Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học '''' vị trí khu di tích khảo cổ học 18 hoàng diệu trong cấu trúc thành thăng long - hà nội qua các thời kỳ lịch sử[1] ''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.36 KB, 40 trang )

VỊ TRÍ KHU DI TÍCH KHẢO CỔ HỌC 18 HỒNG DIỆU
TRONG CẤU TRÚC THÀNH THĂNG LONG - HÀ NỘI
QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ[1]

GS Phan Huy Lê

Bài viết này chỉ giới hạn trong nghiên cứu cấu trúc của thành Thăng LongHà Nội qua các thời kỳ lịch sử để góp phần xác định vị trí của khu di tích Hồng
thành Thăng Long mới được giới khảo cổ học phát hiện ở 18 Hồng Diệu (Ba
Đình) và đang cuốn hút sự quan tâm tìm hiểu của các nhà khoa học và của xã hội.
Cho đến nay, rất nhiều vấn đề về thành Thăng Long đã được đặt ra và ý kiến
cụ thể về nhiều vấn đề hết sức khác nhau. Nhưng chỉ giới hạn trong quan niệm về
quy mô, cấu trúc và vị trí của thành Thăng Long - Hà Nội thì ít ra cũng đã có đến
bốn kiến giải khác nhau:
1. Trần Huy Bá cho rằng “khu vực chính của nội thành Thăng Long” (khơng
nói rõ là Hồng thành hay Cấm thành) đời Lý, Trần, Lê không thay đổi và nằm
trong giới hạn phía bắc là chỗ rẽ xuống đường trường đua ngựa cho đến đền Quan
Thánh, phía Đơng là từ đền Quan Thánh đến gần Văn Miếu, phía Nam từ Văn
Miếu đến chỗ rẻ tránh đường tàu điện Cầu Giấy, phía Tây là từ chỗ rẽ tránh đường
xe lửa Cầu Giấy đến trường đua ngựa. Như vậy thành hình gần chữ nhật nằm về
phía Tây thành Hà Nội thời Nguyễn và thành Hà Nội theo tác giả “đã thiên hẳn ra
ngồi phía Đơng thành Thăng Long cũ”[2] (H.1, bản đồ của tác giả).


H.1: Thành Thăng Long thời Lý - Trần nằm phía Tây
Thành Hà Nội thời Nguyễn chuyển hẳn sang phía Đơng
2. Trần Huy Liệu và các cộng sự phân biệt rõ cấu trúc gồm Kinh Thành,
Hoàng thành, Cấm thành và xác định Hồng thành đời Lý, Trần phía bắc giáp Hồ
Tây, phía Tây giáp sơng Tơ Lịch, phía Nam giáp đường Cầu Giấy, phía Đơng giáp
thành Hà Nội đời Nguyễn, khoảng đường Hùng Vương[3]. Như vậy tác giả gần
như tán đồng quan điểm của Trần Huy Bá cho rằng Hoàng thành Thăng Long thời
Lý - Trần ở về phía Tây thành Hà Nội thời Nguyễn (H.2: bản đồ của tác giả), tuy


giới hạn phía Tây của Hồng thành có thể đến giáp sông Tô Lịch. Điều khác biệt
quan trọng so với Trần Huy Bá là Trần Huy Liệu nhìn nhận một sự chuyển dịch
kinh thành từ Lý, Trần sang Lê sơ. Theo nhóm tác giả này, Hồng thành Đơng
Kinh thế kỷ XV bao gồm cả thành Thăng Long đời Lý, Trần và thành Hà Nội thời
Nguyễn, tức mở rộng về phía Đông[4].


H.2: Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần nằm về phía Đơng thành Hà Nội thời
Nguyễn

3. Trần Quốc Vượng - Vũ Tuấn Sán cũng phân biệt rõ Hoàng thành, Cấm
thành và cho rằng Long Thành, Phượng Thành hay Long Phượng Thành chính là
Hồng thành, mở bốn cửa: cửa Tường Phù ở phía Đơng mở ra trước Chợ Đơng và
đền Bạch Mã, cửa Đại Hưng ở phía Nam khoảng vườn hoa và chợ Cửa Nam, cửa
Quảng Phúc ở phía Tây mở ra trước chùa Một Cột, cửa Diệu Đức ở phía bắc mở
ra trước sơng Tơ Lịch khoảng phố Phan Đình Phùng[5]. Hai tác giả nhấn mạnh trải
qua các vương triều, các cung điện được xây dựng, tu sửa nhiều lần nhưng phạm
vi Hoàng thành và Cấm thành với tâm điểm là điện Kính Thiên trên núi Nùng
khơng thay đổi. Phạm Hân cùng quan điểm này về Hoàng thành, nhưng lại cho
rằng Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành là Cấm thành[6]. Hoàng


thành trong quan niệm của các tác giả có thể được biểu thị trên bản đồ như sau
(H.3).

H.3: Vị trí Hồng thành Thăng Long thì Lý, Trần, Lê

4. Philippe Papin là một tác giả nước ngồi đã có hai cơng trình nghiên cứu về
Thăng Long - Hà Nội trong thời gian gần đây là luận án Tiến sĩ Des "villages dans
la ville” aux “villages urbains” và cuốn sách Histoire de Hà Nội. Nhận thức về

thành Thăng Long của tác giả được thể hiện tập trung trong bản đồ sau[7]. Theo tác
giả, vịng thành trong theo sơng Tơ Lịch đến Cầu Giấy rồi theo đường Giảng Võ
nối lên phía Đơng Bắc với An Nam La Thành (806) và Đại La thành (866) đời
Đường. Hai lớp thành phía bắc tương ứng với đường Hồng Hoa Thám và Thuỵ
Kh, tác giả giải thích do sự mở rộng thành Đại La cũ. Vòng thành trong mở bốn
cửa: Tường Phù, Đại Hưng, Quảng Phúc và Diệu Đức. Vịng thành ngồi cùng đắp
năm 1014, tác giả cho bao bọc cả Hồ Tây và có lần mở rộng về phía Nam vào năm
1230. Có thể hiểu vịng thành ngồi là thành Đại La hay La Thành, vịng thành
trong là Hoàng thành theo cách dùng phổ biến về cấu trúc kinh thành Thăng Long.


H.4: Thành Thăng Long thế kỷ XI-XIV.
Với tình trạng tư liệu hiện có, rõ ràng nhiều vấn đề đặt ra về thành Thăng
Long - Hà Nội chưa dễ thống nhất, nhưng trên cơ sở thu thập và phân tích đối
chiếu kỹ tư liệu thư tịch kết hợp với điều tra thực địa, khảo sát những đền chùa,
những di tích lịch sử - văn hóa liên quan đến các đoạn thành và cửa thành xưa[8] và
những kết quả khai quật khảo cổ học gần đây của Viện Khảo cổ học, có thể đưa ra
một số nhận xét mới trong nhận thức về cấu trúc của thành Thăng Long - Hà Nội
qua các thời kỳ lịch sử và từ đó, xác định vị trí của Khu di tích khảo cổ học mới
phát lộ ở Ba Đình trong hệ thống cấu trúc này.
1. Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Minh thuộc
Trước hết, căn cứ vào sử biên niên, chủ yếu là Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký
toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, điểm


lại những sự kiện lớn trong quá trình kiến tạo và những đổi thay lớn, tên gọi cung
điện trung tâm, những vòng thành lần đầu xuất hiện của kinh thành Thăng Long:
§

Năm 1010 (mùa thu) vua Lý Thái Tổ dời đô về thành Đại La và đổi tên là


thành Thăng Long. Trong năm đó xây dựng 8 điện 3 cung, trung tâm là điện Càn
Nguyên, rồi “đắp thành đào hào”, bốn mặt thành mở bốn cửa: phía Đơng cửa Tường
Phù, phía Tây cửa Quảng Phúc, phía bắc cửa Diệu Đức, phía Nam cửa Đại Hưng.
§

Năm 1014 “đắp thành đất ở bốn mặt kinh thành Thăng Long”.

§

Năm 1028, trong loạn “ba Vương”, ba Vương “đem quân ở phủ mình

vào phục sẵn trong Cấm thành, Đông Chinh Vương phục ở trong Long Thành”.
§

Năm 1029, xây dựng lại điện Càn Nguyên đổi tên là điện Thiên An, xây

dựng thêm một số cung điện mới và “bên ngồi đắp thành gọi là Long Thành”.
§

Năm 1049, “đào ngịi ngự ở phía ngồi Phượng Thành”.

§

Năm 1078, “sửa lại thành Đại La. Thành này đắp từ năm Thuận Thiên

thứ 5 (1014), đến đây sửa lại”.
§

Năm 1243, “đắp thành nội gọi là thành Long Phượng”.


§

Năm 1397, sau khi xây dựng kinh đơ mới ở Tây Đơ (Thanh Hố), Thăng

Long đổi thành Đơng Đơ.
§

Thời thuộc Minh (1407-1427) thành Đơng Đô gọi là Phủ thành Giao Chỉ

hay Phủ thành Giao Châu và thường gọi là thành Đông Quan.
Từ những sự kiện trên và trên cơ sở tư liệu hiện có, có thể đặt ra và xác
định mấy vấn đề sau đây về cấu trúc và vị trí của kinh thành Thăng Long:
1.1. Về tên thành, năm 1010 đặt tên thành Thăng Long, năm 1397 đổi là
Đông Đô và thời thuộc Minh là Đông Quan.
1.2. Về cấu trúc, trong thời Lý từ năm 1010 đến 1028, đã dần dần hình thành
ba vòng thành.


1.3. Vịng thành ngồi cùng đắp bằng đất năm 1014, năm 1078 sửa đắp gọi là
thành Đại La. Trong sử biên niên, tên thành Đại La xuất hiện nhiều lần vào các
năm: 1078, 1154, 1165, 1170, 1230, 1243. Tên thành cũng có tài liệu gọi là La
Thành hay chú thích thành Đại La tức là La Thành và phân biệt với thành Đại La
thời thuộc Đường.
Nói chung các nhà khoa học khơng có nhiều bất đồng về vịng thành này và
đều thống nhất cho rằng vòng thành dựa theo bờ sông Tô Lịch ở mặt bắc, mặt tây,
sông Kim Ngưu ở mặt nam và sông Nhị (sông Hồng) ở mặt đơng. Các dịng sơng
tự nhiên này được sử dụng như lớp hào bên ngồi và hệ thống giao thơng đường
thủy, hệ thống tiêu thoát nước rất tiện lợi. Thành Đại La giữ vai trò vừa là luỹ
phòng vệ vừa là đê ngăn lũ lụt. Vòng thành này cũng qua nhiều lần bồi trúc và sửa

đắp, ít nhiều xê dịch theo sự bồi lấp hay xói mịn của dịng sơng. Dịng sơng Tơ
Lịch và Kim Ngưu cịn được thể hiện rất rõ trên các bản đồ cổ từ bản đồ Hồng
Đức thời Lê đến các bản đồ thời Nguyễn thế kỷ XIX, nhưng nói chung bị bồi lấp
và thu hẹp dần. Hiện nay dịng sơng Tơ Lịch ở phía Tây cịn rõ và gần đây được
cải tạo, kè bê tông trong hệ thống thốt nước của Hà Nội. Cịn dịng phía bắc thì
vào đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguyễn xây dựng thành Hà Nội, dịng sơng này được
nối với hào phía Tây Bắc rồi đổ ra sơng Nhị khoảng phố Nguyễn Siêu - Chợ Gạo
hiện nay. Cửa sông Tô hay Giang Khẩu xưa ỏ khoảng đó. Trên các bản đồ thế kỷ
XIX, đoạn sông Tô này thể hiện khá rõ. Sau khi thành Hà Nội bị phá hủy và san
bằng, đoạn sông Tô từ Thụy Khê đến Giang Khẩu cũng bị lấp dần. Hiện nay dịng
sơng Tơ phía bắc chỉ cịn lại một đoạn phía Tây như dịng nước hẹp dọc theo phía
Nam đường Thụy Khê cho đến đốc Tam Đa. Sơng Kim Ngưu cịn thể hiện rõ trên
các bản đồ cổ thời Lê và thời Nguyễn, nhưng hiện nay đã bị lấp hoàn toàn.
Thành Đại La thời Lý - Trần trên đại thể, mặt bắc chạy dọc theo bờ nam sơng
Tơ Lịch khoảng đường Hồng Hoa Thám hiện nay, mặt tây theo bờ đông sông Tô
Lịch tức đường Bưởi từ Yên Thái đến ô Cầu Giấy và mặt nam theo bờ bắc sông
Kim Ngưu khoảng đường La Thành - Đê La Thành - Đại Cồ Việt - Trần Khát


Chân từ Cầu Giấy đến ô Đống Mác hiện nay. Thành Đại La phía Đơng là đê sơng
Nhị và chịu ảnh hưởng của sự bồi lở của bờ sông theo xu hướng chung là quá trình
bồi tụ bờ hữu ngạn làm cho dịng sơng bị chuyển dịch dần về phía Đơng. Ví như
năm 1165, thành Đại La ở cửa Triều Đông phải đắp lùi vào 75 thước (khoảng 24
m) và xây bằng gạch đá vì xói lở của nước sơng Nhị. Hay như năm 1230, nhà Trần
“mở rộng phía ngồi thành Đại La”, “xây đắp thêm bốn cửa thành ở phía ngồi
thành Đại La”. Thật khó xác định vị trí đoạn phía Đơng thành Đại La thời Lý Trần, nhưng chắc chắn cịn nằm sâu vào phía Tây so với đê sông Hồng hiện nay.
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lê Hữu Trác trong chuyến lên Kinh chữa
bệnh cho thế tử Trịnh Cán năm 1782, lúc trở về cịn xuống thuyền ở bến đị chùa
Tràng Tín[9]. Chùa Tràng Tín cịn dấu tích ở phố Hàng Chuối hiện nay mà vào thế
kỷ XVIII cịn là bến đị, điều đó chứng tỏ lúc bấy giờ sơng Nhị cịn ăn sâu vào

phía Tây so với dịng sơng hiện nay.
Theo các sử liệu hiện còn, thành Đại La thời Lý, Trần mở các cửa: Triều Đơng
(khoảng dốc Hịe Nhai xuống), Tây Dương (ô Cầu Giấy), Trường Quảng (ô Chợ
Dừa), Cửa Nam (ô Cầu Dền), cửa Vạn Xuân (ô Đống Mác). Mặt đông của thành
Đại La giáp bờ sơng Nhị, có hai bến sơng giữ vai trị hai bến cảng quan trọng của
kinh thành: Giang Khẩu tức cửa sông Tô Lịch và cửa Triều Đơng hay Đơng Bộ
Đầu hay Bến Đơng (dốc Hịe Nhai xuống).
1.4. Vịng thành giữa cịn có nhiều ý kiến xác định khác nhau. Một số nhà
khoa học dùng tên Hoàng thành được sử dụng thời Lê - Nguyễn làm tên gọi khái
quát vòng thành thứ hai này trong cấu trúc “tam trùng thành quách”, tuy rằng tên
gọi này chưa xuất hiện thời Lý - Trần. Một số tác giả khác cho rằng cũng như thời
Lê, vòng thành thứ hai từ thời Lý đã gọi là thành Thăng Long. Tên “thành Thăng
Long” xuất hiện trong sử biên niên vào các năm: 1010, 1024, 1028, 1078, 1156.
Nhưng vấn đề cần xác định là xác định vị trí của Long Thành, Phượng Thành hay
Long Phượng Thành, một tên gọi được sử dụng nhiều thời Lý - Trần. Có người


cho đó là vịng thành giữa tức Hồng thành hay thành Thăng Long, có người lại
cho là vịng thành trong cùng tức Cấm thành.
Những người cho rằng Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành là
Cấm thành dựa trên sự kiện năm 1029, nhà Lý xây điện Thiên An và một số cung
điện rồi “bên ngồi đắp thành gọi là Long Thành”[10]. Vịng thành bao quanh các
cung điện như vậy hẳn là Cấm thành. Như vậy Long Thành/Phượng Thành/Long
Phượng Thành tức là Cấm thành hay nói cách khác Long Thành/Phượng
Thành/Long Phượng Thành và Cấm thành chỉ là tên gọi khác nhau của một tịa
thành là Cấm thành.
Phân tích một số tư liệu, tơi thấy có những chứng cứ đáng tin cậy để phân biệt
Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành với Cấm thành hay nói cách
khác đó là những tên gọi thời Lý - Trần chỉ hai tòa thành khác nhau:
- Trong “loạn ba vương” năm 1028, chính sử phân biệt Cấm thành và Long

Thành: “Ba Vương là Đông Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức nghe tin đều đem quân
ở phủ mình vào phục sẵn trong Cấm thành, Đông Chinh Vương phục ở trong Long
Thành...”[11].
- Trong cuộc tranh chấp cuối đời Lý, năm 1212, Đại Việt sử lược cũng phân
biệt Long Thành và Cấm thành: ‘Tự Khánh giận dữ phát binh đến Long Thành, sai
điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Ngạnh đem các quan chức đô vào trong Cấm
thành”[12].
- Một chứng cứ quan trọng nữa là năm 1024, khi sửa sang kinh thành Thăng
Long thì Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi rõ “Thành Thăng Long khởi
đắp từ năm Thuận Thiên thứ 1 (1010) đến đây sửa lại”[13]. Tòa thành xây đắp năm
1010 được miêu tả như sau: “Lại xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng
Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập
Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ... Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An,
Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nhật


Minh, phía sau dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ. Dựng
kho tàng, đắp thành, đào hào. Bốn mặt mở bốn cửa: phía Đơng gọi là cửa Tường
Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi
là cửa Diệu Đức”. Rõ ràng điện Càn Nguyên là nơi thiết triều cùng điện Long An,
Long Thụy là nơi vua nghỉ, cung Thúy Hoa, Long Thụy là chỗ ở của cung nữ..., về
nguyên tắc cấu trúc kinh thành gồm ba vịng thành, thì phải nằm trong vịng thành
trong cùng tức Cấm thành. Chính điều đó làm cho nhiều nhà nghiên cứu coi tòa
thành xây đắp cùng với các kiến trúc cung đình này là Cấm thành. Nhưng nếu phân
tích kỹ các dữ liệu thì ngồi các cung điện trên cịn “dựng kho tàng, đắp thành, đào
hào” và tòa thành này mở bốn cửa, trong đó có cửa Đại Hưng ở phía Nam thì từ thời
Lý, Trần đến đời Lê đều là cửa phía Nam của vịng thành giữa tức Hồng thành thời
Lê. Chính vì vậy mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục gọi là thành Thăng
Long.
Như vậy Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng Thành là vòng thành thứ

hai hay vòng thành giữa và để thống nhất tên gọi vòng thành giữa này, tôi tán
đồng quan niệm của nhiều nhà khoa học, tạm dùng tên gọi quen thuộc được sử
dụng từ thời Lê là Hoàng thành. Trong nghiên cứu lịch sử Thăng Long - Hà Nội,
trước đây tôi tán đồng quan điểm của Trần Quốc Vượng - Vũ Tuấn Sán, sau này
được Phạm Hân bổ sung và củng cố thêm, cho rằng Hoàng thành Thăng Long từ
Lý - Trần đến Lê - Mạc - Lê Trung hưng về cơ bản không thay đổi và khơng có sự
chuyển dịch từ tây sang đông. Nhưng với kết quả nghiên cứu gần đây, tôi thấy cần
đính chính một điều quan trọng là Long Thành/Phượng Thành/Long Phượng
Thành thời Lý, Trần không phải là Cấm thành mà chính là Hồng thành và do đó,
phải phân biệt rõ những tư liệu liên quan đến hai tòa thành khi sử dụng. Xác định
lại tên gọi này dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến việc xác định phạm vi, vị trí của Hồng
thành và Cấm thành cũng như nhìn nhận sự thay đổi hay khơng thay đổi của hai
tịa thành này.


Phạm vi và vị trí Hồng thành có thể xác định được trên cơ sở định vị bốn cửa
thành ở bốn phía Đơng, tây, nam, bắc. Cho đến nay, vị trí các cửa Tường Phù ở
phía Đơng, cửa Đại Hưng ở phía Nam, cửa Diệu Đức ở phía bắc thì tương đối
thống nhất
§

Cửa Tường Phù ở phía Đơng cịn để lại dấu tích qua cửa sơng Tơ Lịch

tức Giang Khẩu, đền Bạch Mã và văn bia liên quan tại đền Bạch Mã ở 76 Hàng
Buồm, chùa Cầu Đông (Đông Kiều tự) ở 38B Hàng Đường, đình Cửa Đơng (Đơng
Mơn đình) ở 8 Hàng Cân, Hội quán Phúc Kiến ở 40 Lãn Ông.
Đền Bạch Mã đã được xây dựng từ thời thuộc Đường và Việt điện u linh có
đoạn chép về đền này: "Đến đời nhà Lý dựng đô ở Thăng Long, vua Thái Tơng
cho mở phố chợ về phía Cửa Đông, hàng quán chen chúc, sát đến bên đền, rất là
huyên náo. Muốn dựng đền ra một chỗ khác song vua lại nghĩ, một ngôi đền cổ

không nên dời đi, mới đem sửa sang lại, đền liền với các nhà ngoài phố, riêng để
một nhà bên trong làm nơi thờ thần... Trước đây ở phố Chợ Đông ba lần phát hỏa,
các nhà trong phố bị cháy hầu hết, duy đến chỗ thờ thần, lửa không bao giờ cháy
đến”[14]. Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ là vị thần Thành Hoàng của thành Thăng
Long, sau này được coi là một trong bốn vị thần “tứ trấn” của kinh thành. Vị trí
của đền Bạch Mã được định vị ở phía Nam sơng Tô Lịch trên bản đồ Hồng Đức
thế kỷ XV, gần cửa sông Tô đổ ra sông Nhị, thuộc phường Giang Khẩu. Tại ngơi
đền này cịn lưu giữ được 15 tấm bia thời Lê và Nguyễn.
Chùa Cửa Đông (Đông Kiều tự) ở 38B Hàng Đường. Ngôi chùa này gần Cầu
Đông tức cầu bắc qua sơng Tơ Lịch và nằm về phía Cửa Đơng nên cịn gọi là chùa
Cửa Đơng (Đơng Mơn tự). Cửa Tường Phù về sau gọi là cửa Đông Hoa hay Cửa
Đông. Văn bia năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) ghi “Đông Môn tự ký” (Bài ký về chùa
Đông Môn) cho biết: “Nhị thủy triều tiền...., Long Thành phục hậu” (sơng Nhị
chầu phía trước..., Long Thành phục phía sau)[15]. Trong văn bia ghi lại việc nhà
sư Nguyễn Văn Hiệp tự là Đạo án, cùng vợ hiệu là Diệu Bi, mua cúng nhà chùa
một thửa ruộng để mở rộng chùa, có giáp giới như sau: “trên giáp cầu đá, dưới


giáp phường Diên Hưng, trước giáp đường cái, sau giáp sở Đông ngục”. Văn bia
cung cấp những thông tin cho biết ngơi chùa này nhìn ra sơng Nhị, phía sau là
Long Thành, gần đó có cầu đá bắc qua sơng Tơ Lịch gọi là Cầu Đơng. Chính vì
vậy chùa này là chùa nằm về phía Cửa Đơng, gần Cầu Đơng trên sông Tô Lịch.
Đây là những tư liệu quý để xác định vị trí của tường thành và cửa thành phía
Đơng trong mối quan hệ với sơng Tơ, sơng Nhị. Bài minh trong chùa có niên đại
Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) cho biết vị trí của chùa: bên trái là sơng Tơ, bên phải là
cửa Đơng Hoa, phía Đơng là cầu đá.
Đình Đơng Mơn ở 8 Hàng Cân chỉ cịn giữ được tên đình là “Đơng Mơn đình”,
nhưng cũng là một chỉ giới quan trọng để xác định vị trí Cửa Đông tức cửa Tường
Phù thời Lý, Trần sang thời Lê đổi là cửa Đông Hoa và dân gian quen gọi là Cửa
Đông.

Hội quán Phúc Kiến ở 40 phố Lãn Ông còn lưu giữ một tấm bia mang niên đại
muộn năm Gia Long thứ 16 (1817), nhưng cung cấp một thông tin đáng lưu ý là
người Hoa đã mua đất ở xứ Cửa Đông Hoa để xây Hội quán. Thông tin này chứng
thực thêm địa điểm Hội quán Phúc Kiến nằm trên đất cửa Đông Hoa tức cửa
Tường Phù thời Lý.
Với những cứ liệu trên, có thể xác định cửa Tường Phù tức Cửa Đơng của
Hồng thành mở ra phía đền Bạch Mã, cửa sông Tô, khoảng gần Cầu Đông bắc
qua sơng Tơ ở 38B Hàng Đường, đình Cửa Đơng ở 8 Hàng Cân và Hội quán Phúc
Kiến ở 40 Lãn Ơng hiện nay. Có thể xác định một cách tương đối, đoạn thành phía
Đơng của Hồng thành nằm khoảng phố Thuốc Bắc và cửa Tường Phù/Cửa Đông
ở khoảng giao nhau của phố Thuốc Bắc - Lãn Ông ngày nay. Khu cửa Đông cũng
để lại dấu ấn trong các địa danh hành chính vùng này. Vào đời Gia Long, huyện
Thọ Xương có tám tổng thì trong tổng Hậu Túc có thôn Đông Hoa Môn, Hậu
Đông Hoa Môn; tổng Tiền Túc có thơn Hữu Đơng Mơn, Đơng Thành Thị, Đơng
Thành[16]. Vào cuối thế kỷ XIX, theo Đồng Khánh địa dư chí lược, huyện Thọ
Xương có tám tổng, tổng Thuận Mỹ có thôn Hữu Đông Môn, Đông Thành Thị,


Yên Nội Đông Thành[17]. Cục Văn thư lưu trữ nhà nước còn lưu giữ địa bạ năm
Minh Mệnh thứ 18 (1837) của thôn Hữu Đông Môn, Đông Thành Thị, Yên Nội
Đơng Thành[18]. Cùng với các tên thơn đó là di tích một số đình, chùa như chùa
Đơng Hoa Mơn ở 38B phố Hàng Đường, đình Đơng Mơn ở 8 phố Hàng Cân, đình
Hậu Đơng Hoa ở 2 phố Chả Cá...
§

Cửa Đại Hưng hay Cửa Nam cịn để lại dấu tích qua địa danh và chứng

cứ trong các sách địa chí, trong thơ văn và trong sử tích đền Lương Sử. Những địa
danh liên quan là vườn hoa Cửa Nam, chợ Cửa Nam còn tồn tại đến nay. Năm
1037 vua Lý Thái Tông phong Thái úy Phạm Cự Lạng đời Tiền Lê làm Hoằng

Thánh Đại vương và “dựng đền thờ ở phía Tây Cửa Nam thành”[19]. Đó là đền
Hoằng Thánh thờ Phạm Cự Lạng hiện cịn dấu tích ở đình Lương Sử tại ngõ
Lương Sử A ở khu Cửa Nam. Đình mới xây dựng lại nhưng vẫn giữ nguyên vị trí
và hướng đình là hướng bắc.
Long Biên bách nhị vịnh của Bùi Cơ Túc sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu
XIX, trong bài Vịnh lầu Vọng Tiên với lời tiểu dẫn cho biết, lầu Vọng Tiên do Lê
Thánh Tông xây dựng, đã bị phá khi Gia Long xây dựng lại thành Thăng Long và
“nền cũ cửa Đại Hưng ở phía trong cửa Đơng Nam khoảng 20 trượng”, cịn “nền
cũ lầu Vọng Tiên vốn ở trước cửa Đông Nam, chỗ thành mang cá”[20]. Cửa Đông
Nam ở đây là của thành Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn, mặt nam thành mở hai
cửa: cửa Đông Nam và cửa Tây Nam. Lầu Vọng Tiên đã bị phá hủy, nhưng vị trí
cịn lưu dấu tích tại quán Vọng Tiên ở 120 phố Hàng Bông hiện nay.
Nguyễn gia phả ký chép rằng năm Canh Tý (năm 1780), Nguyễn Gia Thiều
được thăng làm Đô chỉ huy sứ cai quản Thị hầu thị tiền bộ hiệu, có “nhà cũ ở cổng
Nam Môn” và tại đây ông xây dựng tháp chùa Tiên Tích[21]. Hà Nội địa dư của
Dương Bá Cung cũng xác nhận chùa Tiên Tích do Phủ chúa xây dựng ở vị trí “hơi
xế về bên phải cổng Nam Mơn,... phía trước hồ Kim Âu”. Chùa Tiên Tích ở 110
đường Lê Duẩn, phía sau chùa vẫn cịn hồ Kim Âu.


Từ các cứ liệu trên, có thể xác định cửa Đại Hưng hay Cửa Nam (Nam Mơn)
mở ra phía vườn hoa và chợ Cửa Nam, gần đình Lương Sử, quán Vọng Tiên và
chùa Tiên Tích hiện nay. Đoạn Hồng thành qua cửa Đại Hưng có thể đốn định
chạy gần như song song với phố Trần Phú và theo lời tiểu dẫn của Bùi Văn Cơ
trong bài Vịnh lầu Vọng Tiên đã trích dẫn ở trên, thì có thể lùi lên phía bắc khoảng
20 trượng (hơn 60 m).
§

Cửa Diệu Đức là Cửa Bắc, tư liệu rất ít. Căn cứ vào ghi chép của Đại


Nam nhất thống chí “cửa Diệu Đức ở phía bắc thì nay bị lở xuống sơng”[22], thì có
thể nghĩ rằng cửa này ở gần sông Tô Lịch. Mặt bắc của thành Đại La cũng như
Hoàng thành chạy theo bờ nam sông Tô và cửa Diệu Đức/Bắc Môn của Hồng
thành dĩ nhiên nhìn ra sơng Tơ Lịch và ở phía Nam của dịng sơng này, có thể
khoảng phố Phan Đình Phùng hay giữa phố Phan Đình Phùng và phố Quán Thánh
hiện nay. Trên bản đồ Hồng Đức thời Lê, khơng thấy ghi một cửa thành nào ở phía
bắc. Hiện nay chỉ biết quán Trấn Vũ trấn giữ mặt bắc và năm 1427 khi vây hãm
thành Đông Quan, Lê Lợi cho quân sĩ “đắp bức lũy từ phường Yên Hoa tới thẳng
Cửa Bắc thành”[23]. Như vậy, cửa Diệu Đức hay Cửa Bắc nhìn ra sơng Tơ Lịch, ở
về phía Nam quán Trấn Vũ và gần phường Yên Hoa tức Yên Phụ hiện nay, cịn
xác định vị trí cụ thể cịn phải chờ thêm những cứ liệu mới.
§

Cửa Quảng Phúc ở phía Tây thì cịn nhiều ý kiến khác nhau. Có người

cho Cửa Tây này “mở trước chùa Một Cột, trên hành lang chạy dọc đường Hùng
Vương ngày nay”[24]. Có người cho rằng cửa Quảng Phúc là cửa phía Tây của
Cấm thành[25]. Có người lại cho rằng Cửa Tây của Hồng thành phải xa hơn về
phía Tây, có thể đến giáp sơng Tơ Lịch[26].
Khi xác định Cửa Tây Hồng thành, nhiều người sử dụng văn bia tháp Sùng
Thiên Diên Linh (Duy Tiên, Hà Nam) do Nguyễn Công Bật soạn và khắc vào năm
1121, đoạn viết về vị trí chùa Diên Hữu như sau: “Hướng tây Cấm chi danh viên
xưởng Diện Hựu chi quang tự” (hướng về vườn nổi tiếng [phía] tây Cấm [Thành]
dựng chùa Diên Hựu)”[27]. Câu văn cịn có chỗ cần tra cứu thêm, nhưng nếu hiểu


chữ “tây Cấm” là “phía Tây Cấm thành” thì chùa Diên Hựu tức chùa Một Cột nằm
về phía Tây Cấm thành, chứ khơng phải Hồng thành. Do đó khơng thể căn cứ vào
tư liệu này để xác định cửa Quảng Phúc tức Cửa Tây của Hồng thành mở ra phía
chùa Một Cột, chợ Ngọc Hà và coi đường Hùng Vương như đoạn thành phía Tây

của Hồng thành.
Quả thật cho đến nay, tơi chưa tìm thấy cứ liệu trực tiếp nào đáng tin cậy để
xác định vị trí cửa Quảng Phúc và giới hạn phía Tây của Hồng thành. Nhưng nếu
căn cứ vào Bản đồ Hồng Đức, Hồng thành thành Đơng Kinh trước khi Lê Thánh
Tông mở rộng năm 1490 là tương ứng với Hồng thành thời Lý, Trần vì từ Lý,
Trần sang Lê sơ không thấy sử cũ ghi chép một lần thay đổi lớn nào theo hướng
thu hẹp hay mở rộng. Theo suy luận này thì Hồng thành thời Lý, Trần bao gồm
cả một vùng phía Tây nằm trong phạm vi phía bắc là đường Hồng Hoa Thám dọc
theo bờ nam sơng Tơ Lịch, phía Tây là đường Bưởi dọc theo bờ đông sông Tô
Lịch cho đến khoảng Cầu Giấy, phía Nam là khoảng đường Kim Mã. Một quan
niệm như vậy về Hoàng thành phải đối mặt với hai yêu cầu giải thích là:
- Trên khu vực này khảo cổ học chưa tìm thấy di tích của các cung điện thời
Lý, Trần.
- Theo sự tích ơng Hồng Lệ Mật thì khu vực này vùng nơng nghiệp “Thập
tam trại” của cư dân khai hoang từ làng Lệ Mật (Gia Lâm, nay là quận Long Biên,
Hà Nội).
Về vấn đề thứ nhất, cần lưu ý địa hình tự nhiên, vùng đất này tương đối thấp,
có nhiều ao hồ, trên bản đồ Hồng Đức ta thấy vẽ một dải hồ rất rộng chiếm khoảng
1/3 diện tích cả vùng. Theo thư tịch và kết quả khảo sát thực địa, trên địa bàn vùng
đất phía Tây này cũng có một số gị núi như núi Voi (Phục Tượng hay Tượng
Sơn), núi Vạn Bảo, núi Cung (núi Thái Hòa), núi Cờ, núi Chuối, một dải gò liên
tiếp mang tên Gò Dài, Gò Giữa, Gò Đất, gò Miếu Ơng chạy từ đền Voi Phục đến
Núi Bị gần song song với đường Kim Mã... Trong vùng đất phía Tây Hồng
thành, thường là trên những gị đất cao, nhà Lý xây chùa Chân Giáo (năm 1024)


trên núi Voi, quán Thái Thanh (năm 1011), cung Cảnh Linh (1088), cung Thái
Hòa trên núi Cung, gần Cấm thành xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, năm
1049)... Nhà Trần tu tạo và xây dựng thêm một số kiến trúc như năm 1248: “làm
cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh, cung

Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ”[28].
Vùng đất phía Tây do cảnh quan tự nhiên ở đây, vương triều Lý, Trần không
xây dựng nhiều cung điện quy mô và dày đặc như trong Cấm thành, mà chỉ xây
một số chùa, quán, hành cung, dựng cầu, tu sửa các hồ... làm nơi thờ Phật, cầu
cúng và thưởng ngoạn của vua cùng hoàng gia, quý tộc. Khi xây chùa Chân Giáo
năm 1024, sử cũ ghi rõ “để vua tiện ngự xem tụng kinh”[29]. Khi dựng chùa Diên
Hựu năm 1049, văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng cho biết “để mồng một
hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc
chay... Đó là Bệ hạ dựng chùa thờ Phật để cầu phúc thọ”[30].
Trên vùng đất Quần Ngựa, trước đây Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (EFEO) đã
thu thập được một số gạch ngói và đồ gốm sứ, trong đó có những di vật mang đặc
trưng Lý - Trần. Từ năm 1970 đến 1978, các nhà khảo cổ học đã bốn lần khai quật
một số địa điểm vùng Quần Ngựa. Tại những hố khai quật này đã tìm thấy một số
viên gạch, đồ đất nung trang trí như đầu và thân rồng, vịt... rất giống với những
tiêu bản tìm thấy trong các di tích thời Lý, Trần chứng tỏ có một số kiến trúc Lý Trần nào đó nhưng chưa rõ và khơng nhiều. Mặt khác lại tìm thấy tầng văn hóa
với nhiều di vật gốm sứ và một giếng nước mà thành giếng làm bằng bao nung
sành (ở Đồng Gạch) chứng tỏ khu cư trú bình dân từ Lý, Trần sang Lê sơ.
Diện mạo khu Quần Ngựa như khảo cổ học phát hiện khơng có gì mâu thuẫn
với nhận định đây là bộ phận phía Tây của Hồng thành Thăng Long thời Lý, Trần
vì theo tư liệu lịch sử thì trên khu vực phía Tây này, triều Lý, Trần chỉ xây dựng
một ít kiến trúc chùa quán và cung điện, cịn phần lớn diện tích là ao hồ tự nhiên
được tôn tạo làm nơi thưởng ngoạn và một số cư dân phục dịch cũng được sinh
sống.


Về vấn đề thứ hai, những kết quả nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng,
vùng “thập tam trại” ra đời chậm, khoảng cuối Lê đầu Nguyễn khi vùng đất này đã
bị đưa ra khỏi Hồng thành[31]. Câu chuyện ơng Hồng Lệ Mật cịn lưu truyền phổ
biến và được Phan Huy Chú chép vào Lịch triều hiến chương loại chí[32]. Trại
Vĩnh Phúc Thượng và trại Liễu Giai thờ ông làm Thành hoàng, trại Kim Mã và

Ngọc Khánh phối thờ với các vị thần khác. Trước đình Vĩnh Phúc Thượng có lăng
Thái Tể được coi là lăng mộ ơng Hồng Lệ Mật mà theo Ngọc phả đình Liễu Giai,
tên là Hồng Phúc Trung. Những truyền thuyết đó có thể phản ánh một sự thật lịch
sử là từ thời Lý, một số cư dân làng Lệ Mật được chọn làm phu phục dịch trong
Hoàng thành và được cư trú trong vùng đất phía Tây này. Họ làm việc phát cỏ,
dọn dẹp, cắt cỏ cho voi ngựa... và có thể được khai hoang, lập thành một số xóm
làng cư trú, tất nhiên dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của vương triều. Cần
lưu ý là vùng đất phía Tây của Hồng thành vào thời Lý, Trần còn vẻ hoang sơ, tại
cạnh chùa Diên Hựu cịn có “ruộng rùa” (quy điền) vì có nhiều rùa, năm 1354 có
hổ đen xuất hiện trong thành, sau này, năm 1456 lại có hổ xuất hiện ở chùa Diên
Hựu. Có thể từ thời Lý, một lớp cư dân làng Lệ Mật đã có mặt tại thành Thăng
Long, nhưng công việc khai phá lập thành Thập tam trại diễn ra muộn hơn. Tham
gia khai phá không chỉ có cư dân Lệ Mật mà theo gia phả các họ, cịn có cư dân
đến từ các vùng đất khác, kể cả vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Vì vậy khảo cổ học
phát hiện những di tích cư trú mang tính bình dân trong khu Quần Ngựa cũng phù
hợp với đặc điểm Hồng thành thời Lý, Trần.
1.5. Vịng thành trong cùng là Cấm thành. Tên Cấm thành xuất hiện vào các
năm 1028, 1209, 1212, 1213 trong sử biên niên. Cùng chỉ vịng thành này, cịn có
lúc gọi là Cung cấm (1148), Cấm nội (1137), Đại nội (1045, 1055, 1063, 1180).
Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán chỉ mới xác định Cấm thành ở trong Hoàng
thành, trung tâm là điện Càn Nguyên/Thiên An và có chu vi 4.700 thước, chưa đầy
1,5 km[33]. Phạm Hân nghiên cứu kỹ hơn và xác định quy mô Cấm thành hình
vng mỗi bề chừng 700m, nhưng lại đồng nhất với Long Thành và Long Phượng


thành[34]. Xác định thật cụ thể qui mô và giới hạn từng tường thành cịn có những
quan niệm khác nhau, nhưng về cơ bản khơng có nhiều khác biệt.
Khi xác định phạm vi Cấm thành, các nhà khoa học đều thừa nhận có ba vật
chuẩn khá cụ thể.
Thứ nhất là núi Nùng trên đó xây dựng điện Càn Nguyên sau đổi thành Thiên

An và sang thời Lê sơ đổi là Kính Thiên mà di tích cịn lại cho đến nay là nền điện
và bậc thềm cùng lan can chạm đá thế kỷ XV. Đó là tâm điểm của Cấm thành qua
các thời kỳ lịch sử từ Lý đến cuối Lê. Trong quan niệm phong thủy cổ truyền, núi
Nùng hay Long Đỗ được coi là nơi hội tụ khí thiêng non sơng nên chính điện của
vương triều phải xây dựng trên ngọn núi thiêng này.
Thứ hai là Đoan Môn, là cửa Nam của Cấm thành đời Lê và theo nhiều tài liệu
lịch sử thì vị trí cửa này khơng thay đổi, dĩ nhiên là qua nhiều lần xây dựng, tu
sửa. Năm 1999, Viện khảo cổ học đào thám sát phía bắc Đoan Mơn đã tìm thấy
nhiều di vật gồm vật liệu xây dựng và đồ gốm sứ từ thời Lý, Trần đến Lê sơ, Lê
Trung hưng và một số vết tích kiến trúc như viền đá lát chân tường Đoan Môn,
nền lát gạch, đặc biệt một đoạn đường hai bên viền gạch xếp hình hoa chanh đặc
trưng thời Trần. Đoạn đường này dài 15,80m, lịng đường rộng 1,30m, chạy từ
chính giữa cửa Đoan Mơn về phía điện Kính Thiên theo hướng bắc - nam. Theo
nhận định của những người khai quật thì Đoan Mơn, kể cả con đường lát gạch
chạy về phía điện Càn Nguyên/Thiên An, được xây dựng từ thời Lý, với những
loại gạch, ngói ống màu đỏ, đầu ngói và gạch lát in hình hoa sen. Sang thời Trần,
kiến trúc bị phá hủy và nhà Trần xây dựng lại con đường bằng vật liệu Trần có sử
dụng một số vật liệu Lý. Thế kỷ XV, nhà Lê cho san lấp và dựng lên một Đoan
Môn mới. Đoan Môn này cũng qua nhiều lần tu sửa nhưng trên nền tảng kiến trúc
thời Lê sơ[35]. Như vậy, kết quả thám sát khảo cổ học xác nhận ghi chép của thư
tịch cho rằng Đoan Mơn hiện tồn xây dựng trên vị trí của Đoan Môn từ Lý, Trần
đến Lê sơ và Lê Trung hưng.


Thứ ba là chùa Một Cột ở về phía Tây của Cấm thành như văn bia tháp Sùng
Thiện Diên Linh đã chép.
Nếu như Cấm thành thời Lý, Trần sang thời Lê sơ khơng thay đổi thì có thể
dựa vào bản đồ thành Đơng Kinh để hình dung Cấm thành gần như hình vng.
Từ đó có thể xác định Cấm thành có trung tâm là điện Kính Thiên, phía Nam có
Đoan Mơn, phía Tây gần chùa Một Cột hiện nay.

Ngồi ra có thể kể thêm một căn cứ thời Lê góp phần xác định giới hạn phía
Tây và phía bắc của Cấm thành. Đó là vị trí của Khán Sơn và Tam Sơn.
Khán Sơn thời Lê được phản ánh trong nhiều bản đồ cổ và tư liệu lịch sử. Bản đồ
Đông Kinh thời Lê vẽ Khán Sơn hay chùa Khán Sơn (Khán Sơn tự) ở vị trí phía
ngồi và gần góc tây bắc của Cấm thành (Hồng Đức bản đồ, A. 2499; Thiên tải nhàn
đàm, A. 2716, A.3034, A. 2006; An Nam quốc Trung Đô tịnh thập tam thừa tuyên, A
2531; Thiên Nam tứ chí lộ đồ, A.73; Tồn tập Thiên Nam lộ đồ, A.1081). Nhưng khi
nhà Nguyễn xây thành Thăng Long - Hà Nội thì Khán Sơn lại nằm vào góc tây bắc
trong thành[36], tức khoảng góc tây bắc phố Phan Đình Phùng và đường Hùng Vương.
Như thế giới hạn phía Tây của Cấm thành ở vào khoảng giữa Quảng trường Ba Đình
hiện nay, tức khoảng giữa đường Hùng Vương và đường Độc Lập.
Tam Sơn là ba gò đất gồm hai gò tự nhiên cách nhau chừng 20 trượng (hơn
60m) và một gò đắp thêm ở giữa, chu vi hơn 30 trượng (gần 100m), nằm về phía
bắc thành Hà Nội[37], tức ở vào phía Nam phố Phan Đình Phùng, gần Cửa Bắc hiện
nay. Núi Tam Sơn trước đây nằm ở phía bắc Cấm thành. Như thế, giới hạn phía
bắc của Cấm thành là ở vào phía Nam phố Phan Đình Phùng hiện nay.
Về giới hạn phía Nam của Cấm thành, trong Long Biên bách nhị vịnh, lời tiểu
dẫn bài Vịnh Cột Cờ cho biết Cột Cờ thời Nguyễn xây trên nền cửa Tam Mơn ở
phía trước cửa Đoan Mơn, có từ thời Lý. Như vậy giới hạn phía Nam của Cấm
thành là khoảng Cột Cờ hiện nay.


Trên cơ sở những vật chuẩn và một số giới hạn bổ sung như trên, có thể phác
họa một cách tương đối vị trí và phạm vi của Cấm thành thời Lý, Trần.
1.6. Thành Đông Quan thời Minh thuộc. Trong thời Minh thuộc (1407-1427),
nhà Minh lập quận Giao Chỉ và dùng thành Đơng Đơ làm trị sở của chính quyền
đơ hộ, gọi là Phủ thành Giao Chỉ hay Phủ thành Giao Châu, thường gọi là thành
Đơng Quan.
Tơi chưa tìm thấy một tư liệu nào phản ánh công việc xây dựng quy mơ tại
Đơng Quan, có lẽ nhà Minh vẫn giữ nguyên cấu trúc và quy mô thành Đông Đô

thời Trần, Hồ. Trước đây, khi khảo sát di tích Đồi Mơn hay Ủng Mơn ở Cống Vị,
quận Ba Đình, nằm giữa đường Bưởi và sông Tô Lịch, nhân dân thường gọi là
“Đấu Đong” hay “Đấu Đong quân”, tôi ngờ là cổng thành phía Tây do nhà Minh
xây dựng. Nhưng kết quả khai quật tháng 10-2003 do Bảo tàng lịch sử và Sở Văn
hóa thơng tin Hà Nội thực hiện, cho biết đây là một tịa thành nhỏ hình chữ nhật
gần vng, dài 54m, rộng 52m, có niên đại khoảng giữa thế kỷ XVIII, dưới là tầng
văn hóa cư trú thời cuối Lý đến đầu Lê sơ[38].
Do nhu cầu quân sự, nhà Minh đặc biệt tập trung vào việc xây dựng một “Khu
Diễn Võ” bên ngồi về phía Tây Nam Phủ thành (tức thành Đơng Quan), chu vi 12
dặm, trong đó dựng đình Diễn Võ ba gian và phía ngồi có một thành đất “chạy
dài từ đông sang tây, xuống tây nam, khoảng 5 hay 6 dặm, phía Đơng đến góc
đơng nam Phủ thành [Đông Quan]”[39]. Đây là chỉ huy sở của quân Minh do Tổng
Binh đứng đầu, quân sĩ có 12 doanh, mỗi doanh có doanh trại, xung quanh xây
tường, mở bốn cửa đông, tây, nam, bắc. Tại đây, Tổng binh chỉ huy 15 vệ quân
Minh chia đóng tại các châu, phủ. Hệ thống quân sự này do Trương Phụ lập ra
trong thời gian chỉ huy quân Minh tại Giao Chỉ. Khu Diễn Võ này chính là khu
Giảng Võ - Ngọc Khánh hiện nay nằm trong phạm vi đường La Thành, phố Giảng
Võ và Kim Mã. Thực ra khu quân sự này đã hình thành từ thời Lý, Trần. Năm
1170, vua Lý Anh Tơng “tập bắn và cưỡi ngựa ở phía Nam thành Đại La, đặt tên


là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận”[40].
Năm 1253, nhà Trần lập Giảng Võ đường tại đây.
2. Thành Thăng Long - Đông Kinh thời Lê Sơ - Mạc - Lê Trung hưng
2.1. Thành Đông Kinh thời Lê sơ (1428-1527).
Năm 1428, triều Lê khôi phục quốc hiệu Đại Việt và năm 1430 đổi tên kinh
thành là Đông Kinh. Trong thời Lê sơ, quy mô thành Đại La hầu như không thay
đổi và năm 1477 được xây dựng lại. Vòng thành giữa được gọi là Hoàng thành.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, tên Hồng thành xuất hiện đầu tiên năm 1463 và
sau đó sử biên niên ghi chép vào các năm 1467, 1514, 1516. Đặc biệt, trong Quốc

triều hình luật, việc bảo vệ Hoàng thành được quy định chặt chẽ và nhắc nhiều lần
trong các điều 51, 52, 53, 56, 62, 80, 81, 82, 91, 9294, 96 [41]. Theo tơi, chúng ta có
đủ căn cứ để khẳng định tên gọi Hoàng thành trong thời Lê sơ và từ đó thường
được dùng để gọi chung vòng thành giữa của các kinh thành mang cấu trúc “tam
trùng thành quách”. Trong thời Lê sơ, thời Mạc và Lê Trung hưng, Hồng thành
cịn được gọi là thành Thăng Long.
Hoàng thành thời Lê sơ trải qua hai lần mở rộng:
Lần thứ nhất vào năm 1490: “[Năm Giáp Tuất, Hồng Đức thứ 21 (1490)]
tháng 11, đắp rộng thêm Phượng Thành theo quy mô thời Lý, Trần. Vua cảnh giác
về việc Nhân Tơng bị hại, nên lấy lính đắp thành đó. Đồng thời phía ngồi Trường
đấu võ, mở rộng đến 8 dặm, sau 8 tháng thì đắp xong”[42]. Như vậy, Lê Thánh
Tơng đã mở rộng Hồng thành về phía Tây Nam trên cơ sở khu quân sự thời Lý,
Trần và Khu diễn võ của thành Đông Quan thời Minh thuộc. Đó là khu Giảng Võ,
Ngọc Khánh hiện nay.
Lần thứ hai vào năm 1516, vua Tương Dực “[Bính Tý, năm Hồng Thuận thứ 8
(1516)] trước đây vua thích làm nhiều cơng trình thổ mộc, đắp thành rộng lớn mấy
nghìn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở
phường Kim Cổ, từ phía Đơng đến phía Tây Bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên


đắp Hồng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá
phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang”[43]. Xung quanh việc mở rộng
Hồng thành lần này, các nhà khoa học có những cách hiểu và giải thích khác
nhau. Có người cho rằng, với lần mở rộng năm 1516, Hồng thành phía bắc bao
trùm cả sơng Tơ Lịch và có thể dấu tích là đoạn đường Thụy Khê hiện nay. Xác
định cụ thể phạm vi và ranh giới lần mở rộng này còn phải tìm thêm cứ liệu khoa
học. Hơn nữa vương triều Lê sơ lúc đó đã suy sụp nghiêm trọng, vua Tương Dực
đưa ra kế hoạch mở rộng Hoàng thành vào đầu năm Bính Tý - 1516 thì đến tháng
4, vua đã bị phái Trịnh Duy Sản giết chết, vậy liệu cơng trình thổ mộc quy mơ lớn
này có được hồn thành khơng?

Trong các cửa Hồng thành thì cửa Nam là cửa Đại Hưng vẫn giữ nguyên tên
từ thời Lý, cửa Đơng gọi là cửa Đơng Hoa, sử liệu cịn ghi Cửa Tây, cửa Bắc
Thần, cửa Bảo Khánh.
Điều may mắn cho việc nghiên cứu thành Thăng Long - Đông Kinh thời Lê là
ngoài các loại tư liệu chữ viết, chúng ta có thêm những bản đồ cổ. Đó là bộ bản đồ
quen gọi là Bản đồ Hồng Đức vì do vua Lê Thánh Tơng hồn thành trong thời
gian niên hiệu Hồng Đức (1470-1497). Năm 1467, nhà vua sai 12 thừa tuyên điều
tra địa hình cùng sơng núi, sự tích trong vùng rồi vẽ thành bản đồ từng thừa tuyên.
Trên cơ sở đó, Bộ hộ tập hợp thành bản đồ cả nước trong đó có bản đồ Đơng
Kinh, hồn thành năm 1490. Hiện nay bản đồ năm 1490 khơng cịn nữa, nhưng tại
Viện nghiên cứu Hán Nơm cịn lưu giữ được hơn 10 bản đồ mang ký hiệu và gắn
liền với những tên sách khác nhau (chỉ tính những bản đồ có thành Thăng Long Đông Kinh đầy đủ). Các nhà nghiên cứu đều nhận thấy đây là những truyền bản về
sau của Hồng Đức bản đồ mang niên đại thời cuối Lê đầu Nguyễn và có những
khác biệt nhất định, thêm vào một số địa danh và kiến trúc sau Lê sơ mà điển hình
là Vương phủ[44]. Giám định niên đại từng bản đồ còn là vấn đề văn bản học đang
đặt ra và cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là những tư liệu bản đồ cổ rất
quý giúp chúng ta hình dung rõ hơn cấu trúc của thành Đông Kinh đời Lê.


Theo những bản đồ cổ này thì Hồng thành thời Lê mở rộng sang phía Tây,
mặt bắc và mặt tây dọc theo bờ sông Tô Lịch, đến khoảng Cầu Giấy thì rẽ sang
phía Đơng theo đường La Thành rồi đường Giảng Võ đến quãng Kim Mã nối với
đường thành phía Nam qua cửa Đại Hưng. Cả khu Giảng Võ - Ngọc Khánh được
đưa vào phạm vi Hồng thành. Trên vịng thành này, bản đồ chỉ ghi cửa Đại Hưng,
cửa Đông Môn và cửa Bảo Khánh. Cửa Bảo Khánh nằm trên đường La Thành gần
ngã ba nối với phố Giảng Võ mà dấu tích cịn lại là thơn Bảo Khánh thuộc trại
Giảng Võ, tổng Nội, huyện Vĩnh Thuận thời Nguyễn. Tại cổng làng xây bằng gạch
mở ba cửa vào thôn này cho đến những năm 1990 khi chúng tôi đi khảo sát vùng
Giảng Võ, còn thấy ba chữ Hán “Bảo Khánh Mơn”. Cổng đã bị phá nhưng vị trí ở
cổng đình Giảng Võ, gần nhà số 55, ngõ 612 đường Giảng Võ hiện nay. Trong

kho địa bạ thời Nguyễn, còn lưu giữ địa bạ thôn Bảo Khánh với niên đại Gia Long
4 (1805)[45]. Dĩ nhiên cổng làng Bảo Khánh Môn không phải là cửa Bảo Khánh
của Hoàng thành thời Lê, nhưng địa danh Bảo Khánh cịn ẩn chứa thơng tin về vị
trí tương đối của cửa thành Bảo Khánh xưa.
Theo Hình luật chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú
thì bốn cửa Hồng thành mang tên Đơng Hoa, Đại Hưng, Bắc Thần và Thiên
Hựu[46].
Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) quê ở Kim Lũ, huyện Thanh Trì, sống vào thời
cuối Lê đầu Nguyễn, là một học giả uyên bác hiểu biết sâu sắc về Thăng Long Hà Nội. Trong Đại Việt địa dư tồn biên hay cịn gọi là Phương Đình dư địa chí,
có đoạn mơ tả khá rõ ràng về Hoàng thành đời Lê: “Căn cứ vào bản đồ thành
Thăng Long thời Hồng Đức thì thành này hình như thước thợ mộc. Ba mặt đông,
nam, bắc vuông vắn, mặt tây và nam dài bằng một nửa. Đông Môn bắt đầu từ thôn
Đức Môn (trước là thôn Đông Môn) tổng Đồng Xuân, theo hướng bắc đến sông
Tô Lịch, theo bờ bên tả qua Bắc Mơn về phía Tây đến phường Nhật Chiêu, theo về
phía Nam là cửa Bảo Khánh, đến trước bên hữu Văn Miếu, lại qua phía tả là Nam
Mơn, đi thẳng về phía Đơng. Đấy là dấu cũ thành Thăng Long”[47]. “Thành Thăng


Long” chính là Hồng thành với quy mơ khá rộng và có thể xác định được qua bản
đồ cổ và các sử liệu.
Hoàng thành Thăng Long thời Lê sơ vẫn gồm phần trung tâm chính trị của
vương triều ở phía Đơng, trong đó có Cấm thành, và một khu vực phía Tây. Trên
vùng đất phía Tây này, lúc đầu vùng Khán Sơn - Ngọc Hà được quy hoạch
như một khu vực quân sự. Tại đây, vua Lê Thái Tổ dựng điện Giảng Võ, sau đó,
vua Lê Thánh Tơng lập thêm đình Giảng Võ và mở sân Giảng Võ. Nhà vua
thường lên núi Khán để xem thao diễn quân đội, vì vậy núi này mang tên Khán
Sơn. Sử biên niên nhiều lần ghi chép về thi tập võ nghệ của quân Ngự tiền, tập
trận của tượng binh... tại sân điện Giảng Võ hay điện đình Giảng Võ (năm 1435,
1467, 1478).
Tại khu luyện tập võ nghệ thời Lý, Trần và khu Diễn võ thời Minh thuộc ở

vùng Giảng Võ - Ngọc Khánh, sang thời Lê sơ vẫn là Trường thi võ nghệ hay
Trường đấu võ, trong đó có Trường bắn, nơi diễn ra những cuộc thao diễn của
quân Năm phủ và luyện thi võ nghệ. Năm 1481, Lê Thánh Tông chuyển điện
Giảng Võ về khu vực này và năm 1490 đưa cả khu vực này vào bên trong Hoàng
thành. Trên núi Khán, vào đời Vĩnh Tộ (1619-1628), dựng chùa Khán Sơn (Khán
Sơn tự), có tượng thờ vua Lê Thánh Tơng, đến thời Tây Sơn chuyển tượng về
chùa Huy Văn[48]. Cũng trong thời Lê Trung hưng, năm 1664 lại mở Trường thi
Hội tại khu Giảng Võ. Vì vậy một số bản đồ Hồng Đức, trên khu phía Tây Bắc
Cấm thành có ghi “Khán Sơn tự” và trên Giảng Võ - Ngọc Khánh ghi “Giảng Võ
điện”, “Hội thí trường”.
Hồng thành thời Lê có một thay đổi quan trọng là mở rộng về phía Tây Nam.
Trên một số bản đồ Hồng Đức, trong khu vực phía Tây của Hồng thành cịn một
đoạn thành chạy từ đền Linh Lang (đền Voi Phục) theo hướng tây-đông đến Cấm
thành, gần vị trí của đường Kim Mã hiện nay (A. 2499, A.2716, A.1362, A.73,
A.3034, A.1081, VHt.41). Có lẽ đó là dấu tích đoạn Hồng thành thời Lý, Trần
(?).


Cấm thành đời Lê còn gọi là Cung thành. Cấm thành cũng được thể hiện khá
rõ trên bản đồ Hồng Đức. Nguyễn Văn Siêu miêu tả Cấm thành tức Cung thành
như sau: “ở giữa là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn, trong Đoan
Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu điện
Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây
Trường An, bên tả là Đơng Trường An... Ngồi Cung thành là Hồng thành, về
phía Đơng phía trước là Thái Miếu, phía sau là Đơng Cung...”[49]. Như vậy Cấm
thành gần như hình vng, theo Nguyễn Văn Siêu không bao gồm Thái Miếu và
Đông Cung. Hai vật chuẩn quan trọng để định vị Cấm thành vẫn là Đoan Mơn
(cịn gọi là Đoan Minh) và điện Kính Thiên được xây dựng lại vào thời Lê sơ và di
tích cịn được bảo tồn cho đến nay, dĩ nhiên qua nhiều lần trùng tu sau đó. Kết quả
khai quật Đoan Mơn năm 1999 xác nhận di tích Đoan Mơn hiện cịn là do nhà Lê

xây dựng lại vào thế kỷ XV trên nền kiến trúc Lý, Trần.
Như vậy, Cấm thành đời Lê sơ hầu như không thay đổi so với thời Lý, Trần,
dĩ nhiên các cung điện bên trong thì nhiều lần xây dựng và tu sửa. Theo Hình luật
chí thì Cấm thành đời Lê có nhiều lớp cửa, từ ngồi vào có cửa Đoan Minh (Đoan
Mơn), Hữu Dực, Tường Huy, Đại Định, Trường Lạc, Đại Khánh, Kiến Bình,
Huyền Vũ, rồi đến lớp “cửa điện thứ nhất” là Tộ Võ, Văn Minh, Thơng Văn, Sùng
Hố, lớp “cửa điện thứ hai” là Gia Hữu, Thái Hoà, và trong cùng là “cửa cung” có
cửa Tả Dịch, Hựu Dịch, Vọng Vân[50].
2.2. Thời Mạc và Lê Trung hưng (1427-1789)
Trong thời nhà Mạc, Hồng thành và Cấm thành hầu như khơng thay đổi. Nhà
Mạc đã nhiều lần xây dựng, tu bổ các cung điện và nhất là lo tăng cường, mở rộng
hệ thống phịng vệ để đối phó với những cuộc tiến công của quân Trịnh trong cuộc
chiến Nam - Bắc triều.
Năm 1587, “họ Mạc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long”[51] và “đắp
lũy đất các xứ, trên từ sông Hát xuống đến sơng Hoa Đình, kéo dài đến vài trăm
dặm”[52].


×