Một số biện pháp để phát huy tính tích cực
của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở
1 Phần mở đầu:
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người ,cuộc cách mạng khoa học công nghệ như một
luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực của cuộc sống .Hơn bao giờ hết con người
đang đứng trước những diễn biến to lớn ,phức tạp về lịch sử xã hội và khoa học kỹ thuật .Nhiều
mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có mâu thuẫn yêu cầu ngành
GD- đT nói chung và người thầy chúng ta nói riêng phải giải quyết ngay , đó là mâu thuẫn giữa
quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng tăng và sự tiếp nhận của con người có giới
hạn ,bởi vì sự nhận thức của con người nói chung là tuyệt đối và không có giới hạn song sự thu
nhận,hiểu biết kiến thức của mỗi con người đều hữu hạn và tương đối.
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học nâng cao chất lượng giáo dục để đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới
Như chúng ta đã biết ,môn lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế
hệ trẻ .Từ những hiểu biết về quá khứ ,hocf sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc,tự hào với thành tựu
dựng nước và giữ nước của tổ tiên ,xác định nhiệm vụ trong h iệ
nn tại có thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật cua tương lai.
Nhưng những nhận thức .quan niệm sai lệch về vị trí ,chức năng của khoa học lịch sử và
môn lịch sử trong đời sống xã hội ,trong giáo dục đã dẫn tới phương pháp nghiên cứu ,học tập
không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt .Tình trạng học sinh không biết
những sự kiện lịch sử cơ bản ,phổ thông ,nhớ sai hoặc nhầm lẫn kiến thức lafhieenj tượng khá phổ
biến ở nhiều trường học nói chung và trường THCS nói riêng
Vì vậy hội nghị BCHTƯ Đảng lần thứ 2 khoá 8 đã nhấn mạnh
“ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD- ĐT khắc phục lối truyền thụ một chiều ,rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học .Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương pháp hiện đại vào quá trình dạy –học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học ,tự nghiên
cứu cho học sinh …”
Trong việc đổi mới ,cải tiến phương pháp dạy học,việc phát huy tính tích cực của học sinh
có ý nghĩa rất quan trọng .Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở
tự nhận thức,tự hành động .Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và hành động của
bản thân ( tư duy và thực tiễn ).Vì vậy việc khơi dậy ,phát triển ý thức,ý chí,năng lực ,bồi dưỡng
,rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục
Qua nhiều năm giảng dạy môn lịch sử lớp 9 ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực hiện
thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là một vấn đề bổ ích về lí
luận cũng như thực tiễn.Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn bởi vì đối
tượng là học sing lớp 9 thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận thức ,năng lực tư duy …
của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở khối dưới .Nừu được khơi dậy đúng mức tính
tích cực ,sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động khác khônh những làm cho các em
thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước
vào bậc THPT –nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
Từ trước tới nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích tính cực của học sinh
trong học tập lịch sử từ bậc THCS đến đại học .Tuy nhiên những vấn đề mà các nhà nghiên cứu
đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối lớp cụ thể vi vậy trong khuôn
khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn
lịch sử, đó là một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 voowis mục đích là góp
một phần nhỏ bé vào việc năng cao chất lượng giảng dạy môn lịch sử nói chung và môn lịch sử
lớp 9 nói riêng ở trường THCS nơi tôi đang giảng dạy ,đồng thời cũng là để trao đổi ,học tập kinh
nghiệm của các thầy giáo ,các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương
pháp dạy học.Những vấn đề mà tôi nêu ra trên cơ sở được trang bị những kiến thức cơ bản nhất
,phương pháp dạy học lịch sử cũng như việc sử dụng phương pháp quan sát ,thực nghiệm sư phạm
ở trường THCS
Từ trước tới nay vẫn còn tồn tại một quan niệm sai lầm cho rằng người thầy giáo giỏi là
người có kiến thức uyên bác , một thầy giáo – từ điển bách khoa .Nừu thầy giáo chỉ làm chức
năng truyền thụ kiến thức thì sẽ thực hiện phương châm “ Thầy giáo là trung tâm ‘’’ học sinh sẽ
thụ động tiếp nhận kiến thức , sẽ học thuộc lòng những gì thầy giáo giảng và cho ghi cũng như
trong sách đã viết. Đó chính là cách giảng dạy giáo điều,nhồi sọ biến giáo viên thành người thuyết
trình ,giảng giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã đọc .Có nhà giáo dục đã
gọi đó là cách “ Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh ‘’’.
Chúng ta đều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống nhất gồm
hai khâu có tác dụng tương hỗ nhau :giảng dạy và học tập .Cả việc giảng dạy và học tập đều là
một quá trình nhận thức ,tuân theo những quy luật nhận thức.
Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo viên và học sinh đối với
việc truyền thụ và tiếp thu một nội dung khoa học được quy định trong chương trình voới những
phương pháp dạy học thích hợp ,những phương tiện hình thức cần thiết để đạt được kết quả nhất
định đã đề ra.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát huy
tính tích cực của học sinh trong học tập .Nhà giáo dục người Đức là Disterverg đã khẳng định
đúng đắn rằng :Người giáo viên tồi truyền đạt chân lí ,người giáo viên giỏi dạy cách tìm ra chân lí
‘’’.
Điều này có nghĩa rằng người giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở việc đọc
cho học sinh ghi chép những kiến thức có sẵn,bắt các em học thuộc lòng rồi kiểm tra điều ghi nhớ
của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong sách giáo khoa .Điều quan trọng là
giáo viên cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản (bao gồm kiến thức khoa học ,sự hiểu biết
về các quy luật ,nguyên lí và các phương pháp nhận thức…) làm cơ sở định hướng cho việc tự
khám phá các kiến thức mới ,vận dụng vào học tập và cuộc sống .Vì vậy việc khơi dậy ,phát triển
tri thức ,ý chí ,năng lực bồi dưỡng ,rèn luyện về học tập là con đường phát triển tối ưu của giáo
dục - đó chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm ,làm chủ thể của việc nhận thức với sự
hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu quả của giáo viên,Điều này được thực hiện treencow sở hoạt
động tích cực , tự giác của học sinh .Đây là tính ưu việt của phương pháp phát huy tính tích cực
của học sinh được gọi là phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ hay
còn gọi là kiểu dạy học truyền thống .
2 NộI DUNG
Về lí luận và thực tiễn , việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong học tập môn
lịch sử là điều cần thiết và quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục.Đó chính là lí do chủ yếu để
nghiên cứu vấn đề này.Nội dung gồm:
Chương 1:
1-Cơ sở lí luận của việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong học tập lịch sử ở
trường THCS
2-Thực tiễn của việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong học tập lịch sử ở
trường THCS hiện nay
Chương 2:
1- Những biện pháp sư phạm để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9
2- Một số bài soạn minh hoạ môn lịch sử lớp 9
Chương 1
PHầN THứ NHấT:
Cơ sở lí luận của việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở
trườngTHCS.
Hiện nay có nhiều quan niệm ,ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của học
sinh trong dạy học nói chung , dạy học lịch sử nói riêng .Việc xây dựng cơ sở lí luận là điều quan
trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối bậc THCS vì vậy mục
tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc
cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9 .Các em phải được rèn luyện ở mức
độ cao hơn khả năng tự học ,tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư duy
,sáng taọ .
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản.Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo sư
Phan Ngọc Liên để thấy rõ sự khác biệt đó.
Kiểu dạy học truyền thống Phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực của
1- Cung cấp nhiều sự kiện 1- Cung cấp những kiến thức cơ bản
,được lựa chọn phù hợp với yêu cầu
Trình độ của học sinh ,nhằm vào mục tiêu
đào tạo
được xem là tiêu chí cho
chất lượng giáo dục , nhớ tốt ,
thuộc lòng.
2- Giáo viên là nguồn kiến thức duy nhất 2- Ngoài lời giảng của giáo viên trên l
Phần lớn thời gian trên lớp dùng cho lớp , học sinh được tiếp xúc với
Giáo viên giảng học sinh chỉ chăm chú những nguồn kiến thức khác : Vốn
Kiến thức đã học ,kiến thức của bạn
bè,trong sách giáo khoa ,tài liệu
tham khảo,đồ dùng trực quan,thực
tế cuộc sống.
Nghe và ghi lại lời giáo viên Học sinh chăm chú nghe giảng
1 nhận thức và ghi những điều mình
Tiếp nhận(kiến thức mới ,vấn đề
được đặt ra ,phương pháp )
3- Học sinh chỉ làm việc một mình 3- Học sinh ngoài việc tự làm việc
Còn trao đổi ,thảo luận với các
Trên lớp ,ở nhà hoặc với giáo bạn trong tổ ,trên lớp ,ngoài giơ
Viên khi kiểm tra học hoặc đề xuất ý kiến ,thắc mắc
Trao đổi với giáo viên
4- Việc ghi chép được đơn giản 4- Các vấn đề thu nhận ngoài ghi
Hoá ,làm sao cho dễ nhớ chép còn được thể hiện ở các
Bảng biểu ,mô hình ,các phương
Tiện trực quan,qui ước ,giúp cho
Học sinh trên cơ sở nhớ ,biết để
Hiểu sâu sắc và do đó nhớ kĩ ,
Hiểu sâu, nắm chắc các vấn đề.
5 – Các môn học chỉ dừng lại ở câu 5- Ngoài câu hỏi kiểm tra,bài tập
Thực hành ,học sinh được tự đặt
Hỏi ,bài tập,thực hành một cách vấn đề ,câu hỏi để trình bày ,trao
Thụ động . Việc đánh giá kết quả đổi ,được nêu ý kiến của riêng
Học tập được đo bằng trí nhớ. Mình
Sự đánh giá kết quả học tập căn
Cứ vào trình độ hiểu biết của
Học sinh ,đòi hỏi học sinh phải
Lập luận.
5- Việc học lí thuyết không gắn với 6 – Việc dạy lí thuyết để nâng cao
Trình độ nhận thức của học
Sinh ,làm cơ sở để vận dụng
Những kiến thức đã học vào
Thực hành ,nhất là các môn thuộc khoa thực hành bộ môn và trong
Học xã hội và nhân văn. cuộc sống .Qua đó củng cố ,
Làm phong phú kiến thức đã
Học.
6- Nguồn kiến thức thu nhận của học 7- Nguồn kiến thức của học
Sinh rất hạn hẹp ,thường giới hạn ở sinh rất phong phú ,đa dạng
Bài giảng của giáo viên,sách giáo khoa, Lời nói ,tài liệu viết ,đồ
Phòng thí nghiệm ,tài liệu tham khảo. dùng trực quan ,thực tế
Cuộc sống.Các nguồn kiến
Thức được sử dụng phù
Hợp với mục đích ,yêu
Cầu ,trình độ học tập.
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích
cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn .Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải
được “ tích cực hoá ‘’’ trong quá trình dạy- học ,phải chủ động sáng tạo . Cần phải tiếp thu
những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới
, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ , thụ động
như : Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ , học sinh chỉ chú trọng ghi
lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra .
Phần thứ hai :
Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong trường
THCS hiện nay .
Trong vài năm gần đây , bộ môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng
trong trường THCS đã được chú trọng hơn trước . Điều đó được thể hiện ở chỗ môn lịch sử
được xếp ngang hàng với các môn khác như Lí , Hoá… được tổ chức thi tuyển học sinh giỏi
các cấp được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc daỵ và
học .
Tuy nhiên qua hơn 10 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn lịch
sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn , trở ngại nhất là việc phát huy tính tích cực của
học sinh tuy đã được phổ biến , học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả
đạt được không đáng là bao . Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học sinh lớp 9
khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.
Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây :
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng như Địa lí ,
Kĩ thuật , Thể dục , GDCD … đều là những môn phụ . Điều này được thể hiện việc quan tâm
đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng mức . Theo tìm hiểu của cá nhân tôi nhiều
trường không có giáo viên chuyên sử mà giáo viên dạy Văn , Địa lí … có thể dạy sử do đó
không đáp ứng yêu cầu của bộ môn đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng
vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay . Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến .
Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò chưa bao giờ có điều kiện
tham quan một di tích lịch sử vì không có kinh phí . Điều đó làm cho vốn kiến thức kiến thức
của các em chỉ bó gọn trong sách vở và
Bài giảng .
Nguyên nhân thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh lớp 9 trong
học tập bộ môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do chính những cơ chế , những quy
định từ cấp trên . Trong những năm trở lại đây môn lịch sứ được quan tâm nhiều hơn , đồ
dùng , tài liệu học tập được cung cắp đầy đủ hơn nhưng do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít
thích học môn lịch sử .
Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế , đó là chỉ chú trọng
về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành , không chú ý đến việc phát triển năng
lực sáng tạo .
Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên . Sự nguy hại của
việc thi gì học lấy ‘’’ làm cho học vấn của học sinh bị què quặt , thiếu toàn diện . .Tình trạng
mù lịch sử hiện nay ở không ít học sinh là hậu quả tất yếu của việc học lệch , không toàn diện
. Đó là chưa kể đến việc coi thi, chấm thi chưa nghiem túc, đúng mực nhằm đảm bảo thành
tích của nhà trường , của cá nhân… làm cho kết quả học tập cua học sinh không đúng thực
chất
.
Chương II :
Yêu cầu chung :
- Phương pháp dạy học là một khoa học đồng thời cũng là một nghệ thuật .
Không có phương pháp nào là vạn năng có thể thay thế các phương pháp khác . Vì vậy
phải biết kết hợp đồng thời các phương pháp với nhau.
- Bộ môn lịch sử ở trường THCS được giảng dạy với tư cách là môn khoa
học mà đặc trưng cơ bản của nó là học sinh không trực tiếp quan sát .Sự kiện lịch sử là
cơ sở của nhận thức lịch sử . Muốn học sinh nắm được những kiến thức phổ thông cơ
bản của khoa học lịch sử thì trước hết phải cung cấp cho các em một hệ thống những sự
kiện lịch sử cơ bản . Không khí lịch sử của giờ học phải được tạo ra bởi chính sự sống
động của các sự kiện lịch sử . Sự kiện đó phải được học sinh thể hiện lại một cách sinh
động , cụ thể , có hình ảnh . Chính vì vậy các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giờ
lịch sử trước hết phải khôi phục lại được bức tranh quá khứ , từ đó định hướng từng
bước giúp các em từ sự kiện lịch sử mà khám phá bản chất sự kiện , hiện tượng hay quá
trình lịch sử . Trên cơ sở đó hình thành thế giới quan khoa học , nhân sinh quan cách
mạng , giáo dục tư tưởng tình cảm , bồi dưỡng truyền thống dân tộc.
- Cấu trúc của giờ học phải linh hoạt , mềm dẻo gây được hứng thú bất ngờ
và hấp dẫn cho học sinh . Không nhất thiết cứ phải tiến hành giờ học theo trình tự các
bước .
- Ví dụ : Không nhất thiết vào đầu giờ học là kiểm tra bài cũ , cuối giờ học là
củng cố kiến thức bài học mà có thể kiểm tra bài cũ của học sinh ngay khi
- cung cấp kiến thức mới .
Nếu vận dụng tốt cấu trúc của giờ học sẽ tránh được sự nhàm chán , công thức mà
học sinh đã biết trước khi vào giờ học.
- Phải xuất phát từ đối tượng cụ thể ở từng lớp học trong toàn khối lớp 9 để
xem xét khả năng tự nhận thức của học sinh mà tìm biện pháp phát triển ở các em mặt
nào đó của tư duy lịch sử . Tư duy bao giờ cũng xuất phát từ cái cụ thể . Tưduy lịch sử
bao giờ cũng nhiều nội dung , nhiều cấp độ từ thấp đến cao , từ đơn giản đến phức tạp .
Đó là tư duy tái tạo , trí tưởng tượng , khả năng phân tích , so sánh , tư duy tổng hợp , tư
duy lô gíc…
Chính vì vậy , ngoài việc sử dụng các biện pháp dạy học , người giáo viên cần phải
phân loại được các sự kiện , hiện tượng lịch sử , xem kiến thức đó phát triển tư duy nào cho
học sinh.
PHầN THứ NHấT
Các biện pháp sư phạm để phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9
trong học tập môn lịch sử
1-Sử dụng SGK nhằm phát triển tư duy cho học sinh .
a- Sử dụng SGK để trình bày bài giảng :
Sau khi soạn giáo án xong , cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong SGK , xác
định kiến thức cơ bản của bài , hiêu rõ nội dung tinh thần mà tác giả mong muốn ở học sinh về
từng mặt giáo duc ,giáo dưỡng, phát triển … sau đó đi sâu vào từng mục , tìm ra kiến thức cơ bản
của mục đó , sự liên quan của kiến thức đó với kiến thức cơ bản của toàn bài . Mỗi bài có từ 2 đến
3 mục nhưng không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần
mà phải xác định phần nào lướt qua , phần nào là trọng tâm thì dành thời gian nhiều hơn .
Ví dụ : Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược
kết thúc (1953- 1954) bài gồm có 4 mục thì mục II là mục quan trọnh nhất, do dó phải đầu
tư thời gian nhiều nhất .
Trong bài dạy thường có các tranh ảnh , bản đồ … nếu không có bản đồ in sẵn thì
ta phải phóng to bản đồ trong SGK để phục vụ bài dạy.
Như vậy SGK là điểm tựa để người giáo viên xác định kiến thức cơ bản , xác
định các khái niệm cần hình thành cho học sinh, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp với đối tượng , vừa phat huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh .
b- Sử dụng SGK trong quá trình dạy học tên lớp :
Trong giờ học, học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi đối chiếu ,
so sanh với SGK , thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng của giáo viên mà
lại chép trong SGK . Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ trong
SGK mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình .
Ví dụ : Khi dạy bài : Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp (1946- 1954) khi dạy phần IV chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 giáo viên
có thể vừa chỉ bản đồ vừa phân tích :
-Sáng 7- 10 -1947 thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc cạn ,
Chợ Mới , Chợ đồn .
- Một cánh quân bộ từ Lạng sơn lên Cao bằng rồi từ Cao bằng đánh xuống
Bắc cạn tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc .
- Ngày 9- 10- 1947 một binh đoàn hỗn hợp ngược sông Hồng , sông Lô ,
sông Gâm lên thị xã Tuyên quang , Chiêm hoá bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc.
Trong SGK ở phần lớn các bài đều có các đoạn chữ in nhỏ , in nghiêng . Kiến thức
được thể hiện ở các đoạn này rất quan trọng – là nguồn tư liệu mới làm nổi bật nội dung cơ bản
của bài . Chính vì vạy giáo viên phải sử dụng triệt để . Nếu nó đề cập những vấn đề khó , phức tạp
thì giáo viên miêu tả hoặc kể chuyện , nếu dễ có thể cho học sinh cùng đọc hoặc một em đọc to
cho cả lớp nghe để các em cảm thụ về những sự kiện , hiện tượng lịch sử trong đoạn đó .
c- Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK để học ở nhà
Đối với học sinh lớp 9 thì khả năng tự học ở nhà một cách độc lập đã khá cao , giáo viên
cần giao nhiệm vụ cụ thể , vưà sức với các em . Nếu hoàn thành tốt thì đó chính là điều kiện để tư
duy của các em phát triển
Ví dụ : Khi học bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời ‘’’ giáo viên
hướng dẫn học sinh làm bài tập để nêu rõ sự thành lập và hoạt động của ba tổ chức cách mạng
bằng cách lập bảng so sánh
Tên tổ chức Thời gian thành lập Bộ phận lãnh đạo Thành phần tham gia Chủ trương hoạt
động
2- Sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học lịch sử lớp 9 để phatstriển tư duy cho học
sinh
Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần lưu ý mấy điểm
sau :
- Câu hỏi phải vừa sức , đúng đối tượng , không quá khó hoặc quá dễ .
- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7 câu hỏi . Sau mỗi chương có câu
hỏi bài tập .
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo .
a- Nêu câu hỏi đầu giờ học : Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm
tra kiến thức bài cũ . Nhưng trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh , giáo
viên cần nêu ngay câu hỏi định hướng cho học sinh . Đây là loại câu hỏi có tính chất bài
tập , muốn trả lời phải huy động kiến thức của từng bài . Tuy nhiên khi nêu câu hỏi không
yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên cung cấp chocacsicsís em đầy đủ sự
kiện thì các em mới trả lời được .
Ví dụ :Khi dạy bài : Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược “” thì đầu giờ học giáo viên có thể đặt câu hỏi chocaar lớp suy nghĩ : Tại
sao lại khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đến chiến thắng Biên giới thu
đông 1950 là một bước phát triển của cuộc kháng chiến ? Các em chú ý theo dõi bài giảng
va SGK để trả lời .
b- Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện , hiện tượng lịch sử trong bài
học .
Ví dụ trong bài “Tổng khởi nghỉa tháng Tám 1945…’’ giáo viên đặt hai câu hỏi về điều
kiện khách quan và chủ quan (thời cơ)của cách mạng tháng Tám để làm nổi bật nguyên nhân
thắng lợi .
Những kiến thức này được sắp xếp viết vào giấy trong cho vào máy chiếu để học
sinhquan sát tìm ra mối liên hệ giữa chúng :
Điều 1- Pháp thua ở chính quốc rồi bị Nhật hất cẳng Điều
Kiện
Khách
Quan
Kiện ở Đông dương .
2 – Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ Tịch
3 - Phát xít Nhật bị đồng minh đánh gục .
4 – Sự chuẩn bị kiên trì , chu đáo của ta về chính trị , vũ trang .
Chủ 5- Khả năng tận dụng thời cơ “ngàn năm có một ‘’’ của ta .
Quan
Như vậy so sánh những kiến thức ở bảng trên thì học sinh sẽ phân biệt được đâu là điều
kiện khách quan , đâu là điều kiện chủ quan . Điều đó giúp các em không những nắm về kiến
thức mà còn có tác dụng giáo dục , rèn luyện kĩ năng , kĩ xảo , phát triển tư duy .
c- Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp
Câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị từ khi soạn giáo án , phải dự kiến nêu ra lúc nào ?
Học sinh sẽ trả lời ra sao ? Đáp án trả lời thế nào ? Cần tránh câu hỏi mà các em chỉ cần trả lời
một cách đơn giản là Có hay “Không’’ , “Đúng’’ hay “Sai’’, hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh
thoả mãn đi đến chủ quan về vốn hiểu biết của mình .
Thông thường, căn cứ vào tính chất , đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà có thể nêu
các loại câu hỏi sau :
- Câu hỏi về sự phát sinh của các sự kiện , hiện tượng lịch sử như nguyên
nhân sâu xa , nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện , hiện tượng đó .
- Câu hỏi về quá trình diễn biến , phát triển của sự kiện , hiện tượng lịch sử
như diễn biến các cuộc khởi nghĩa , các cuộc cách mạng hoặc các cuộc cách mạng hoặc
các cuộc chiến tranh .
- Câu hỏi nêu lên đặc trưng , bản chất của các hiện tượng lịch sử bao gồm sự
đánh giá và thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy .
Ví dụ : Em hãy đánh giá vai trò của Nguyễn ái Quốc đối với sự thành lập Đảng cộng
sản Việt nam .
- Câu hỏi tìm hiểu kết quả , nguyên nhân thắng lợi (thất bại) và ý nghĩa lịch
sử các sự kiện hiện tượng lịch sử .
- Câu hỏi đối chiếu , so sánh giữa các sự kiện , hiện tượng lịch sử cùng loại
với nhau .
Ví dụ : Khi dạy bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời ‘’’ có thể
cho học sinh so sánh ba tổ chức cách mạng về tổ chức , hoạt động …
Một điều cần lưu ý là phải động viên , khuyến khích học sinh tham gia trả lời câu hỏi
dưới nhiều hình thức như khen ngợi , đánh giá , cho điểm …
3- Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sư lớp 9 để phát huy
tính tích cực của học sinh
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác
quan , sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau : tai nghe , mắt thấy tạo
điều kiện cho học sinh dẽ hiểu , nhớ lâu , phát triển năng lực chú ý quan sát , hứng thú của
học sinh . Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt , đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh
phân tán sự chú ý , không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu .
Đồ dùng trực quan có nhiều loại . Mỗi loại lại có cách sử dụng riêng . Sau đây là một
số cách sử dụng cơ bản :
a- Phương pháp sử dụng hình vẽ , tranh ảnh trong sách giáo khoa .
Hình vẽ tranh ảnh trong SGK là một phần đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học .
Từ việc quan sát , học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng . Thông qua quan sát miêu tả,
tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt , lựa chọn ngôn ngữ . Từ việc quan sát thường
xuyên các tranh ảnh lịch sử , giáo viên luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát
vật thể một cách khoa học , có xem xét , phân tích , giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra
những kết luận lịch sử .
Ví dụ : Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở nước ngoài (1919- 1925)’’ giáo viên
cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đang phát biểu ý kiến tại đại hội Tua (12-
1920).S au khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn ái Quốc bắt đầu
tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin để truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người
nguyễn ái Quốc.
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong tranh
ảnh bổ sung cho bài giảng , vừa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh , kích thích trí tưởng
tượng phong phú , tạo hứng thú học tập cho các em .
b- Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong SGK
Học sinh lớp 9 bậc THCS cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh , chân dung
các nhà cách mạng , cacsanh hùng dân tộc , các vị lãnh tụ , các nhà phát minh khoa học , các
nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật . Các em không chỉ chú ý miêu tả bề ngoài mà còn chú ý
phân tích nội dung , tính cách , hành vi thể hiện ở tranh ảnh .
Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học sinh ,
kích thích óc tò mò , phát triển năng lực nhận thức . Từ đó làm cho các em khâm phục , học
tập được đạo đức , tài năng của họ .
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch sử ra .
Khi sử dụng , giáo viên phải phân tích ,định hướng cho học sinh , tự mình đánh giá vai trò ,
tính cách của nhân vật .
Ví dụ :Khi dạy bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời’’ khi dạy đến mục “Luận cương
chính trị 10 – 1930’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú . Sau đó cho học
sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này ,giáo viên kể cho các em nghe về
tiểu sử , quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú –
Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta .
c- Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử
Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học lịch sử . Trên
bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian , thời gian , địa điểm cùng một số
yếu tố địa lí nhất định
Ví dụ : Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một pháo đài bất khả xâm phạm’’ ,
“một cối xay thịt Việt minh’’. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông
dương 1953-1954 , bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể
hiểu được khá rõ về vấn đề này :Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc , hiểm trở , là vị trí chiến lược
có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc bộ .
Thông qua quan sát bản đồ , đọc kí hiệu , nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ , việc
sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát , trí tưởng tượng , tư duy và
ngôn ngữ , đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ , củng cố thêm kiến thức về Địa lí .
Chú ý : Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản
đồ , đồng thời tập cho các em quan sát , đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên
bản đồ .
d- Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử
Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử . Một số tranh ảnh ,
phần bài học quan trọng giao viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong sau đó đưa lên máy chiếu
học sinh sẽ thấy thích thú hơn , nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu .
Ví dụ : Khi dạy bài Nhật bản tôi đã pho to màu một số hình ảnh trong bài như :tàu chạy trên
đệm từ , trồng trọt theo phương pháp mới … và khi dạy đến phần khoa học kĩ thuật đã minh hoạ
bằng những hình ảnh này trên máy chiếu, học sinh đã rất thích thú phấn khởi ,ngạc nhiên …
e- Sử dụng giáo án điện tử
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay , việc sử dụng các thiết bị dạy
học này cũng không phải là điều dễ dàng , bản thân cũng chưa từng dạy mà mới chỉ được dự một ,
hai tiết của các đồng nghiệp đã dạy thì cảm thấy rất thích , học sinh thì đi từ ngạc nhiên này đến
ngạc nhiên khác , hiệu quả thu được rất cao . Song để dạy được một giờ như vậy phải có sự chuẩn
bị rất công phu , phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại . Bản thân trong thời gian tới sẽ cố
gắng để dạy theo phương pháp này .
Như vậy việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở trường
THCS là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo , cô giáo quán triệt
một cach sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình , trong hoạt động nội
khoá cũng như hoạt động ngoại khoá . Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh
mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm
sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống . Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương
pháp dạy học vào từng bài phải có sự nhận xét , đánh giá , rút kinh nghiệm và trao đổi , phổ biến
với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn .
Cần trách khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”
Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt điều này , đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực
chuyên môn , nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao , phải có cái tâm mang đặc
thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách
nhiệm cao ,không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như
mong muốn . Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động
làm chủ nước nhà : có trình độ văn hoá cơ bản , phẩm chất đạo đức tốt , có sức khoẻ , thông minh
sáng tạo … đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại
công nghiệp hoá - hiện đại hoá .