TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
284
CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO THIÊN CHÚA CỦA TRIỀU NGUYỄN:
NHỮNG HỆ LỤY CHÍNH TRỊ
THE NGUYEN DYNASTY’S POLICY AGAINST CATHOLICISM :
IMPACTS ON POLITICS
Trương Anh Thuận
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT
Trong giai đoạn 1833 – 1874, các vị vua của vương triều Nguyễn – triều đại phong kiến
cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, đã ban hành hàng loạt các chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa với hi
vọng chính sách này sẽ có thể ngăn chặn các nước phương Tây lợi dụng chiêu bài tôn giáo để
xâm lược đất nước ta. Trong thực tế, chính sách này không những không thể phát huy được
hiệu quả của nó, trái lại còn tạo ra những hệ lụ
y vô cùng tai hại trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa - xã hội Bài viết đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những hệ lụy trên lĩnh vực chính trị
mà chính sách cấm đạo Thiên Chúa của Triều Nguyễn đã để lại đối với lịch sử dân tộc, để giúp
có cái nhìn khách quan và xác thực hơn về vương triều này.
SUMMARY
In the period 1833 - 1874, the Kings under the Nguyen Dynasty - the last feudal dynasty
in the history of Vietnam promulgated a wide range of royal decrees against Catholicism in the
hope of preventing Western colonial countries from taking advantage of a religious label to
invade our country. In fact, this policy could not promote its efficiency; on the contrary, it
created extremely serious consequences in the fields of economy, politics, culture and
society This article deals with a research into the political impacts caused by the Nguyen
Dynasty’s policy against Catholicism on the national history. This will give us more objective
and authentic views about this dynasty.
1. Mở đầu
Có một thực tế mà sử sách vẫn còn ghi chép lại đó là trong giai đoạn 1833 -
1874, vương triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam đã
ban hành hàng loạt các sắc dụ cấm đạo Thiên Chúa. Khi thực thi chính sách này, các
ông vua triều Nguyễn những tưởng có thể ngăn chặn âm mưu xâm lược của chủ nghĩa
thực dân thông qua công cuộc truyền giáo trên vương quốc của mình. Tuy nhiên, trong
thực t
ế, từ năm 1833 đến năm 1874, mặc dù triều đình liên tục cấm đạo và có nhiều
khi còn tiến hành rất quyết liệt, nhưng vẫn không ngăn chặn được nguy cơ mất nước.
Kết cục, người Thiên Chúa giáo vẫn kiên quyết giữ đạo và chủ quyền đất nước đã
không được giữ vững, khiến cho nước ta phải nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp
vào giai đ
oạn cuối thế kỷ XIX. Không những thế, chính sách cấm đạo của triều
Nguyễn còn tạo ra những “phản ứng nghịch”, đưa tới những hệ lụy vô cùng tai hại
trên nhiều lĩnh vực, trong đó nghiêm trọng nhất là trên lĩnh vực chính trị, đã ảnh
hưởng không nhỏ đến nền độc lập tự chủ của đất nước và khối đại đoàn kết dân tộc
trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX.
2. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn đã tạo ra một cái cớ để thực dân Pháp
xâm lược đất nước ta
Ngay từ thế kỷ XVII, khi mới bắt đầu hướng sang phương Đông, công cuộc
truyền giáo của các giáo sĩ Hội Thừa sai Paris đã gắn liền với chủ nghĩa thực dân Pháp.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
285
Các giáo sĩ thông qua công cuộc truyền giáo của mình sẽ là người dẫn đường cho một
cuộc xâm lược thực dân sau đó. Thấy rõ nguy cơ này, các vua triều Nguyễn đặc biệt là
từ Minh Mạng đã luôn đề phòng và ngăn chặn sự mở rộng truyền bá đạo Thiên Chúa ở
trong nước. Họ cho ban hành các chỉ dụ cấm đạo, truy nã ráo riết các thừa sai. Tuy
nhiên, bất chấp lệnh cấm của triều đình, các thừa sai Pháp bằng cách này hoặc cách
khác vẫn lén lút hoạt động và lôi kéo được nhiều người theo đạo. Chính vì vậy, càng về
sau, chính sách cấm đạo của triều Nguyễn lại càng quyết liệt, đã dẫn tới một hậu quả là
máu của các thừa sai và giáo dân đã đổ.
Trong bối cảnh như vậy, các thừa sai đã kêu gọi sự giúp đỡ của nhà cầm quyền
Pháp ở chính quốc. Và chỉ chờ có thế, các hạm đội của Pháp
ở Viễn Đông được lệnh
của chính quyền, đã tìm mọi cách để bảo vệ các thừa sai. “từ đó, luôn luôn thấy các
chiến thuyền của Pháp tới Đà Nẵng, đòi can thiệp vào việc đạo, trước còn dùng lời lẽ
ôn tồn, sau thì đe dọa và cuối cùng dùng đến đại bác và quân đội. Còn các giáo sỹ thừa
sai Pháp ở Việt Nam luôn tìm cách liên lạc và phối hợp hành động với các chiến thuyền
Pháp, kẻ
tung, người hứng nhịp nhàng dẫn dắt đến cuộc can thiệp vũ trang của Pháp
vào Việt Nam năm 1858 ”.[3, tr 151] Chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ điều này thông
qua một số sự kiện lịch sử diễn ra trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX. Tháng 2 năm
1843, khi đem tàu Heroine đến Đà Nẵng, được cố đạo Chamaison báo tin về việc triều
đình đang giam giữ 5 giáo sỹ Pháp (Galy, Charrier, Miche, Berneur, Duclos), Favin
Léveque đã đòi tha cho 5 giáo sỹ Pháp và đe dọa: “…tôi đòi họ phải được tha và nếu lời
đòi hỏi đó không được thực hiện, ông (quan trấn giữ cửa biển Đà Nẵng – TG chú thích)
hãy coi chừng”, rồi gửi tiếp thư cho Trương Đăng Quế cũng với lời lẽ như vậy. Kết quả
là triều đình phải nhượng bộ, tha cho 5 giáo sĩ này.
Tiếp đến là trường hợp giáo sỹ Lefebvre, hai lần bị triều đình Nguyễn bắt giam
vì lén lút truyền giáo ở trong nước (1844, 1846) thì cả hai lần đều được hải quân Pháp
can thiệp xin tha. Cuối cùng triều đình cũng phải chấp nhận. Ở lần thứ hai (1846),
Lefebvre bị trục xuất ra khỏi nước và dẫn độ về Singapo. Tuy nhiên, đến năm 1847,
tưởng Lefebvre chưa được thả, hạm đội Pháp đến cảng Đà Nẵng bắn phá năm chiếc tàu
đồng của triều đình rồi bỏ đi. Hành động liên quan đến việc giải cứu các giáo sỹ của
Pháp như đổ thêm dầu vào lửa, làm cho việc cấm đạo của Thiệu Trị càng gay gắt hơn.
Đến thời Tự Đức, với việc ban hành những chỉ dụ cấm đạo rất gắt gao, nhằm
mục đích tận diệt Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, thì lại càng xuất hiện nhiều hơn việc các
thừa sai kêu gọi sự can thiệp của Pháp vào Việt Nam để giải cứu cho người Thiên Chúa
giáo mà Pellerin, Huc, Lefebvre là những trường hợp tiêu biểu. Không những thế, họ
còn tỏ ra rất nôn nóng, thúc giục Pháp ngay lập tức phải tấn công xâm lược Việc Nam.
Để đáp lại lời kêu gọi đó, núp dưới chiêu bài giải cứu các thừa sai và những người
Thiên Chúa giáo, nhiều động thái quân sự của hải quân Pháp đối với Việt Nam đã diễn
ra, mà cuộc tấn công vào cửa biển Đà Nẵng năm 1856 là một sự kiện tiêu biểu. Và
không phải chờ đợi lâu, đến ngày 1 tháng 9 năm 1858, tiếng súng xâm lược của thực
dân Pháp đã nổ vang trên bán đảo Sơn Trà và cái cớ giải thoát các thừa sai và người
Thiên Chúa giáo cũng được Pháp dùng để biện giải cho sự kiện này.
Như vậy, có thể nói rằng các thừa sai đã có một vai trò rất lớn trong cuộc xâm
lược Việt Nam của thự
c dân Pháp. Mặc dù vấn đề Thiên Chúa giáo không phải là
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
286
nguyên nhân cơ bản đưa tới cuộc xâm lược, mục đích của Pháp khi tiến hành can thiệp
quân sự vào Việt Nam cũng không chỉ để giải thoát các thừa sai và giáo dân, tuy nhiên,
cần phải thấy rằng, lời kêu gọi của các thừa sai đã trở thành một cái cớ để làm cho cuộc
xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp mang màu sắc chính nghĩa giả tạo, “đấu tranh”
vì sự tự do tôn giáo. Nó như là một kịch bản đã được thực dân Pháp thảo ra từ trước:
“cuộc truyền giáo hay nói cách khác cuộc chinh phục phần hồn, cuộc xâm hại văn hóa
tất yếu sẽ dẫn tới sự chống trả của chính quyền bản địa và đó là cái cớ mà các thừa sai
Pháp tạo ra để cho cuộc xâm lược mang cái vẻ hợp lý của nó” [3, tr 156]
3. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn đã dẫn đến phong trào Sát tả của Văn
Thân đối với những người Thiên Chúa giáo
Có thể nói rằng, ngay từ khi mới có mặt ở Việt Nam, các thừa sai và đạo Thiên
Chúa đã bị sự phản đối quyết liệt của tầng lớp Nho sĩ trí thức phong kiến. Bởi theo họ:
“sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa đã làm tổn thương đến tư tưởng, tình cảm của dân
tộc, làm xóa mòn các giá trị đạo đức có từ ngàn năm nay ” [1, tr 85]. Trong lòng họ
luôn hiện hữu sự lo lắng về một cuộc đảo lộn trật tự xã hội phong kiến khi người Thiên
Chúa giáo lên nắm quyền.
Đến đầu thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đang đẩy mạnh việc bành trướng thế lực
của nó sang phương Đông, tiến hành những cuộc xâm lược dã man và tàn bạo, người ta
lại thấy sự tiếp tay của các thừa sai và một bộ phận người Thiên Chúa giáo cho giặc.
Chính vì vậy, họ càng nhìn người Thiên Chúa giáo với con mắt thù hận, nghi ngờ và
khinh khi. Trong khi đó, hàng loạt các chỉ dụ cấm đạo của triều đình ra đời, đã chứng tỏ
vua quan triều Nguyễn cũng có cùng suy nghĩ với những nho sĩ trí thức đương thời. Vì
vậy, như là một hành động yêu nước, giúp triều đình chống giặc, các Văn Thân đã quy
kết một cách mù quáng “Tây là đạo”, “đạo là Tây”, mà “thù Tây” thì “ghét đạo”, nên đã
tiến hành hàng loạt các hoạt động tàn sát người Thiên Chúa giáo mà người ta gọi là
phong trào Sát tả của Văn Thân.
Ngay từ năm 1867, sau khi quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ,
trong phong trào chống Pháp nổi lên mạnh mẽ khắp cả nước lúc bấy giờ, các Văn thân
đã giương cao ngọn cờ “Bình Tây sát tả” Đến năm 1874, khẩu hiệu “sát tả” lại một lần
nữa xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa do Trần Tấn và Đặng Như Mai lãnh đạo. Tuy
nhiên, tất cả những sự kiện trên đây chỉ là màn dạo đầu của một bi kịch sắp diễn ra và
đạt tới đỉnh điểm của nó sau khi chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi được ban ra ngày
13 tháng 07 năm 1885, mà hậu quả của nó gây ra đối với người Thiên Chúa giáo là
không sao kể hết được. Nhiều giáo dân đã phải bỏ mạng, ly tán, chạy trốn trước sự truy
đuổi, tàn sát của các Văn thân. Hàng trăm ngôi nhà thờ, tu viện, nhà nguyện, chủng
viện…bị phá hủy.
Như vậy, sau hiệp ước Patơnốt (6/6/1884), mặc dù giữa triều đình và thực dân
Pháp đã có sự thỏa thuận về vấn đề tự do tôn giáo, nhưng người Thiên Chúa giáo Việt
Nam vẫn còn phải trải qua một giai đoạn bách hại nữa, do phong trào sát tả của Văn
Thân gây ra. Phong trào đó chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn những hậu quả của nó
để lại thì vượt xa gấp nhiều lần thời gian mà nó tồn tại. Và nếu xem xét một cách thấu
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
287
đáo, có thể thấy rằng, phong trào sát tả của Văn thân có liên quan và là hệ quả trực tiếp
của chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn.
4. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn đã vô tình đẩy một bộ phận người Thiên
Chúa giáo yêu nước về phía giặc
Trong lịch sử dân tộc ta giai đoạn cuối thế kỉ XIX, chúng ta đã từng chứng kiến
trường hợp một bộ phận giáo dân phản bội lại lợi ích dân tộc, tiếp tay, dẫn đường cho
hoạt động xâm lược của thực dân Pháp, mà sự giúp đỡ của người Thiên Chúa giáo khi
Pháp đánh chiếm Sài Gòn năm 1859 hay khi Pháp tấn công Bắc Kì lần thứ nhất năm
1873… là những sự kiện tiêu biểu. “… người Thiên Chúa giáo không chỉ đơn thuần là
kẻ theo tà đạo, tự thách thức mình với đời sống công dân và gia đình, từ chối việc thờ
cúng tổ tiên mà còn là b
ạn của ngoại quốc, là kẻ phản bội và phản nghịch, từng kêu gọi
quân xâm lược đến chiếm lĩnh nước mình” [6, tr 67]. Và cũng không có gì bất ngờ khi
tìm thấy sự tham gia của nhiều giáo dân trong những cuộc nổi loạn chống lại triều đình
như vụ Lê Văn Khôi, vụ Pedro Tạ Văn Phụng…. Tuy nhiên, đó chỉ là thiểu số, còn đại
đa số người Thiên Chúa giáo Việt Nam vẫn luôn giữ
tinh thần yêu nước. Mặc dù là tín
đồ Thiên Chúa giáo nhưng không phải như vậy mà họ quên đi nghĩa vụ của mình đối
với đất nước. Họ luôn trung thành với lợi ích quốc gia và luôn có ý thức bảo vệ nền độc
lập dân tộc trước sự xâm lược của kẻ thù. Cần khẳng định rằng: “trong sự sinh tử tồn
vong của dân tộc, trên ngã ba đường giữa tôn giáo và dân tộc, lương tri Việt Nam của
người Thiên Chúa giáo đã thức tỉnh cùng dân tộc. Sự kiện đó đã trở thành di sản quý
mà người Thiên Chúa giáo Việt Nam đã lựa chọn: không chấp nhận mất nước thì Thiên
Chúa giáo và dân tộc vẫn gắn liền” [5, tr 16].
Có thể dẫn ra đây một vài ví dụ tiêu biểu để chứng minh cho vấn đề này. Chẳng
hạn như, khi chọn tấn công vào Đà Nẵng, thừa sai Pellerin đã nghiên cứu rất kỹ những
điều kiện thuận lợi ở vùng đất này. Trong đó, theo ông ta, một trong những lợi thế lớn
nhất khi quân Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng là sẽ nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng người
Thiên Chúa giáo ở đây. Nhưng trong thực tế, điều đó đã không xảy ra. Người Thiên
Chúa giáo ở Đà Nẵng hưởng ứng lời kêu gọi của triều đình đã thực hiện chiến lược
“vườn không nhà trống” nhằm cô lập kẻ thù, đúng như lời của đô đốc Rigault than thở
khi bị sa lầy ở Đà Nẵng: “đã không có một người Thiên Chúa giáo nào đến với chúng
tôi” [2, tr 95]. Hay sau khi thất bại ở Đà Nẵng, Pellerin lại hướng quân đội Pháp tấn
công ra Bắc Kỳ, vì theo ông, ở đây “ có nhiều người manh động, lại đông đảo giáo hữu
có thể là chỗ dựa cho quân đội viễn chinh”. Tuy nhiên, một lần nữa kế hoạch lại bị thất
bại bởi “ cuộc nổi dậy của các con chiên đã không hề có như mong đợi” [5, tr 15]
Mặc dù vậy, nhưng do luôn mang trong đầu tâm lý hoài nghi, lo sợ về sự hiện
diện của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam và nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa thực dân,
không phân biệt rạch ròi giữa những kẻ thông qua công cuộc truyền giáo để tiếp tay cho
hành động xâm lược với toàn bộ cộng đồng người Thiên Chúa giáo sống phúc âm trong
lòng dân tộc, nên các ông vua triều Nguyễn đã thi hành một chính sách cấm đạo nghiêm
ngặt. Các chỉ dụ cấm đạo về cơ bản hướng vào các thừa sai nước ngoài và hàng linh
mục bản xứ. Nhưng có những lúc, khi việc cấm đạo được đẩy lên cao như dưới thời
Minh Mạng và đặc biệt là những năm đầu triều vua Tự Đức, thì nó đã tác động đến toàn
bộ cộng đồng người Thiên Chúa giáo Việt Nam, gây bao chết chóc, đau thương và ly
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010
288
tán đối với họ. Đứng trước bối cảnh như vậy, người Công giáo biết đi về đâu? Trong khi
một bộ phận phản bội lợi ích dân tộc, chạy đến tiếp tay, hỗ trợ cho công cuộc xâm lược
của thực dân Pháp thì đại bộ phận người Công giáo Việt Nam, mặc dù không muốn đến
với Pháp, nhưng để bảo toàn tính mạng trước sự truy đuổi, tàn sát của chính quyền, họ
đã không còn cách nào khác. Như vậy, bằng chính sách cấm cách và bách hại đạo Thiên
Chúa, triều đình đã vô tình đẩy một bộ phận người Thiên Chúa giáo yêu nước về phía
giặc. “Người Thiên Chúa giáo Việt Nam đã bị đẩy đến ngã ba đường: họ biết đi về đâu
khi Thiên Chúa giáo và dân tộc, giáo hội và quê hương bị chủ nghĩa thực dân đặt vào
thế mâu thuẫn nhau” [5, tr 13]. Điều đáng tiếc ở đây là triều đình đã không thể tìm ra
được một giải pháp hợp lý để cho người Thiên Chúa giáo được sống yên ổn và phục vụ
đắc lực hơn cho công cuộc bảo vệ nền độc lập tự chủ cho đất nước.
5. Kết luận
Trên đây là những nghiên cứu bước đầu về một số hệ lụy trên lĩnh vực chính trị
mà chính sách cấm đạo Thiên Chúa của triều Nguyễn đã để lại đối với lịch sử dân tộc ta
trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Cần phải khẳng định rằng, trong bối cảnh thế kỷ XIX,
khi mà chủ nghĩa thực dân đang đe dọa nền độc lập của đất nước ta, thứ tôn giáo mà nó
đưa vào đang xâm hại một cách nghiêm trọng ý thức hệ phong kiến và nền văn hóa dân
tộc, tiếp tay, mở đường cho công cuộc thực dân, thì chính sách cấm đạo Thiên Chúa
được triều Nguyễn đưa ra có hạt nhân hợp lý khi xét về động cơ và mục đích của nó, vì
“đó là yêu cầu tự vệ chính đáng của một nhà nước đang nắm chính quyền, là ý thức bảo
vệ sự toàn vẹn của nền độc lập dân tộc cùng với sự toàn vẹn nền văn hóa truyền thống
dân tộc mà họ ở cương vị gánh vác trách nhiệm” [4, tr 179]. Tuy nhiên, không phải như
vậy mà chúng ta đánh giá thiếu xác thực hoặc phủ nhận tính chất thiễm cận, sự lầm lẫn
và thiếu thức thời cũng như những hệ lụy từ chính sách này. Bởi vì “cái gì của nhà
Nguyễn hãy trả về cho nhà Nguyễn” [5, tr 246].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phan Văn Cảnh , Phong trào Cần Vương ở Bình Định (1885 - 1887), NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội, 2005.
[2] Trương Bá Cần, “Lịch sử phát triển Công giáo Việt Nam”, Nguyệt san Công giáo và
Dân tộc, số 118 tháng 10/2004, tr 90 - 144.
[3] Nguyễn Văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỉ
XVII đến thế kỉ XIX, Viện nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội, 2001.
[4] Trần Nam Tiến, Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây d
ưới triều
Nguyễn (1802-1858), NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh, 2005.
[5] Ủy ban khoa học xã hội - Ban tôn giáo Chính phủ, Một số vấn đề về lịch sử đạo
Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Tp Hồ Chí Minh,1988.
[6] Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, NXB Tp Hồ
Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh, 1990.