc. Loại phim geisha với các điệu nhảy điêu luyện hầu
như luôn hiện diện trên phim ảnh Nhật vào thời kỳ đầu phôi thai. Năm 1898, hai bộ
phim truyện đầu tiên của Nhật đến với khán giả cùng lúc: Đó là bộ phim bi nói về việc
bắt giữ một tên cướp nổi tiếng và bộ phim hài nói về một kẻ diễn trò khỉ trên bụng
người đàn ông đang ngủ tại ghế đá công viên. Cả hai bộ phim đều do một nhà quay
phim kiêm đạo diễn thực hiện. Cùng năm đó, bộ phim tài liệu Game Of Autumn
Leaves nói về hai diễn viên kịch Kabuchi nổi tiếng ra đời. Bộ phim ngắn này vẫn còn
lưu trữ tại Viện phim Nhật, còn các bộ phim trước nó đã biến mất.

Thời Nga-Nhật chiến tranh (1904-1905) nhiều nhà quay phim nước ngoài đến Nhật để
ghi lại biến cố này. Công chúng Nhật rất thích xem phim chiến tranh vào thời điểm đó
vì Nhật là nước thắng trận. Các rạp chiếu phim thi nhau xây dựng để đáp ứng yêu cầu
này, mở đầu cho giai đoạn sản xuất phim hàng loạt. Rủi thay, chỉ có vài bộ phim của
“thời kỳ bùng nổ” được giữ lại còn phần lớn đã bị thời gian phá hủy.

Đạo diễn đầu tiên


Makino Shojo là một trong các đạo diễn và nhà sản xuất phim đầu tiên của Nhật Bản.
Ông đã đạo diễn và sản xuất hơn 300 phim từ 1909 đến 1928. Xuất thân từ chủ nhân
một nhà hát kịch ở Tokyo, Shojo làm phim theo đề nghị của công ty Yocota chuyên
nhập phim nước ngoài về chiếu ở Nhật. Khi đoàn kịch Kabuchi Onoe Matsunosuke
biểu diễn thường xuyên tại nhà hát của mình, ông mời đoàn kịch đến diễn tại ngôi đền
gần đó và ghi lại cảnh buổi diễn. Sau đó là một số đoàn kịch khác, và chỉ một thời
gian Shojo nổi lên như nhà sản xuất phim hàng đầu Nhật Bản. Những diễn viên kịch
cũng là nhân vật điện ảnh đầu tiên. Họ được khán giả hâm mộ. Mối quan hệ tốt đẹp
giữa Shojo và các đoàn kịch kéo dài đến năm 1921.

Năm 1911, Công ty Yokoda xuất bản một danh mục các bộ phim do họ phát hành.
Danh mục cho thấy đa số các phim Nhật trước cột mốc 1911 chỉ dài tối đa 200 feet
phim. Duy nhất có một phim Shojo quay đoàn kịch Onoe Matsunosuke là dài 7.170m,
bằng độ dài một bộ phim truyện. Bộ phim có tên Matsunosuke Chushingura nhưng
không ghi tên đạo diễn và ngày sản xuất. Các sử gia điện ảnh ước tính nó được phát
hành vào năm 1910 vì bộ phim đầu tiên có đoàn kịch Onoe tham gia là Go Tadanomu
(1909). Ngoài ra, Onoe chỉ cộng tác với mỗi mình Shojo nên nó cũng phải do Shojo
đạo diễn. Hiện bộ phim được lưu giữ tại công ty phim Matsuda với bổ sung phần nhạc
nền dân tộc Nhật Bản mà bản gốc không có và được xem là bộ phim dài xưa nhất còn
lưu giữ được. Bộ phim có 42 cảnh nhưng đã mất các cảnh 14, 17, 19 và 20.

Nữ diễn viên đầu tiên :Tokuko.

Quay sang lĩnh vực diễn xuất, nữ diễn viên đầu tiên của điện ảnh Nhật Bản là Tokuko
Nagai Tagaki (1891 - 1919). Bà chỉ đóng khoảng 4 bộ phim truyện ngắn chiếu ở Mỹ
và Anh từ 1911 - 1912. Chính bà đã du nhập môn múa ballet vào Nhật Bản và được
tôn vinh là “Nữ hoàng múa ballet”. Chồng bà là Chunper Takagi, người Nhật, đến
California (Mỹ) kiếm sống năm 24 tuổl, trở về Nhật sau vụ đại hoả hoạn ở San
Francisco và cưới Tokuko khi bà mới 15 tuổi. Kết hôn chưa đầy một năm, họ đến
sống tại Seattle rồi New York, Ohio, Boston nhưng công việc kinh doanh của Takagi

gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Năm 1909, ông quay qua nghề ảo thuật và 2 vợ
chồng đi lưu diễn từ Canada đến New England trước khi Tokuko học múa ballet tại
New York dưới sự bảo trợ của một phụ nữ Nhật. Không lâu sau, bà ký hợp đồng với
hãng Thanhouser ở New Rochette, New York và có mặt trong các bộ phim như The
East anh The West (1911), For The Mikado (1912).

Là con gái của một chuyên viên Bộ Tài chính Nhật, Tokuko làm việc tại Ngân hàng
Nhật Bản sau khi tốt nghiệp tiểu học như tạp dịch viên cho đến lúc lấy chồng. Năm
1919 bà qua đời vì xuất huyết não sau một cơn rối loạn tâm thần khi đang lưu diễn với
chồng, đúng vào thời điểm sự nghiệp điện ảnh của bà đang bước vào giai đoạn chín
muồi. Năm 1995, nhà phê bình điện ảnh Nagisa Oshima xuất bản cuốn sách 100 năm
điện ảnh Nhật Bản trong đó có nhắc đến công lao của Shojo và Tokuko. Theo Oshima
thì sau khi bộ phim Rashomon đoạt giải thưởng tại LHP Venice. Điện ảnh Nhật Bản
đã bước sang ''Kỷ nguyên vàng thứ 2'' mà đại diện cho thời kỳ này là các bộ phim
Seven Samurai, Gate Of Hell, Ugetsu, Tokyo Story. Còn ''Kỷ nguyên vàng thứ 3” của
điện ảnh Nhật Bản được đánh dấu bằng sự thống trị của các bộ phim hoạt hình mà nổi
bật nhất hiện nay là Steamboy và Innocence. Ở lĩnh vực phim truyện điện ảnh, Nhật
Bản đang bị Hàn Quốc lấn lướt.
Lịch sử Điện ảnh Nhật Bản





Nguồn: wikipedia.org






Điện ảnh Nhật Bản (tiếng Nhật: 映画 - Eiga) là nền nghệ thuật và công nghiệp
điện ảnh của Nhật Bản. Trong suốt hơn 100 năm qua kể từ ngày ra đời
(20/6/1899), điện ảnh Nhật Bản đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng
vẫn luôn có những tác phẩm đặc sắc và những thế mạnh riêng ảnh hưởng lớn
đến điện ảnh thế giới.


Trước năm 1945




Phim "Naniwa erejii" (1936)



Hai bộ phim đầu tiên được làm tại Nhật Bản là Bake Jizo và Shinin no sosei, đều được
thực hiện năm 1898. Bộ phim tài liệu đầu tiên, Geisha no teodori (芸者の手踊り)
được làm tháng 6 năm 1899.

Điểm khác biệt của các bộ phim câm Nhật Bản so với các nền điện ảnh khác là bên
cạnh đội ngũ tạo âm thanh và nhạc phim tại rạp chiếu, còn có sự xuất hiện của các
benshi (弁士), những người dẫn chuyện có nhiệm vụ đọc lời thoại và các đoạn tường
thuật cần thiết. Ngôi sao điện ảnh Nhật Bản đầu tiên là một diễn viên kịch kabuki tên
là Onoe Matsunosuke, ông này đã tham gia đóng hơn 1000 bộ phim (chủ yếu là phim
ngắn) trong khoảng thời gian từ 1909 đến 1926. Onoe và đạo diễn Makino Shozo là
những người có công phổ biến thể loại jidaigeki (những bộ phim lịch sử lấy bối cảnh
Nhật Bản thời Edo) với công chúng Nhật. Nữ diễn viên điện ảnh chuyên nghiệp đầu
tiên của công nghiệp điện ảnh nước này là Takagi Tokuko Nagai, bà đã xuất hiện
trong 4 bộ phim của hãng phim do Hoa Kỳ đầu tư Thanhouser Company thực hiện

từ năm 1911 đến năm 1914. Trong giai đoạn này, có một số bộ phim câm đáng chú ý
được sản xuất, đặc biệt là những tác phẩm của đạo diễn Mizoguchi Kenji, tuy vậy đa
số đã bị phá hủy trong Trận động đất Kantō năm 1923 và sau đó là trong những cuộc
không kích suốt Thế chiến thứ hai của quân đội Đồng Minh xuống Nhật Bản.

Trong thập niên 1930, trong khi các bộ phim câm tiếp tục được sản xuất với số lượng
lớn thì các bộ phim có tiếng cũng bắt đầu xuất hiện. Các bộ phim có tiếng đáng chú ý
thời kì này là ba tác phẩm của Kenji Mizoguchi, Gion no shimai (1936), Naniwa
erejii (浪華悲歌, 1936) và Zangiku monogatari (残菊物語,, 1939). Ngoài ra còn có
thể kể đến Ninjo kami fusen (人情紙風船, 1937) của đạo diễn Yamanaka Sadao
hay Tsuma Yo Bara No Yoni (1935) của Naruse Mikio, bộ phim Nhật đầu tiên được
phát hành rộng rãi tại Mỹ.

Cuối những năm 1930, sự kiểm soát của chính quyền đối với công nghiệp điện ảnh
càng bị siết chặt, các bộ phim bị kiểm duyệt kĩ lưỡng đặc biệt là các tác phẩm có xu
hướng thiên tả như phim của Daisuke Ito. Và Khi Thế chiến thứ hai nổ ra thì ngành
điện ảnh Nhật Bản lâm vào tình trạng hoạt động cầm chừng. Tuy vậy đây lại là giai
đoạn chứng kiến sự xuất hiện của một trong những nghệ sĩ điện ảnh vĩ đại nhất của
Nhật Bản, đạo diễn huyền thoại Kurosawa Akira, khi ông thực hiện bộ phim đầu
tay, Sanshiro Sugata vào năm 1943.



Thập niên 1950 và 1960




Phim "Yojimbo"(1961)




Thập niên 1950 chứng kiến giai đoạn phát triển đỉnh cao của điện ảnh Nhật Bản với
ba tác phẩm vào hàng kinh điển của điện ảnh thế giới, đó là Rashomon (羅生門,
1950), Seven Samurai (七人の侍,, 1954), cả hai đều do Kurosawa thực hiện, và bộ
phim của đạo diễn Ozu Yasujiro, Tokyo monogatari (東京物語, 1953).
Riêng Rashomon của Kurosawa Akira đã mang về cho Nhật Bản Giải Oscar cho
phim ngoại ngữ hay nhất đầu tiên và đem lại cho ngôi sao điện ảnh lớn của Nhật sau
này là Mifune Toshiro vai diễn đột phá. Trong thập niên này điện ảnh Nhật Bản còn
có hai giải Oscar phim nói tiếng nước ngoài khác, đó làJigokumon (地獄門, 1954)
của đạo diễn Kinugasa Teinosuke và Miyamoto Musashi (宮本 武蔵, 1955) của đạo
diễn Inagaki Hiroshi.

Năm 1954, đạo diễn Honda Ishirō giới thiệu bộ phim khoa học viễn
tưởng Gojira (ゴジラ), một tác phẩm có nội dung chống chiến tranh thông qua câu
chuyện của một con thú biến thành quái vật do vũ khí hạt nhân. Godzilla đã nhanh
chóng phổ biến ở các nước phương Tây và trở thành một biểu tượng quốc tế của Nhật
Bản, nó cũng mở đầu cho dòng phim rất đặc trưng của điện ảnh nước này, dòng
phim kaiju (phim quái vật).

Điện ảnh Nhật Bản tiếp tục có những bộ phim xuất sắc trong thập niên 1960, trong đó
phải kể tới tác phẩm kinh điển Yojimbo (用心棒, 1961) của Kurosawa Akira. Năm
1967 đạo diễn Suzuki Seijun thực hiện bộ phim siêu thực về yakuza (các tổ chức tội
phạm có tổ chức ở Nhật) có tên Koroshi no rakuin (殺しの烙印), tuy không được
đánh giá cao ở thời điểm ra đời nhưng về sau đây được coi là bộ phim hình sự kinh
điển, trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều đạo diễn nổi tiếng như Ngô Vũ Sâm, Park
Chan-wook hay Quentin Tarantino.

Bên cạnh các bộ phim có đề tài quen thuộc, các đạo diễn thuộc thế hệ Làn sóng mới
Nhật Bản như Nagisa Oshima, Kaneto Shindo, Susumu Hani và Shohei Imamura cũng

cho ra đời các bộ phim có tính sáng tạo cao như Seishun Zankoku
Monogatari (青春残酷物語, 1960), Nihon no yoru to kiri (日本の夜と霧, 1960)
hay Koshikei (絞死刑, 1968).

Năm 1964 đạo diễn Teshigahara Hiroshi cho ra đời bộ phim đáng nhớ Suna no
onna (砂の女), tác phẩm này đã giành giải thưởng đặc biệt của ban giám khảo (Prix
du Jury) trong Liên hoan phim Cannes và giúp Teshigahara trở thành người châu Á
đầu tiên được đề cử giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Giải Oscar. Một bộ phim Nhật Bản
khác cũng giành giải thưởng của ban giám khảo trong Liên hoan phim Cannes
là Kaidan (怪談, 1965) của đạo diễn Kobayashi Masaki.



Thập niên 1970 và 1980



Phim hoạt hình "Mộ đom đóm"



Một dòng điện ảnh mới, dòng phim pinku eiga (phim cấp 3 loại nhẹ, vẫn được coi là
phim điện ảnh) bắt đầu phát triển ở Nhật từ đầu thập niên 1970, đặc biệt là sau sự ra
đời của bộ phim gây nhiều tranh cãi Ai no Korīda (愛のコリーダ, 1976), một tác
phẩm nói về vụ án Sada Abe gây tiếng vang trong xã hội Nhật những năm trước chiến
tranh. Bộ phim này tuy là được coi là phim điện ảnh nhưng đã vượt qua giới hạn kiểm
duyệt thông thường khi quay trực tiếp những cảnh quan hệ tình dục thật của hai diễn
viên, kết quả là phim phải thực hiện dưới danh nghĩa do một công ty điện ảnh Pháp
đầu tư và sau khi ra đời nó cũng chưa bao giờ được chiếu bản đầy đủ ở chính Nhật
Bản.


Trong thập niên này, đạo diễn Fukasaku Kinji cũng hoàn thành loạt phim nổi tiếng về
đề tài yakuza, Jingi naki tatakai (仁義なき戦い), loạt phim này đã cực kì thành công
về cả nghệ thuật và thương mại, chúng được coi là những phim tội phạm kinh điển
của điện ảnh Nhật Bản, hay "Bố già" Nhật Bản.

Vốn là đất nước hàng đầu thế giới về nghệ thuật truyện tranh, nhưng phải chờ đến
thập niên 1980 các bộ phim hoạt hình Nhật Bản (anime) mới bắt đầu gây tiếng vang ở
thị trường điện ảnh trong nước và thế giới. Năm 1984, đạo diễn phim hoạt hình nổi
tiếng Miyazaki Hayao thực hiện bộ phim Kaze no Tani no
Naushika (風の谷のナウシカ) năm 1984 mở đầu cho loạt phim hoạt hình nổi tiếng
của ông sau này. Thành công của Naushika được nối tiếp bằng bộ
phimAkira (アキラ, 1988) của Otomo Katsuhiro, tác phẩm này đã đánh dấu bước
tiến vượt bậc của phim hoạt hình Nhật cả về kĩ thuật thực hiện và đề tài khi phản ánh
các vấn đề xã hội và thời sự đáng quan tâm lúc đó, Akira cho đến nay vẫn được coi là
một trong những tác phẩm xuất sắc nhất thể loại phim hoạt hình của điện ảnh thế giới.
Cùng năm này, đạo diễn Takahata Isao cũng cho ra đời bộ phim hoạt hình phản chiến
nổi tiếng Mộ đom đóm (火垂るの墓), Mộ đom đómđược nhiều nhà phê bình phim
nổi tiếng, trong đó có Roger Ebert coi là một trong những bộ phim phản chiến hay
nhất đã từng được thực hiện. Sự phát triển của phim hoạt hình cũng dẫn đến sự phát
triển của các Seiyū, các diễn viên lồng tiếng cho nhân vật hoạt hình, nhiều người trong
số này đã trở nên nổi tiếng hoặc trở thành diễn viên thực sự như Ōtsuka Chikao.

Cũng trong những năm 1980, điện ảnh Nhật Bản đã tiếp tục truyền thống thắng lợi tại
các giải thưởng điện ảnh uy tín với 2 giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes
cho các phim Kagemusha (影武者, 1980) của Kurosawa và Narayama
bushiko (楢山節考, 1983) của Imamura Shohei. Shohei sau này còn giành thêm một
giải Cành cọ vàng khác cho bộ phim Unagi (うなぎ, 1997) và là 1 trong số ít ỏi 4 đạo
diễn từng có 2 phim chiến thắng tại hạng mục quan trọng nhất ở Liên hoan phim
Cannes (cùng Francis Ford Coppola, Alf Sjöberg và Bille August).




Thập niên 1990 đến nay



Phim "Zaitoichi" (2003)




Kitano Takeshi có lẽ là một trong những nghệ sĩ điện ảnh nổi bật nhất thập niên 1990
của công nghiệp điện ảnh Nhật. Ông vừa là đạo diễn sáng tạo, vừa là diễn viên chính
có lối diễn xuất độc đáo trong các bộ phim đáng nhớ như Sono otoko, kyōbō ni
tsuki (その男、凶暴につき, 1989), Sonachine (ソナチネ,, 1993) hay Hana-bi (花-
火, 1997, giành giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venezia). Kitano còn tham gia
đóng vai chính trong bộ phim Batoru Rowaiaru (バトル・ロワイアル, 2000) của
Fukasaku Kinji. Là câu chuyện về một lớp học bị bắt lên đảo hoang và buộc phải tự
tiêu diệt nhau để sinh tồn, bộ phim rất được yêu thích ở Nhật Bản và nhiều nước vì cốt
truyện, nhạc phim và diễn xuất của các nhân vật (trong đó có Kitano), tuy vậy nó cũng
gặp phải nhiều chỉ trích từ những người cho rằng bộ phim mang tính bạo lực quá cao.

Thập niên 1990 và 2000 cũng là giai đoạn thành công nhất của hoạt hình Nhật Bản khi
Miyazaki Hayao liên tục cho ra đời các tác phẩm thành công cả về mặt nghệ thuật và
thương mại, trong đó đáng kể nhất là Công chúa Mononoke (もののけ姫, 1997)
và Sen to Chihiro no Kamikakushi - Spirited Away (千と千尋の神隠し, 2001),
hai bộ phim hoạt hình đầu tiên phá kỉ lục doanh thu tại thị trường điện ảnh Nhật
Bản. Sen to Chihiro cũng là bộ phim hoạt hình đầu tiên giành giải Phim hoạt hình
hay nhất tại Giải Oscar. Bên cạnh Miyazaki còn phải kể tới một loạt đạo diễn anime

thành công khác như Oshii Mamoru với Kōkaku Kidōtai (攻殻機動隊, 1995) hay
Kon Satoshi với Perfect Blue (パーフェクトブルー, 1997), Sennen
Joyū (千年女優,, 2001) và Tōkyō Goddofāzāzu (東京ゴッドファーザーズ, 2003).

Những năm cuối thế kỉ 20 cũn chứng kiến sự bùng nổ của cơn sốt phim kinh dị Nhật
(J-Horror) trên toàn thế giới với những bộ phim nổi tiếng như Ringu (リング,
1998), Ju-on (呪怨, 1998), Kairo (回路, 2001) và Yogen (予言, 2002). Tất cả các bộ
phim này đều đã được Hollywood hoặc điện ảnh Hàn Quốc làm lại, thậm chí đạo diễn
phim kinh dị nổi tiếng Nakata Hideo còn được mời sang Mỹ để đích thân làm lại
phiên bản Hollywood cho bộ phim của ông.

×