Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học 'làm thế nào để cải thiện kỹ năng nói tiếng anh cho sinh viên '

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.11 KB, 6 trang )

LÀM THẾ NÀO ĐỂ CẢI THIỆN
KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN?
HOW TO IMPROVE STUDENTS’ ENGLISH SPEAKING SKILL?


HỒ MINH THU
Trường Đại học Ngoại Ngữ, Đại học Đà Nẵng


TÓM TẮT
Kỹ năng nói tiếng Anh là một trong những kỹ năng ngôn ngữ quan trọng nhất, đặc biệt là
trong môi trường làm việc. Tuy nhiên, kỹ năng nói của sinh viên nói chung và của sinh viên
các khối ngành kinh tế và kỹ thuật nói riêng còn rất hạn chế. Để phần nào khắc phục những
yếu điểm này bài báo sẽ đề cập đến thực trạng của việc học tiếng Anh trong sinh viên đồng
thời đưa ra những đề xuất gợi ý nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
ABSTRACT
English speaking skill is one of the most important language skills, especially in work
environment. However, speaking skill of students in general and of students of economics and
technical engineering in particular is not good enough. In order to overcome this weakness,
the article mentions present situations of learning English and makes suggestions on effective
teaching and learning.


1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, tiếng Anh trở thành một phương tiện thật sự cần
thiết; trong thị trường lao động, một ứng viên với một trình độ chuyên môn vững vàng cộng
với việc sử dụng tiếng Anh lưu loát luôn tạo được ấn tượng tốt đối với nhà tuyển dụng. Kỹ
năng tiếng Anh tốt giúp các ứng viên có được một ưu thế vượt trội hơn so với những người có
cùng trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn là hiện nay kỹ năng giao tiếp
tiếng Anh của sinh viên sau khi ra trường, đặc biệt là kỹ năng nói, còn rất kém, không đáp
ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Thực trạng này cũng đã được đề cập rất nhiều trên các


phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian gần đây. Điều đáng quan tâm là tại sao sinh
viên không đạt được những kỹ năng ngôn ngữ cần thiết mặc dù họ đã được học tiếng Anh từ
rất sớm. Để có thể tìm hiểu được nguyên nhân sâu xa của vấn đề này cần phải có một nghiên
cứu quy mô trên diện rộng. Trong khuôn khổ cho phép của bài báo và với những trăn trở của
người thầy, người viết xin mạnh dạn đề cập đến thực trạng dạy và học tiếng Anh nói chung và
việc rèn luyện kỹ năng nói cho sinh viên nói riêng, đồng thời qua đó đưa ra một số đề xuất
giúp nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.

2. Thực trạng về năng lực tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ
Trường Đại học Bách khoa và Trường Đại học Kinh tế là hai trường có số lượng sinh
viên học tiếng Anh đông nhất so với các trường thành viên khác của Đại học Đà Nẵng. Theo
một số kết quả điều tra gần đây được thực hiện tại hai trường này thì có khoảng 70% sinh viên
đã được học tiếng Anh từ 7 năm trở lên; 26% sinh viên đã học tiếng Anh hệ 3 năm; chỉ có
khoảng 4% sinh viên chưa biết tiếng Anh. Trong số những sinh viên đã biết tiếng Anh, số
sinh viên đã có chứng chỉ tiếng Anh (ở các trình độ A, B, C…) đạt 30 – 40%. Tuy nhiên, các
cuộc khảo sát tiếng Anh đầu năm đối với sinh viên hai trường Đại học Bách khoa và Đại học
Kinh tế hai năm trở lại đây cho thấy một thực trạng là lượng kiến thức sinh viên tích luỹ được
không tương xứng với thời lượng tiếng Anh mà sinh viên đã được học ở phổ thông hay ở các
trung tâm ngoại ngữ. Lỗ hổng kiến thức của sinh viên là tương đối lớn (ngoại trừ một số ít
sinh viên, 32%, có kiến thức tiếng Anh vững vàng), các kỹ năng ngôn ngữ của sinh viên còn
rất hạn chế, đặc biệt là các kỹ năng nghe và nói: khả năng nghe để nắm bắt thông tin của phần
lớn sinh viên là dưới mức trung bình; nhiều sinh viên thậm chí không hiểu cả những khẩu
lệnh đơn giản và thông thường của giáo viên. Đại bộ phận sinh viên (67%) không có thói
quen hoặc không thể giao tiếp với nhau bằng tiếng Anh.
Trong những giờ tiếng Anh, đặc biệt là vào những giờ thực hành nói, rất ít sinh viên
(chỉ khoảng 20-25%) có thể thực hiện các hoạt động theo cặp (pair work), theo nhóm (group
work) một cách nhuần nhuyễn với những ý tưởng sáng tạo. Số còn lại chỉ thực hành một cách
rập khuôn và thường phải có sự hỗ trợ của những bài đối thoại hay những bài viết đã soạn sẵn
(nhìn vào bài soạn sẵn để đọc).
Phần lớn sinh viên (72%) phát âm còn chưa chuẩn, đặc biệt là việc phát âm các âm

cuối chưa được sinh viên coi trọng.

3. Thực trạng về việc học tiếng Anh của sinh viên không chuyên ngữ
Sự thành bại của sinh viên trong học tập phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong
đó ba yếu tố quan trọng nhất là động cơ học tập, thái độ học tập và chiến lược học.
3.1. Động cơ học tập
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm động cơ, theo Harmer (1991), động
cơ là sự nỗ lực nội tại khuyến khích một người theo đuổi một tiến trình hành động. Nếu chúng
ta nhận thấy được một mục tiêu nào đó và nếu mục tiêu đó đủ sức hấp dẫn, chúng ta sẽ có
động cơ thúc đẩy để đạt được mục tiêu đó.
Xét về động cơ học tập của người học, Cole và Chan (1994) đề cập đến hai động cơ
chính: động cơ bên ngoài (extrinsic motivation) và động cơ bên trong (intrinsic motivation).
Động cơ bên ngoài liên quan đến những yếu tố bên ngoài lớp học. Những yếu tố bên ngoài
lớp học chính là sức lôi cuốn, hấp dẫn của nền văn hoá của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó.
Người học mong muốn tìm hiểu nền văn hoá đó và hội nhập vào nền văn hoá đó. Những yếu
tố bên ngoài lớp học còn là nhu cầu sử dụng ngoại ngữ như ngôn ngữ thứ hai để đạt được một
mục tiêu nào đó như xin việc làm, tăng lương, thăng tiến, …
Đối với sinh viên Đại học Đà Nẵng, thường là sinh viên Trường Đại học Bách khoa,
động cơ bên ngoài này chính là cố gắng học thật tốt môn tiếng Anh để có cơ hội đi du học ở
nước ngoài. Trong thực tế giảng dạy tại Đại học Đà Nẵng, người viết nhận thấy một khi đã có
động cơ học tập tốt như vậy, số sinh viên này học trội hơn hẳn so với các bạn cùng lớp. Với
họ, những kiến thức tích luỹ được ở trường dường như là chưa đủ, họ luôn muốn đặt mình
vào những môi trường đầy thử thách hơn nữa. Đây cũng chính là lý do khiến một số rất ít sinh
viên đã tham gia vào các khoá học luyện thi TOEIC, IELTS hay TOEFL và họ đã tự khẳng
định được mình.
Một bộ phận không nhỏ sinh viên (54%) cũng đã từng xác định được mục tiêu học tập
của mình là để có thể tìm được một chỗ làm tốt trong tương lai nhưng do một số yếu tố chủ
quan cũng như khách quan họ đã không đạt được mục tiêu đề ra.
Ngược lại với động cơ bên ngoài, động cơ bên trong liên quan đến những yếu tố bên
trong lớp học. Theo Cole và Chan (1994), động cơ này đóng một vai trò quan trọng trong việc

quyết định thái độ học tập của sinh viên. Một sinh viên không có động cơ bên ngoài vẫn có
thể có một thái độ học tập tích cực và đạt kết quả tốt trong học tập. Động cơ bên trong bị ảnh
hưởng bởi bốn yếu tố chính: một là điều kiện vật chất của lớp học, trang thiết bị dạy và học,
môi trường xung quanh và quy mô lớp học; hai là phương pháp giảng dạy, một yếu tố quyết
định đối với sự yêu thích môn học của sinh viên; ba là tính cách, kiến thức và sự nhiệt tình
của giáo viên, những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn đối với sinh viên; bốn là sự thành bại của bản
thân sinh viên trong học tập.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra, phần lớn sinh viên (64%) chưa có động cơ học tập
đúng đắn. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này liên quan đến các yếu tố hình thành nên động
cơ bên trong của sinh viên:
- Điều kiện vật chất của lớp học chưa được tốt lắm: nhiều phòng học phải chịu nắng
nóng (nắng chiếu vào đến nửa lớp) vào mùa hè; chịu tiếng ồn (đối với những
phòng học lợp mái tôn) vào mùa mưa…
- Trang thiết bị dạy và học còn nghèo nàn chưa đáp ứng được với nhu cầu đổi mới
phương pháp giảng dạy. Tại các trường thành viên, giáo viên giảng dạy tiếng Anh
chủ yếu chỉ được trang bị máy cassette loại thường, chất lượng không tốt, do đó
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học.
- Quy mô lớp học: còn tồn tại những lớp học quá đông sinh viên (45-65 sinh viên),
không phù hợp với các lớp học ngoại ngữ, khiến sinh viên ít có cơ hội rèn luyện kỹ
năng.
- Phương pháp giảng dạy vẫn còn mang đậm tính truyền thống: chủ yếu dựa vào
giáo trình, phấn, bảng.
- Kết quả học tập chưa cao khiến cho sinh viên không có động cơ học tập tốt.
3.2. Thái độ học tập
Một yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến sự thành đạt của người học đó là thái độ của chính
người học. Gardner và Lambert (1972) định nghĩa thái độ là sự bền bỉ mà người học thể hiện
để theo đuổi một mục tiêu. Trong khi đó theo Brown (1980), thái độ là niềm tin của người học
đối với cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó và nền văn hoá của họ. Thái độ học tập có mối liên
hệ mật thiết đối với động cơ học tập. Thái độ đối với việc học ngoại ngữ là một yếu tố thúc
đẩy người học cố gắng hết sức mình để đạt được mục đích. Ngược lại, động cơ ảnh hưởng

đến thái độ của người học. Những người học có động cơ bên ngoài hoặc bên trong sẽ có thái
độ học tập tích cực hơn những người không có động cơ hay những người xem việc học là
nhiệm vụ bắt buộc.
Tại các trường thành viên của Đại học Đà Nẵng, nhiều sinh viên (31%) học tiếng Anh
với tâm lý bị ép buộc; không thoải mái. Họ học tiếng Anh bởi vì đây là một môn học bắt buộc
trong chương trình. Chính vì chưa có động cơ học tập đúng đắn nên nhiều sinh viên Bách
khoa cũng như sinh viên Kinh tế thường có thái độ học “đối phó”: sử dụng những đáp án có
sẵn từ giáo trình hay từ vở mượn của các lớp học trước; trong giờ học thường không chú ý
nghe giảng, không hợp tác với bạn cùng cặp, cùng nhóm và khi được yêu cầu thực hiện một
hoạt động nào đó thì lại “cầu cứu” bạn hoặc yêu cầu sự giúp đỡ từ phía giáo viên… Đôi khi
nhiều sinh viên còn tỏ thái độ “bất hợp tác”: không chuẩn bị bài trước, không tham gia vào
các hoạt động giao tiếp tại lớp; hay tìm lý do để nghỉ học hoặc đi học muộn
3.3. Chiến lược học
Trong khi những sinh viên giỏi có thể tự học ngoại ngữ rất tốt thì những sinh viên yếu
kém chủ yếu phụ thuộc vào giáo viên và hầu như không thể tự xoay xở được.
Theo Oxford (1990), chiến lược học là những hành động cụ thể mà người học thực
hiện để việc học của họ dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, đầy hứng thú hơn, hiệu quả hơn và có
thể dễ dàng thích ứng với tình huống mới hơn.
Theo O’Mally và Chamot (1990), chiến lược học có hiệu quả bao gồm việc lên kế
hoạch học tập, giám sát việc học và đánh giá công việc đã làm. Chiến lược học còn bao gồm
việc nhận thức được các cách xử lý việc học như là viết ghi chú, sử dụng từ điển và các nguồn
khác. Đó còn là sự tương tác với bạn cùng nhóm, cùng cặp hay cùng lớp trong các hoạt động
giao tiếp tại lớp.
Một sinh viên muốn đạt kết quả cao trong học tập không chỉ có động cơ học tập đúng
đắn và thái độ học tập tích cực mà còn phải có chiến lược học đúng. Đây chính là lý do vì sao
nhiều sinh viên yêu thích tiếng Anh, đầu tư nhiều thời gian cho việc học tiếng Anh nhưng vẫn
không đạt được kết quả như mong muốn.
Thực tế quan sát việc học tiếng Anh của sinh viên cho thấy phần lớn sinh viên chưa có
cách học hiệu quả:
- Soạn bài: sinh viên chủ yếu soạn nghĩa từ vựng, bỏ qua phần phát âm, cấu trúc và

chưa có thói quen chuẩn bị các ý tưởng cho các tình huống cũng như các chủ đề
nói, do đó ở lớp sinh viên không thể đáp ứng được ngay các yêu cầu của giáo viên,
hiệu quả thực hành không cao.
- Học từ vựng: sinh viên thường có thói quen học từ vựng theo kiểu học từ đơn lẻ,
viết đi viết lại từ đó nhiều lần mà chưa có thói quen hoặc không biết cách học từ
trong ngữ cảnh hay trong cách kết hợp với các từ khác. Cách học này mất nhiều
thời gian mà hiệu quả nhớ từ rất hạn chế. Mặt khác, sinh viên lại không biết cách
sử dụng từ cũng như sắp xếp từ theo một trật tự logic.
- Hoạt động giao tiếp tại lớp: Các hoạt động giao tiếp tại lớp thường được sinh viên
tiến hành như sau:
 Nhận đề tài / tình huống
 Đưa ra ý tưởng bằng tiếng Việt
 Dịch ý tưởng sang tiếng Anh
 Viết các ý tưởng / câu thoại ra giấy
 Nhìn vào bài đối thoại hay bài thảo luận đã soạn sẵn để đọc.
Với cách chuẩn bị và thực hành các hoạt động giao tiếp như vậy, sinh viên phải mất
rất nhiều thời gian tại lớp, làm ảnh hưởng chung đến thời lượng quy định cho bài học. Ngoài
ra, điều này sẽ làm mất đi độ nhanh nhạy cũng như phản ứng của sinh viên, làm ảnh hưởng
đến khả năng tư duy bằng tiếng Anh của sinh viên.
Tóm lại, động cơ, thái độ và chiến lược học có mối quan hệ mật thiết với nhau và có
tác động lớn đến quá trình học nói chung và quá trình rèn luyện kỹ năng nói của sinh viên nói
riêng. Khi sinh viên có động cơ học tập đúng đắn, họ sẽ có thái độ học tập tích cực. Từ đó, họ
có thể tìm cho mình một chiến lược học có hiệu quả, đem lại kết quả cao. Một khi đã đạt được
kết quả như mong đợi, sinh viên sẽ cảm thấy phấn khởi hơn, yêu thích môn học hơn, thái độ
học tập sẽ tốt hơn. Như vậy, sinh viên sẽ cố gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu đề ra.

4. Những đề xuất và kiến nghị
4.1. Đối với giáo viên
- Quan tâm nhiều hơn nữa đến động cơ, thái độ và chiến lược học của sinh viên;
giúp sinh viên đánh giá đúng đắn sự cần thiết của tiếng Anh cho tương lai của sinh

viên để từ đó sinh viên có thể xác định được động cơ, thái độ học tập tích cực,
chiến lược học có hiệu quả.
- Hướng dẫn, tư vấn cho sinh viên những cách học hiệu quả giúp sinh viên cảm thấy
hứng thú hơn trong việc học tiếng Anh (cách soạn bài, cách học từ vựng, vận dụng
từ mới vào tình huống, học cách phát âm đúng, cách sử dụng cấu trúc, sắp xếp từ,
sắp xếp ý tưởng…)
- Không gây áp lực học đối với sinh viên yếu, sinh viên lười học. Thay vào đó động
viên, khuyến khích để sinh viên tự giác học.
- Thiết kế nhiều loại hình hoạt động khác nhau theo mức độ khó tăng dần và phù
hợp với từng nhóm sinh viên.
- Có chế độ thưởng phạt công bằng để sinh viên có căn cứ tự đánh giá mức độ cố
gắng và sự tiến bộ của chính mình, tạo quyết tâm học tập cho sinh viên.
- Đánh giá đúng thực lực của sinh viên để từ đó đưa ra yêu cầu phù hợp; yêu cầu
quá thấp đối với sinh viên khá, giỏi sẽ khiến cho sinh viên cảm thấy nhàm chán và
sẽ không có ý chí phấn đấu vươn lên nữa; yêu cầu quá cao đối với sinh viên yếu sẽ
đánh mất sự tự tin của sinh viên, làm giảm sút sự hứng thú của sinh viên.
- Khuyến khích sinh viên hạn chế việc sử dụng tiếng Việt trong giờ học; hạn chế
viết trong những giờ thực hành nói.
- Tạo sự tự tin cho sinh viên trong giao tiếp: không nên đặt nặng vấn đề phải nói
đúng ngữ pháp khiến sinh viên cảm thấy e ngại. Thay vào đó, khuyến khích sinh
viên cố gắng diễn đạt ý tưởng, diễn đạt những gì mình muốn nói.
4.2. Đối với sinh viên
- Xác định cho mình một động cơ, thái độ học tập đúng đắn, chiến lược học phù hợp
để nâng cao chất lượng học.
- Thay đổi lại phương pháp học tiếng Anh cho phù hợp với yêu cầu mới.
- Tích cực tham gia vào các hoạt động tại lớp; tận dụng thời gian ở lớp để thực hành
giao tiếp với các bạn cùng lớp, hạn chế các hoạt động viết (chỉ viết những gì thực
sự cần thiết).
- Luôn tìm mọi cơ hội để có thể giao tiếp với bạn bè bằng tiếng Anh, tạo phản ứng
nhanh nhạy.

- Tạo thói quen tư duy bằng tiếng Anh, hạn chế việc chuyển đổi ý tưởng từ tiếng
Việt sang tiếng Anh.
- Luyện tập phát âm chuẩn, nói lưu loát. Đây chính là một trong những yếu tố quyết
định sự tự tin của người học.
4.3. Đối với nhà trường
- Quan tâm hơn nữa đến trang thiết bị dạy và học đáp ứng yêu cầu đổi mới phương
pháp giảng dạy.
- Thực hiện quy mô lớp nhỏ (30-35 sinh viên / lớp) để sinh viên có nhiều cơ hội
thực hành giao tiếp hơn nữa.
- Thực hiện chia lớp theo trình độ để sinh viên không có tâm lý e ngại khi nói trước
công chúng.
- Tổ chức các buổi giao lưu với đại diện các doanh nghiệp để sinh viên có cơ hội tìm
hiểu yêu cầu của nhà tuyển dụng từ đó giúp sinh viên định hướng được việc học
của mình.


5. Kết luận
Việc cải thiện kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên là một công việc không hề đơn
giản chút nào. Khó ở chỗ là phải có thời gian để thay đổi một thói quen học ngoại ngữ đã trở
nên lỗi thời, không còn phù hợp trong tình hình mới. Hơn nữa, để có được một kỹ năng hoàn
hảo còn đòi hỏi phải có đủ lượng thời gian thực hành, phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa người
dạy và người học. Điều quan trọng hơn nữa là chính động cơ, thái độ, và chiến lược học của
bản thân người học tạo nên sự thành công đó.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Antonia C., Problems of Learning English as a Second Language, Singapore
University Press for SEAMEO Regional Language Centre, 1981.
[2] Brown, H.D., Priciples of Language Learning and Teaching, Engleword Cliffs, New

Jersey: Prentice-Hall, 1980.
[3] Cole, P. G. & Chan L., Teaching Priciples and Practice, Prentice Hall of Australia Pty
Ltd., 1994.
[4] Gardner, R., Lambert W. (1972), “Attitudes and Motivation in Second Language
Learning” in Cole P. G. & Chan L., Teaching Priciples and Practice, Prentice Hall of
Australia Pty Ltd., 1994.
[5] Harmer, J., The Practice of English Language Teaching, Longman Group UK
Limited, 1991.
[6] O’Mally, J.M., Chamot A.U., Using Strategies in Second Language Acquisition,
Cambridge University Press, 1990.
[7] Oxford, R.L., Language Learning Strategies , Newbury Publisher, 1990.

×