Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

bài báo cáo kỹ thuật nuôi tôm hùm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.64 KB, 16 trang )

TÀI LIỆU
KỸ THUẬT NUÔI TÔM HÙM
( PANULIRUS ) TRONG LỒNG
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 1
Mục lục
Chương 1 Giới thiệu
1.1Đặt vấn đề
Ngành thủy sản hiện nay được xem là một trong những ngành mũi nhọn
của quốc gia và được xác định là mục tiêu chiến lược để phát triển kinh tế. Do
đó, nghề nuôi trồng thủy sản ngày càng trở nên quan trọng trong việc phục vụ
nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, đặc biệt là các loại thủy đặc hữu. Đa
dạng hoá giống loài nuôi trồng là mục tiêu hàng đầu để đạt được sự phát triển
bền vững.
Nuôi tập trung nước mặn so với NTTS tập trung nước ngọt và nước lợ
thì nuôi tập trung nước mặn vẫn còn ở giai đoạn phát triển thấp và chưa tương
xứng với tiềm năng, thể hiện ở số lượng lồng và diện tích nuôi nhỏ, sản lượng
thấp. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá biển, nhuyễn thể, rong biển, giáp xác với
các loài phổ biến như cá giò, song, Hồng Mỹ, chẽm, cá tráp, ngao, sò huyết,
trai ngọc, tom hùm theo hình thức nuôi lồng, lưới quây, nuôi cọc
Kỹ thuật nuôi tôm hùm lồng trên biển đã được áp dụng thành công ở
một số tỉnh ven biển miền Trung nước ta từ cuối năm 1993. Nuôi tôm hùm tập
trung vùng biển Nam Trung Bộ như Sông Cầu-Phú Yên; Vạn Ninh và Ninh
Hoà-Khánh Hoà; tỉnh Ninh Thuận, Bình Định Để nắm rõ hơn về kĩ thuật nuôi
đối tượng có giá trị kinh tế này tôi xin thực hiện chuyên đề: ” Kĩ thuật nuôi
tôm hùm trong lồng”
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 2
2.3 Tình hình nuôi tôm hùm (Panulirus spp.) trong nước
Nhìn chung nuôi cá biển bằng lồng ở nước ta ngày càng phát triển. Năm
2001 tổng số lồng nuôi trên biển là 3.990 lồng, đến năm 2005 đã đạt 7.115
lồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân năm 18,4%/năm. Trong khi đó, sản
lượng cá biển nuôi năm 2001 đạt 2.150 tấn và đến năm 2005 đạt 5.010 tấn, tốc


độ tăng 19,8%/năm, năm 2007 tăng lên 15.000 tấn. Các vùng nuôi biển tập
trung chủ yếu ở các khu vực miền Bắc như Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ
An với tổng số lồng nuôi các loại khoảng gần 15.200 ô lồng các loại, hoặc
vùng duyên hải Nam miền Trung như Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình
Thuận với tổng số lồng nuôi các loại khoảng gần 3.530 ô lồng các loại. Đối
tượng nuôi lồng chủ yếu của phía Bắc là cá song, cá giò, Hồng Mỹ, tráp, trai
ngọc, còn ở khu vực miền Trung là cá mú, tôm hùm
Ngoài ra, khu vực ĐBSCL cũng có một số diện tích mặt nước biển được nuôi
theo hình thức lồng, bè với đối tượng nuôi chủ yếu là cá mú và cá bớp, tập
trung chủ yếu ở tỉnh Kiên Giang. Số lượng lồng nuôi cũng gia tăng khá nhanh,
năm 2007 mới chỉ có 131 lồng, đạt sản lượng 90 tấn, tập trung chủ yếu ở vùng
biển Tây thuộc địa phận tỉnh Kiên Giang như khu vực Hòn Tre của xã Nam Du
(huyện Kiên Hải), xã Hòn Nghệ và xã Sơn Hải (huyện Kiên Lương), xã Tiên
Hải (thị xã Hà Tiên), Hòn Thơm, Gành Dầu (Phú Quốc) (VIFEP, 2007). Đến
nay, số lượng lồng toàn tỉnh đã tăng lên gần 900 lồng, đạt sản lượng hơn 500
tấn cá các loại.
Kỹ thuật nuôi tôm hùm lồng trên biển đã được áp dụng thành công ở
một số tỉnh ven biển miền Trung nước ta từ cuối năm 1993. Nuôi tôm hùm tập
trung vùng biển Nam Trung Bộ như Sông Cầu-Phú Yên; Vạn Ninh và Ninh
Hoà-Khánh Hoà; tỉnh Ninh Thuận, Bình Định con giống hoàn toàn từ tự
nhiên. Năm 1999 toàn quốc có 7.289 lồng, đạt sản lượng 425 tấn và năng suất
trung bình 58 kg/lồng; đến năm 2005 đạt tương ứng 43.516 lồng, 1.795 tấn và
41kg/lồng. Do giá thương phẩm tôm hùm bông khá cao, do vậy nghề nuôi tôm
hùm lồng hiện đang được phát triển mạnh. Vùng có tôm hùm giống chủ yếu tập
trung ở đầm Cù Mông tỉnh Bình Định và huyện Sông Cầu tỉnh Phú Yên. Hàng
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 3
năm, tỉnh Bình Định đã ương giống tôm hùm giống từ cỡ nhỏ thành giống từ
600000 – 800000 con.
Chương 2. Lược khảo tài liệu
2.1 Đặc điểm sinh học

2.1.1 Phân loại
Tôm hùm là tên gọi chung của nhóm giáp xác mười chân thuộc 4 họ:
Palinuridae, Scyllaridae, Nephropidae và Synaxidae, giữa chúng có những
điểm đặc trưng về tập tính và môi trường sống. Với sự phong phú về thành
phần giống loài, chúng tạo nên mắt xích quan trọng trong chuỗi thức ăn và có
vai trò thiết yếu trong hệ sinh thái của biển và đại dương. Ở Việt Nam, cho đến
nay đã xác định được 9 loài thuộc họ tôm hùm gai (Palinuridae), 9 loài thuộc
họ tôm mũ ni (Scyllaridae) và 4 loài thuộc họ Nephropidae. Trong đó, một số
loài thuộc họ tôm hùm gai được nuôi phổ biến hiện nay như tôm hùm Bông
(tôm hùm Sao, tôm hùm Hèo), tôm hùm Đá (xanh chân ngắn), tôm hùm Đỏ
(hùm lửa), tôm hùm Sỏi (xanh chân dài, hùm ghì), tôm hùm Tre (Tề Thiên).
Sau đây là vị trí phân loại một số loài tôm hùm nuôi ở Việt Nam:
Nghành chân đốt (Arthropoda)
Lớp giáp xác (Crustacea)
Bộ mười chân (Decapoda)
Hộ tôm hùm gai (Palinuridae)
Giống Panulirus
Loài P.ornatus (Fabricius, 1798) – tôm hùm Bông
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 4
Loài P.homarus (Linnaeus, 1758) – tôm hùm Đá
Loài P.longipes (A.Milne Edwards, 1868) – tôm hùm Đỏ
Loài P.stimpsoni Holthuis, 1963 – tôm hùm Sỏi
Loài P.polyphagus (Herbst, 1793) – tôm hùm Tre.
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Hình 2.1 Hình thái tôm hùm Panulirus spp
Cơ thể tôm hùm Panulirus spp. chia thành phần đầu ngực và phần bụng.
Phần đầu ngực gồm 14 đốt hợp lại với nhau, mỗi đốt có một đôi phần phụ
ngực; 6 đốt đầu tiên tạo nên phần đầu và 8 đốt cuối tạo nên phần ngực. Các
phần phụ trên phần đầu ngực gồm có: 5 đôi chân bò; 1 đôi mắt kép có thể cử
động, bất động, hoặc co ngắn lại; có 2 đôi anten, anten thứ nhất có phân nhánh,

anten thứ hai rất dài và có nhiều gai nhỏ; phần miệng có hàm trên, hàm dưới và
các mảng chân hàm. Phần bụng gồm có 6 đốt, các đốt được bảo vệ bằng lớp vỏ
kitin ở cả phần lưng, phần bên và phần bụng. Từ đốt bụng thứ 2 đến thứ 5 có 4
đôi chân bơi, đốt bụng thứ 6 biến thành chân đuôi và telson rất cứng và chắc
chắn.
2.1.3 Đặc điểm dinh dưỡng
Trong tự nhiên, tôm hùm là động vật ăn tạp, thường đi kiếm ăn và ăn
mồi nhiều vào chiều tối; chúng thích các loại mồi sống như tôm, cua, ghẹ đang
lột xác, sò, vẹm hoặc cá rạn,
Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng duy nhất cho tôm hùm sinh trưởng và
phát triển. Tuy nhiên, chúng chỉ sử dụng 7-10% lượng thức ăn ăn vào cho tăng
trọng cơ thể; còn lại tiêu tốn vào các quá trình hoạt động sống khác. Nhu cầu
dinh dưỡng của tôm hùm khác nhau tùy từng giai đoạn phát triển, tôm càng
nhỏ nhu cầu dinh dưỡng càng cao, ở giai đoạn trước lột xác 2 - 5 ngày tôm ăn
rất mạnh và ngược lại ở giai đoạn lột xác chúng sẽ ăn ít lại.
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 5
2.1.4 Đặc điểm sinh trưởng
Hình 2.2 Vòng đời của tôm hùm Panulirus spp.
Sinh trưởng của tôm hùm đặc trưng bởi quá trình lột xác, qua đó có sự
tăng lên về kích thước và trọng lượng. Chu kỳ lột xác của mỗi loài tôm hùm
phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh như: nhiệt độ nước, ánh sáng, độ mặn,
thức ăn, và các yếu tố nội tại của cơ thể như sự điều tiết của các hormon lột
xác hay hormon ức chế lột xác, Các yếu tố này luôn có mối quan hệ mật thiết
và ảnh hưởng lẫn nhau. Chu kỳ lột xác của các loài hay giữa các giai đoạn khác
nhau của từng loài không giống nhau. Ở giai đoạn tôm con (chiều dài giáp đầu
ngực - CL = 8-13 mm), thời gian giữa hai lần lột xác của tôm hùm Bông và
tôm hùm Đá khoảng 8-10 ngày, tôm hùm Sỏi khoảng 15-20 ngày. Còn ở giai
đoạn tôm lớn (63-68 mm CL) thời gian giữa 2 lần lột xác tương ứng là khoảng
40 ngày và 50 ngày.
2.1.4 Đặc điểm sinh sản

Dọc biển miền Trung, rải rác quanh năm đều có thể bắt gặp tôm hùm ôm
trứng. Các loài tôm hùm khác nhau thì kích cỡ tham gia sinh sản lần đầu và
mùa vụ sinh sản cũng khác nhau. Chẳng hạn, ở loài tôm hùm Bông (Panulirus
ornatus), kích cỡ tham gia sinh sản lần đầu của con đực là 110,6 mm CL và ở
con cái là 97,3 mm CL (chiều dài giáp đầu ngực); ở tôm hùm Đá (P. hormarus)
kích cỡ tham gia sinh sản lần đầu khoảng 66,7 mm CL ở con đực và 56,9 mm
CL ở con cái. Đỉnh cao sinh sản của loài tôm hùm thường tập trung vào tháng 4
và tháng 9 hàng năm, riêng tôm hùm Sỏi đỉnh cao sinh sản xuất hiện vào tháng
5 và tháng 6. Sức sinh sản của tôm hùm tương đối lớn, chúng có thể đẻ từ 2 đến
nhiều lần trong năm. Khi sinh sản, trứng được giữ ở các chân bơi, sau một thời
gian trứng sẽ nở ra ấu trùng và ấu trùng sẽ trải qua các giai đoạn biến thái để
trở thành tôm con.
2.2 Một số yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự phân bố tôm hùm
(Panulirus spp.)
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 6
Hầu hết các giống có thành phần loài phong phú thuộc họ tôm hùm Gai
(Palinuridae) đều tập trung ở vùng biển nhiệt đới. Chúng sống từ vùng trung
triều đến vùng biển sâu tới 3.000 m, thành bầy đàn trong hang để bảo vệ nhau
và trốn tránh kẻ thù. Tìm hiểu về môi trường vùng phân bố tôm hùm sẽ giúp
hiểu được những đặc điểm sinh thái tự nhiên của chúng, từ đó lựa chọn được
vùng nuôi có đặc điểm môi trường thích hợp, đồng thời điều chỉnh các thông số
như độ sâu, độ mặn, theo từng giai đoạn phát triển, giúp tôm thích nghi tốt
với điều kiện nuôi lồng.
2.2.1 Nền đáy
Cấu tạo nền đáy là một trong những yếu tố môi trường quan trọng, quyết
định sự phân bố của tôm hùm, đặc biệt là tôm hùm trưởng thành. Tôm hùm
thường tập trung chủ yếu trong các hang hốc có nền đáy là đá, san hô, đá tảng,
bùn, cát hoặc thảm thực vật (tảo bẹ). Riêng tôm hùm Bông (Panulirus ornatus),
tôm hùm Đá (P. homarus), tôm hùm Đỏ (P. longipes) và tôm hùm Sen (P.
versicolor) thường sinh sống ở những hang đá tảng và hang đá nhỏ có ánh sáng

rọi tới; tôm hùm Tre (P. polyphagus) lại thích vùi mình dưới cát vì thế hay gặp
loài này phân bố ở những vùng đáy cát, đá cuội có rong phát triển.
2.2.2 Độ sâu
Độ sâu có ảnh hưởng đến sự phân bố của các loài tôm hùm trong tự
nhiên. Ở giai đoạn tôm con, chúng phân bố ở độ sâu 1-5m nước, nhưng đến
giai đoạn trưởng thành thì hầu hết các loài tôm hùm phân bố ở độ sâu trong
khoảng từ 5-100m nước, cá biệt cũng gặp ở độ sâu đến 180-400m như loài
Panulirus delagoae. Nghiên cứu của một số tác giả cho thấy, ở vùng biển miền
Trung Việt Nam, tôm hùm con bắt gặp ở độ sâu từ 0,5-5m nước. Tuy nhiên,
trong cùng một vùng nhưng các loài khác nhau lại sống ở độ sâu khác nhau,
theo mức độ tăng dần như sau: tôm hùm Sỏi (Panulirus stimpsoni); tôm hùm
Bông (P. ornatus); tôm hùm Đá nhỏ (P. homarus); tôm hùm Đỏ (P. longipes),
khoảng 4-6m sâu. Do vậy, khi ương nuôi tôm hùm cần chú ý đến độ sâu khi đặt
lồng, thường ở 2-3m. Giai đoạn trưởng thành, tôm hùm phân bố ở độ sâu trên
10m cho tới 35-50m, thường là các rạn san hô, ven bờ và hải đảo.
2.2.3 Nhiệt độ nước
Nhiệt độ nước là một trong những tham số sinh thái quan trọng, quyết
định sự phân bố của các giống tôm hùm trong họ Palinuridae. Hầu hết các loài
thuộc giống Panulirus sống ở vùng nước ấm, nhiệt độ dao động từ 20-30
o
C,
trung bình khoảng 25
o
C, đó là những vùng thềm lục địa, vĩ độ thấp khoảng 35-
40
o
.
Ở vùng biển miền Trung nước ta, những số liệu điều tra cho thấy, nhiệt
độ nước trong vùng phân bố tự nhiên của tôm hùm Bông nhỏ dao động từ 24-
31

o
C; còn của tôm hùm trưởng thành từ 26-29
o
C vào mùa hè và khoảng 22-
27oC vào mùa đông. Hơn nữa, khi nhiệt độ nước thay đổi đột ngột, chẳng hạn
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 7
như tăng lên 3-5
o
C thì hầu như tôm hùm con các loài đều bị chết, khi giảm
nhiệt độ nước xuống 5
o
C pha lột xác của tôm hùm sẽ chậm dần và dừng lại
hoàn toàn.
2.2.4 Độ mặn
Độ mặn là một trong những yếu tố gây ảnh hưởng mạnh đến đời sống
của tôm hùm, đặc biệt là tôm con. Những số liệu điều tra cho thấy vùng phân
bố tôm hùm con ngoài tự nhiên có độ mặn dao động trong khoảng 33-34‰. Sự
thay đổi đột ngột độ mặn (từ 5-15‰) sẽ làm hoạt động bắt mồi của tôm con
giảm từ 30-90%, khi độ mặn giảm xuống đến 20-25‰ và kéo dài 3-5 ngày sẽ
gây nên tình trạng chết từ từ ở tôm con. Độ mặn vùng biển có tác động đến
hoạt động bắt mồi, khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu ở tôm hùm con, từ
đó những thay đổi bất lợi hoặc kéo dài thời gian lột xác hoặc gây chết đối với
chúng.
Số liệu điều tra ở khu vực miền Trung Việt Nam cho thấy, tôm hùm trưởng
thành sống ngoài khơi ở độ sâu dưới 10m nước, độ mặn dao động từ 30-35‰
2.2.5 Nguồn thức ăn tự nhiên
Tôm hùm được coi là những động vật ăn mồi sống chủ yếu trong hệ sinh
vật đáy ở biển Ở nước ta, nghiên cứu của một số tác giả cho thấy, thành phần
động thực vật thường gặp ở vùng tôm hùm phân bố bao gồm: các động vật
thuộc giáp xác nhỏ (tôm, cua), thân mềm (sò, vẹm, ốc), cầu gai, sao biển, một

số loài cá (cá đáy, cá rạn san hô), huệ biển, hải sâm và các loài rong, rêu.
Chương 3 Kĩ thuật nuôi tôm hùm bằng lồng (Panulirus spp).
3.1 Chọn địa điểm đặt lồng nuôi.
Chọn địa điểm đặt lồng nuôi tôm hùm là khâu đầu tiên không kém phần
quan trọng. Ðịa điểm chọn đặt lồng nuôi phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Nơi có độ mặn cao, tương đối ổn định nằm trong khoảng từ 30 -36o/oo ít bị
ảnh bỡi lũ, lụt, những vùng biển có nhiệt độ từ 24 -32
0
C tốt nhất là từ 26-30
0
C.
Có nguồn nước trong sạch, ít bị ảnh hưởng bỡi chất thải công nghiệp,
nông nghiệp và đô thị.
Là nơi kín gió, có độ sâu phù hợp cho việc xây dựng và quản lí lồng
nuôi, mức nước tối thiểu khi triều xuống thấp nhất phải đạt 2m, chất đáy là cát;
cát bùn; hoặc chất đáy cát, cát bùn có lẫn đá san hô nhỏ, vỏ động vật thân mềm.
Gần nguồn giống, thức ăn và thuận tiện đường giao thông.
3.2 Thiết kế xây dựng lồng nuôi.
Tùy vào điều kiện từng vùng biển mà có thể thiết kế các kiểu lồng nuôi
khác nhau. Hiện nay có 2 kiểu lồng nuôi phổ biến: kiểu lồng hở và kiểu lồng
kín.
3.2.1 Kiểu lồng hở:
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 8
Là loại lồng được cố định bỡi các cọc gỗ găm xuống đất.
Nguyên vật liệu và cách xây dựng
Kích thước lồng nuôi phù hợp là: 4 x 4(m); 3 x 4(m) và 4 x 5(m), chiều
cao cọc làm lồng phụ thuộc vào độ sâu tại nơi đặt lồng, tốt nhất nên đặt tại nơi
có độ sâu 2 - 5m (lúc thủy triều thấp nhất).
Nguyên vật liệu và cách làm.
Cọc gỗ: có thể dùng gỗ tròn φ =15-20 cm hoặc gỗ xẻ (gỗ 5 x 10 cm),

chiều dài cọc gỗ phụ thuộc vào độ sâu nơi đặt lồng ( cọc gỗ phải có chiều dài
cao hơn độ sâu cao nhất khi triều cường tại nơi đặt lồng khoảng 0,5m). Cọc
được vót nhọn một đầu và được cắm chặt xuống đất, khoảng cách giữa 2 cọc từ
1,5 - 2m.
Nẹp ngang thường dùng gỗ tròn có φ = 12 -15 cm hoặc dùng gỗ xẻ (gỗ 4
x 6 cm), nẹp cách nẹp 1,5 đến 2m.
Sắt làm khung lồng: dùng sắt tròn (sắt rằn) có φ = 18 -20 mm được làm
thành các khung hình chữ nhật, khoảng cách giữa 2 thanh sắt từ 1 -1,2 m, chiều
cao (rộng) của khung sắt làm thân lồng cao từ 1 -2m, lưới lồng được bệnh trực
tiếp vào các khung sắt sau đó lắp ghép lại và được cố định bỡi khung cọc gỗ.
Lưới lồng: Hiện nay, phổ biến là làm lồng theo kiểu lồng 1 lớp hoặc 2
lớp lưới lồng ghép sát vào nhau. Vật liệu bằng lưới nhợ hoặc bằng lưới PE,
kích thước mắt lưới 2a = 25 -35mm (tùy theo cỡ giống thả nuôi), đối với tấm
lưới đáy còn làm thêm một lớp lưới ruồi nhằm đảm bảo thức ăn không bị lọt ra
ngoài khi cho ăn. Ngoài ra để đảm bảo an toàn ta cần gia cố thêm một lớp lưới
cước (cước 150 -180), kích thước mắt lưới 2a = 35 - 40mm tại những phần có
làm khung sắt. Những lồng sử dụng để ương tôm hùm giống thì kích thước mắt
lưới nhỏ hơn sao cho đảm bảo tôm không chui ra được ( 2a < 5mm).
Mặt trên của lồng phải có nắp đậy bằng lưới tránh thất thoát tôm do bắt
trộm hay do triều khi triều cao ngập lồng nuôi. Trong những ngày nắng nóng,
lồng nuôi xây dựng ở những vùng nước nông phải tiến hành che mát cho tôm
trên mặt lồng bằng các vật liệu như lá dừa, cót,. hoặc dùng nắp lồng bằng lưới
ruồi để tránh tôm hoạt động quá nhiều hay tôm bị đóng rong.
3.2.2 Kiểu lồng kín: (lồng di động).
Loại lồng này thích hợp ở những vùng nhiều sóng gió, độ sâu cao.
Kích thước lồng kín thường nhỏ hơn lồng hở để thuận tiện cho việc di
chuyển.
Kích thước lồng phù hợp theo: dài x rộng x cao tương ứng là: 3 x2x2
(m) hoặc 3 x3 x2 (m), được thiết kế giống như một hình hộp chữ nhật được tạo
bỡi các khung sắt hình chữ nhật, trên phần nắp lồng được đặt một cái ống nhựa

φ = 10 -15 cm để thuận tiện trong việc cho ăn.
Vật liệu sắt, cách làm khung, vật liệu lưới và cách bệnh lưới vào khung
sắt tương tự như lồng hở.
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 9
Loại lồng này không cố định bằng cọc, có thể di chuyển một cách dễ dàng từ
nơi này đến nơi khác.
Trong trường hợp tại nơi nhiều sóng gió loại lồng này phải được cố định
bằng các dây neo.
Dù là kiểu lồng kín hay lồng hở ta đều phải đặt lồng cách đáy ít nhất là
0,5m.
Nhược điểm của loại lồng này là khó thao tác chăm sóc quản lí hơn kiểu lồng
hở.
3.2.3 Lồng ương tôm giống
Lồng ương tôm giống chủ yếu thiết kế theo kiểu lồng kín, khung lồng được
làm bằng sắt (φ =16 -20), kích thước lồng phổ biến là 2x2x2 m, lưới lồng được
làm 2 lớp, với kích thươc mắt lưới 2a = 2-3 mm.
3.2.4 Bè nuôi
Hiện nay, do hiện tượng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng nên việc việc
nuôi tôm hùm lồng bằng bè trở nên ưu thế hơn lồng cố định hay lồng chìm, tuy
nhiên việc nuôi tôm hùm bằng bè cần lưu ý một số điểm sau:
Vùng đặt bè phải kín gió, vật liệu làm bè như phao, gỗ, dây neo phải chắt chắn
tránh bè bị chao đảo nhiều.
Cần phải che mát lồng bằng các vật liệu như : Bạc, cót,.
3.3 Thả tôm.
3.3.1 Chọn giống thả nuôi.
Hiện nay, trong nước cũng như trên thế giới chưa sản xuất được giống
tôm hùm, nguồn giống phụ thuộc hoàn toàn vào đánh bắt tự nhiên. Kích cỡ
giống thường không đồng đều, con giống được đánh bắt bằng nhiều phương
tiện khác nhau kể cả việc sử dụng các loại thuốc gây mê, thuốc nổ, thời gian
lưu giữ dài ngày và kỹ thuật lưu giữ không tốt nên khi nuôi thường dẫn đến

một hậu quả là tôm thường chết nhiều vào giai đoạn đầu thả nuôi, tỷ lệ sống
thấp và tôm chậm lớn,
Ðể chọn được giống tốt ta cần chú ý một số vấn đề sau:
Giống nuôi tốt nhất nên mua tại địa phương nhằm tránh sự khác biệt về
điều kiện môi trường, thời gian vận chuyển xa làm yếu tôm và tránh con giống
đã được lưu giữ dài ngày (một số điểm để nhận biết tôm giống đã lưu giữ dài
ngày là : chạt đuôi bị phòng, bị tổn thương; các phụ bộ bị tổn thương đã chuyển
sang màu đen, màu sắc của tôm trở nên đen sậm, vỏ không còn bóng láng và
tôm hoạt động yếu ớt, chậm chạp.)
Giống được đánh bắt một cách tự nhiên không qua việc sử dụng thuốc
nổ hay bất kỳ một loại hóa chất gây mê nào khác.( loại tôm này thường còn
nguyên vẹn các phụ bộ nhưng màu sắc của tôm thường chuyển sang màu hồng
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 10
nhợt nhạt, phần đầu ngực và phần thân dãn ra hơn bình thường trông giống như
tôm bị bệnh lỏng đầu do nhiệt độ nước cao hay độ mặm hạ thấp, tôm hoạt động
chậm chạp yếu ớt; việc đánh bắt tôm tại các vùng biển có độ mặn thấp do ảnh
hưởng của mưa lũ gây ra cũng có hiện tượng tương tự). Khi mua phải loại tôm
này tôm nuôi sẽ chết từ rải rác đến hàng loạt vào giai đoạn đầu thả nuôi.
Tôm giống phải có hình dáng cân đối, đầy đủ các phần phụ, không trầy sướt,
thương tổn, có màu sắt tươi sáng tự nhiên, tôm khoẻ mạnh, không mang mầm
bệnh.
Chọn giống có kích cỡ đồng đều, cùng giới tính để nuôi trong cùng một
lồng, kích cỡ giống nuôi có thể dao động từ 100 -500g/con . Trong trường hợp
sử dụng nguồn con giống có kích cỡ nhỏ như dạng tôm bò cạp ta phải tiến hành
giai đoạn ương nuôi sau đó tuyển chọn lại và đưa và nuôi thương phẩm.
3.3.2 Cách vận chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi.
Tôm hùm có phương thức hô hấp tương tự như các loài cua, ghẹ chúng
có khả năng sử dụng được nguồn oxy trong không khí và có khả năng chịu
được ngưỡng oxy thấp.
Có 2 phương pháp vận chuyển giống là vận chuyển nước có sục khí và

phương pháp vận chuyển khô:
Phương pháp vận chuyển nước: Là phương pháp vận chuyển sử dụng
nước có sục khí để cung cấp oxy, nhiệt độ nước trong quá trình vận chuyển là
22-25
0
C bằng cách cho đá lạnh vào các bọc nhựa sau đó bỏ vào dụng cụ chứa,
mật độ vận chuyển phụ thuộc vào kích cỡ tôm và thời gian vận chuyển.
Phương pháp này thường áp dụng khi thời gian vận chuyển >2 giờ.
Phương pháp vận chuyển khô: Cách tiến hành của phương pháp này là
ta tiến hành sốc nhiệt ở nhiệt độ 20 -22
0
C sau đó buộc tôm vào trong các khăn
lông đã nhúng nước và sắp theo từng lớp vào thùng xốp đã chuẩn bị sẵn sao
cho các lớp tôm không chồng lên nhau, chú ý giữa các lớp tôm ta rải thêm đá
lạnh cũng bằng cách bỏ vào trong các túi nhựa sao cho vừa đủ bảm bảo giữ
nhiệt độ ổn định từ 22 - 25OC , phương pháp này áp dụng cho thời gian vận
chuyển < 2 giờ.
3.3.3 Thả tôm
Khi tôm vận chuyển đến lồng nuôi ta tiến hành nâng dần nhiệt độ lên
cho đến khi gần bằng với nhiệt độ môi trường nuôi bằng cách cho dần dần
nước từ môi trường nuôi vào dụng cụ chứa tôm sau đó thả tôm vào các giai đã
đặt sẵn trong lồng sau 30 -60 phút cho tôm hồi phục sức khỏe hoàn toàn ta mới
thả tôm ra.
Trong quá trình thả tôm ta phải thả tôm đực riêng, cái riêng và thả theo
từng nhóm kích cỡ không nên thả chung.
3.3.4 Mật độ nuôi.
Tôm hùm chủ yếu sống ở tầng đáy, nên mật độ nuôi được tính theo diện
tích đáy lồng. Tùy vào kích cỡ tôm, mức độ đầu tư , điều kiện môi trường mà ta
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 11
có thể nuôi với mật độ cao hay thấp. Ðối với tôm giống có kích cỡ từ 100g/con

trở lên ta có thể thả nuôi với mật độ từ 8 -10 con/m2.
3.4 Thời vụ thả nuôi.
Trong tự nhiên tôm hùm được khai thác quanh năm nhưng tập trung
lượng giống nhiều vào các tháng 8 -12 hàng năm nên vào thời gian nay chúng
ta nên tập thả giống nuôi.
3.5 Chăm sóc và quản lí.
3.5.1 Chăm sóc
Chăm sóc quản lí là khâu đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả
của suốt quá trình nuôi.
Thức ăn và cách cho ăn: Tôm hùm là loại tạp ăn, thức ăn chủ yếu là cá
tạp, cua, ghẹ, cầu gai, .và các loại nhuyễn thể. Cho ăn chủ yếu là cho ăn tươi,
tuỳ vào kích cở tôm, cở mồi mà ta có thể băm nhỏ thức ăn hay không. Có thể
cho tôm hùm ăn 2 lần/ngày nhưng phải đặc biệt chú ý cho ăn nhiều vào các
buổi sáng sớm và chiều tối. Lượng cho ăn hằng ngày từ 15-20% trong lượng
đàn tôm. Trong những ngày trước lúc lột xác 4 -5 ngày tôm ăn rất mạnh và
đang trong thời kì lột xác nhiều tôm giảm ăn chính vì vậy ta cần chú ý vào các
thời điểm này mà điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Quá trình lột xác của
tôm phụ thuộc vào chu kì con nước, thường thì tôm sẽ lột xác nhiều vào cuối kì
con nước lớn.
Tôm hậu ấu trùng (Tôm trắng) có khối lượng từ 0,2 - 0,5g/con: Mật độ
thả nuôi từ 50 -60con/m
2
; lượng thức ăn/khối lượng tôm nuôi là 30 - 40%; một
ngày cho ăn 2 lần; lượng thức ăn bữa chiều tối/lượng thức ăn trong ngày là
70%; thức ăn được bỏ vỏ cứng (với nhuyễn thể), bỏ phần ruột của cá và được
rửa sạch bằng nước biển.
Tôm giống nhỏ (Tôm bọ cạp) có khối lượng từ 4 - 6g/con: Mật độ thả
nuôi từ 15 - 20con/m
2
; lượng thức ăn/khối lượng tôm nuôi là 20 - 25%; một

ngày cho ăn 2 lần; lượng thức ăn bữa chiều tối/lượng thức ăn trong ngày là
70%; thức ăn được bỏ vỏ cứng (với nhuyễn thể), bỏ phần ruột của cá và được
rữa sạch bằng nước biển
Tôm lớn cỡ từ 500 - 600g/con: Mật độ thả nuôi từ 3 - 5con/m
2
; lượng
thức ăn/khối lượng tôm nuôi 15 - 17%; một ngày cho ăn 1 lần; lượng thức ăn
bữa chiều tối/lượng thức ăn trong ngày là 70%; thức ăn được bỏ vỏ cứng (với
nhuyễn thể), bỏ phần ruột của cá và được rữa sạch bằng nước biển.
3.5.2 Quản lí
Thường xuyên lặn kiểm tra lồng, kiểm tra tình trạng tôm, kiểm tra lượng
thức ăn thừa hay thiếu để từ đó có hướng giải quyết kịp thời. Ðịnh kỳ 10 -15
ngày vệ sinh lồng nuôi một lần đảm bảo môi trường sạch sẽ thông thoáng.
3.6 Cách phòng trừ một số bệnh thường gặp ở tôm hùm
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 12
Hiện nay, phong trào nuôi tôm hùm lồng, tôm hùm bè trong tỉnh đang
phát triển mạnh, nhất là ở thị xã Cam Ranh, huyện Vạn Ninh, TP Nha Trang.
Sau đây xin giới thiệu vế cách phòng trừ một số bệnh thường gặp ở tôm hùm.
3.6.1 Bệnh đen mang:
Hiện tượng: Mang tôm có những điểm đen, các tơ mang chuyển màu
đen, mang thối rữa toàn bộ. Quan sát bằng mắt thường thấy những búi sán lá
đơn chủ trắng nhỏ như sợi tóc. Sán lá sẽ đục thủng mang gây hoại tử tế bào.
Thân tôm cũng xuất hiện những đốm đen, mắt tôm cũng có thể chuyển sang
màu đen. Bệnh xuất hiện ở cả tôm con và tôm trưởng thành.
Hình 3.1 Hội chứng đen mang ở tôm hùm do yếu tố vô sinh (A)
và chất thải hữu cơ bám trên tơ mang tôm(B)
Nguyên nhân: Mang tôm bị đen là do sắc tố Melanin phát triển tại các
mô của mang phá hủy do các tác nhân: ký sinh trùng sán lá đơn chủ (xuất hiện
nhiều sau cơn mưa), nấm Fusarium, vi khuẩn dạng sợi Vibrio, nồng độ khí độc
Amoniac và Sulfur Hydro trong môi trường cao.

Hậu quả: Tôm bỏ ăn, hô hấp kém, nằm dưới đáy lồng và chết hàng loạt.
Cách phòng trị:
Tắm cho tôm bằng Formol với nồng độ từ 15 – 25 ml/m
3
trong 10 – 15
phút, có sục khí. Thời gian chữa trị từ 5 – 7 ngày; - Tắm cho tôm bằng Sulfat
đồng nồng độ 0,5 gr/m
3
nước trong 5 – 7 phút, có sục khí. Thời gian chữa trị từ
5 – 7 ngày. Lưu ý tôm bệnh sau khi xử lý thuốc cần được thả nuôi ở một lồng
khác.
Treo những túi vải có chứa vôi ở giữa lồng tôm hoặc đặt ở những vùng
đáy lồng bị ô nhiễm. Vôi có tác dụng diệt ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn tốt.
Có thể sử dụng một số kháng sinh như: Norfoxacin, Nalidixic acid,
Ciprofloxacin để phòng trị bệnh bằng cách trộn vào thức ăn với lượng từ 30 –
50 mgr/kg thức ăn. Thời gian điều trị từ 5 – 7 ngày.
3.6.2 Bệnh đốm trắng trên vỏ:
Hiện tượng: Trên vỏ tôm và dưới giáp đầu ngực xuất hiện những đốm
trắng.
Nguyên nhân: Cần phân biệt rõ nguyên nhân
Nếu tôm có đốm trắng song vẫn khỏe mạnh, hoạt động bình thường thì
không phải do dịch bệnh. Nguyên nhân là do hàm lượng Canci, Manhê trong
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 13
nước cao. Đây không phải là hiện tượng bệnh, tôm lột xác các đốm trắng sẽ
mất đi.
Trường hợp tôm nhiễm nấm, vi khuẩn đặc biệt nhiều ở vùng đáy ô
nhiễm sẽ gây ra bệnh đốm trắng trên vỏ.
Hậu quả: Tôm giảm ăn, giảm tăng trưởng, không lột xác được hoặc chu
kỳ lột xác kéo dài, tôm chết rải rác.
Cách phòng trị:

Tắm cho tôm bằng Xanh Melachite (thuốc này đã bị cấm sử dụng
theoQĐ 20/2003/QĐ-BTS) với nồng độ 1gr/m
3
nước, sục khí trong vòng 15
phút. Thời gian chữa trị từ 5 – 7 ngày.
Tắm cho tôm bằng Sulfat đồng với nồng độ 0,5 gr/m
3
, sục khí trong
vòng 5 – 7 phút. Thời gian chữa trị từ 5 – 7 ngày.
Treo túi vải đựng vôi để phồng và trị bệnh.
3.6.3 Bệnh đỏ thân:
Hiện tượng: Mang tôm và thân tôm đều chuyển sang màu hồng. Bệnh
xuất hiện ở tôm con và tôm trưởng thành.
Nguyên nhân: Nước và đá khu vực lồng, bè nuôi bị ô nhiễm nặng, thức
ăn thừa quá nhiều, công tác vệ sinh kém, nhiễm vi khuẩn Vibrio.
Hậu quả:Tôm bỏ ăn, kém hoạt động, giảm tăng trưởng và chết hàng loạt.
Hình 3.3 Bệnh đỏ thân
Cách phòng trị:
Vệ sinh lồng, bè nuôi sạch sẽ, tạo môi trường nước thông thoáng, giảm
lượng khí độc.
Tắm cho tôm trong dung dịch Oxytetracyline với nồng độ từ 0.5 – 2
gr/m
3
nước. Thời gian tắm 15 phút. Thời gian chữa trị từ 5 -7 ngày.
Trộn thuốc kháng sinh Oxytetracyline cộng với dầu thực vật vào thức ăn
với trọng lượng 50 mgr/kg thức ăn. Cho tôm ăn liên tục 5 – 7 ngày.
Có thể sử dụng kháng sinh mới có nồng độ nhạy cao như: Norfloxacin,
Nalidixic acid, Ciprofloxacin với lượng 30 – 50 mgr/kg thức ăn liên tục trong 5
– 7 ngày.
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 14

3.6.4 Bệnh trắng râu:
Hiện tượng: Râu 1 chuyển từ màu nâu sang màu vàng, hồng rồi
sang trắng. Bệnh này xuất hiện phổ biến ở giai đoạn tôm con.
Nguyên nhân: Tôm con bị nhiễm nấm Lagenidium sp, Fusarium sp.
Hậu quả: Tôm con chết hàng loạt.
Cách phòng trị:
Treo túi vôi giữa các lồng nuôi. Vôi
có tác dụng diệt nấm tốt.
Tắm cho tôm bằng dung dịch
Formol với nồng độ từ 15-25ml/m3 nước,
sục khí trong 15 phút. Thời gian điều trị từ 5
- 7 ngày.
Hình 3.2 Bệnh long đầu
3.6.5 Bệnh long đầu:
Hiện tượng: Phần giáp đầu ngực và phần thân long ra. Trong lớp
biểu bì tiết dịch nhầy hôi thối. Bệnh xuất hiện ở tôm con và tôm trưởng thành.
Nguyên nhân: Tôm nhiễm vi khuẩn Vibro sp, Aeromonas.
Hậu quả: Tôm chết rải rác.
Hình 3.3 Bệnh long đầu
Cách phòng trị:
Tắm cho tôm trong dung dịch Oxytetracylin với nồng độ 0,5 - 2gr/m3.
Thời gian tắm 15 phút. Thời gian chữa trị từ 5 - 7 ngày.
Trộn thuốc kháng sinh Oxytetracylin và dầu ăn với lượng từ 40 -
50mgr/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 5 - 7 ngày.
3.3 Thu hoạch
Sau thời gian nuôi từ 12 -15 tháng tùy vào cỡ giống, mật độ nuôi và mức
độ đầu tư tôm có thể đạt khối lượng từ 1,2 kg/con trở lên ta tiến hành thu tỉa
những con có khối lượng lớn, cứng vỏ, không mang trứng vận chuyển đến nơi
tiêu thụ. Phương pháp vận chuyển đến nơi tiêu thụ tương tự như cách vận
chuyển tôm giống đến nơi thả nuôi

Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 15
Kt nuôi tôm hùm( Panulirus ssp) trong lồng 16

×