Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ĐỀ BÀI: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP WTO, GIẢI PHÁP ĐỂ CÁC DOANH NGHIỆP THÀNH CÔNG ( ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM ) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.37 KB, 24 trang )

ĐỀ BÀI: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI
NHẬP WTO, GIẢI PHÁP ĐỂ CÁC DOANH
NGHIỆP THÀNH CÔNG
( ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM ).
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lí do chọn đề tài
Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Đó là quy
luật tất yếu và khách quan. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều thiết lập mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhau
trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế Để cùng
chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, giải quyết những vấn đề
chung của trái đất mà từng quốc gia riêng lẻ thì không thực hiện
được. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế thì sự hợp tác này ngày càng
cần thiết hơn bao giờ hết. Nó giúp cho các nước có thể lưu thông
hàng hóa một cách thuận lợi, có thể trao đổi kinh nghiệm, khoa
học kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại để nâng cao năng suất
lao động và tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, giúp
cho việc lưu thông nguồn vốn một cách dễ dàng. Chính vì vậy, mà
hàng loạt các tổ chức thương mại thế giới lần lượt ra đời như
:WTO, NAFTA, ASEAN, EU
Trong đó WTO là tổ chức thương mại trên thế giới thu hút nhiều
quốc gia gia nhập vào tổ chức này. WTO ra đời nhằm thúc đẩy tự
do thương mại trên toàn cầu. Các nước tham gia WTO sẽ nhận
được nhiều thuận lợi và cơ hội. Đồng thời cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn và thách thức. Lợi ích của việc gia nhập WTO là
các nước thành viên được mở rộng cơ hội thương mại, được
hưởng các quyền lợi có trong các hiệp định WTO Với Việt
Nam, thì việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trong khu
vực nói riêng và trên thế giới nói chung là việc làm vô cùng cấp
bách để phát triển vững chắc nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt, việc
tham gia WTO sẽ tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội và trải nghiệm


mới, tiếp xúc với môi trường làm việc mới để mở rộng thị trường,
từng bước gây dựng nền kinh tế ổn định và phát triển. Đó cũng
chính là lí do mà chúng tôi chọn WTO là đề tài làm tiểu luận.
1.2. Mục đích chọn đề tài
Gia nhập WTO đem lại cho chúng ta rất nhiếu cơ hội và
thuận lợi nhưng song song đó cũng tồn tại không ít những khó
khăn và thách thức. Điều quan trọng là chúng ta phải biết cách
vận dụng tối đa những cơ hội đó để sử dụng triệt để vào công cụ
phát triển nền kinh tế vững mạnh, phải biết cách phối hợp những
cơ hội đó với những ưu thế sẵn có của quốc gia để tối đa hóa lợi
ích mà WTO đem lại. Đồng thời phải biết cách hạn chế tối thiểu
những khó khăn và thách thức từ việc gia nhập WTO. Phải biết
cách dung hòa cơ hội và thách thức làm sao để việt nam gia nhập
WTO chỉ hòa nhập không hòa tan. Để làm rõ việc này, chúng ta
cần tìm hiểu cách thức quản lí và hoạt động của WTO. Mục đích
của việc tìm hiểu này là để vạch ra những kế hoạch và hướng đi
cho chúng ta bước vào môi trường WTO một cách tự tin, không đi
nhầm đường. Tạo một nền kinh tế phát triển thực sự vững mạnh.
Cũng như hiểu rõ hơn mối liên hệ giữa nước ta với tổ chức thương
mại lớn nhất thế giới này.
2. NỘI DUNG
2.1. Tổng quan về doanh nghiệp Việt Nam và tổ chức thương mại
quốc tế WTO
2.1.1. Doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp, ưu, nhược điểm
của doanh nghiệp Việt Nam
Doanh nghiệp là gì ? Theo định nghĩa tại Luật Doanh nghiệp 2005,
“doanh nghiệp” là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Hiện nay, khái niệm
“doanh nghiệp” thường được dùng để chỉ các loại hình: công ty trách

nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty hợp danh
thuộc các thành phần kinh tế. Số lượng doanh nghiệp tính đến cuối năm
2006 là khoảng 260.000 đơn vị.
Tuy vậy, nếu nói doanh nghiệp theo nghĩa rộng, thì ngoài các doanh
nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nói trên, cần phải kể
hơn 3 triệu hộ kinh doanh phi nông nghiệp (theo thống kê đến hết năm
2005) như những doanh nghiệp siêu nhỏ, cùng với 15.000 hợp tác xã và
gần 12 vạn trang trại hoạt động như loại hình doanh nghiệp. Đáng chú ý là
trong các hộ kinh doanh, có những hộ có quy mô doanh số và lao động
khá lớn song vẫn chưa đăng ký hoạt động như một doanh nghiệp, mặc dù
theo quy định tại Khoản 4 Điều 170 Luật Doanh nghiệp thì “Hộ kinh
doanh sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập
doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật này”.
Đối với mọi nền kinh tế, doanh nghiệp luôn được coi là lực lượng chủ
công; do vậy, việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp phải được coi là
nhiệm vụ hàng đầu. Đối với nước ta đang trong quá trình đổi mới và phát
triển, gia nhập WTO, nhiệm vụ này lại càng có ý nghĩa cấp bách, quyết
định thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tiễn cho thấy số lượng doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thường
tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong phạm vi cả nước cũng như
trong từng địa phương; nơi nào có nhiều doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, kinh tế nơi đó chắc chắn phát triển, đời sông nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Chúng ta đã đề ra Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp,
nhằm đến năm 2010 cả nước có 50 vạn doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, có nhiều doanh nghiệp có tầm cỡ thế giới, đồng thời cũng đã có Kế
hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm 2006-2010 cũng là nhắm
theo hướng đó.
2.1.1.1. Doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau. Mỗi loại hình
doanh nghiệp có đặc trưng và từ đó tạo nên những hạn chế hay lợi thế của

doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh
nghiệp là: uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu dùng; khả năng huy động
vốn; rủi ro đầu tư; tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh
nghiệp; tổ chức quản lý doanh nghiệp. Do đó, khi cá nhân, tổ chức muốn
thành lập doanh nghiệp thì việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp
là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp 2005 quy định có các loại hình doanh nghiệp đó là:
Doanh nghiệp tư nhân
Công ty hợp danh
Công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty cổ phần.
1 Ưu, nhược điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp; Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân;
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân; Doanh
nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và
có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp
thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám
đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ưu điểm của doanh nghiệp tư nhân: Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh
nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết

định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng
cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc
chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế đó thì loại hình doanh nghiệp này cũng
có một số nhược điểm như: do không có tư cách pháp nhân và tính chịu
trách nhiệm vô hạn về tài sản nên mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân
cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà
chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.
Công ty hợp danh:
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu chung của công ty (thành viên hợp danh), có thể có thành viên góp
vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy
tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của công ty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty
hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp đăng ký kinh doanh
và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty; tiến hành các hoạt động
kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận
theo tỷ lệ được quy định tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý
công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp
danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty.
Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều
người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp
danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng,
đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do
số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng

nhau.
Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô
hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao, mọi thành
viên công ty đều có quyền quản lý công ty như nhau. Trên thực tế loại
hình doanh nghiệp này ít phổ biến hơn các loại hình doanh nghiệp khác.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên:
Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp
trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân (ít nhất là hai (02 thành
viên) nhưng số lượng thành viên không vượt quá năm mươi (50) trong đó
thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
Thành viên sáng lập được ký tên vào bản Điều lệ đầu tiên của công ty và
được ký các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của
công ty trước khi đăng ký kinh doanh, nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh
(Điều 39). Tuy nhiên, sau khi doanh nghiệp được thành lập thì không có
quy định nào phân biệt về quyền hạn, nghĩa vụ giữa thành viên sáng lập và
thành viên góp vốn. Đây là điểm khác biệt giữa quy định về thành viên
trong công ty TNHH và quy định về cổ đông trong công ty cổ phần.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và không được phát hành cổ phần.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên gồm có: Hội đồng thành viên, Chủ
tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc và Ban kiểm soát (phải thành lập nếu
có từ mười một (11) thành viên trở lên hoặc tuỳ chọn nếu có ít hơn 11
thành viên) .
Công ty TNHH là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam hiện
nay.
Ưu điểm của loại hình này là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân nên các
thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty
trong phạm vi số vốn góp vào công ty, do đó người góp vốn hạn chế được
rủi ro hơn. Mặt khác, số lượng thành viên công ty không nhiều và các

thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều
hành công ty không quá phức tạp. Chế độ chuyển nhượng vốn được điều
chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các
thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty.
Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn chế
nhất định như: chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước
đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; công ty trách nhiệm hữu
hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân
hay công ty hợp danh. Ngoài ra, việc huy động vốn của công ty trách
nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên:
Theo Điều 63 Luật Doanh nghiệp 2005, Công ty TNHH một thành viên là
một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty TNHH
một thành viên là công ty do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở
hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Công ty TNHH một thành viên không được giảm vốn điều lệ và chỉ có thể
tăng vốn điều lệ bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc huy động
thêm vốn góp của người khác (khi đó sẽ chuyển thành công ty TNHH hai
thành viên trở lên). Trong công ty TNHH một thành viên có quy định
phân biệt quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu là cá nhân và chủ sở hữu là tổ
chức. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một
phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu và không được giảm
vốn điều lệ. Điều 66 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định các hạn chế đối
với chủ sở hữu là: không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn
đã góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân

khác. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công
ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn
phải trả.
Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội
bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng
quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc. Nhìn chung,
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có đầy đủ các đặc thù của
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Điểm khác biệt duy
nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên chỉ có một thành viên duy nhất và thành viên này có thể là tổ
chức hoặc cá nhân. Vì đối tượng áp dụng của Luật Doanh nghiệp năm
2005 được mở rộng nên các công ty TNHH theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 2005 không chỉ là các công ty TNHH do các tổ chức, cá nhân
trong nước làm chủ sở hữu mà còn bao gồm các các công ty TNHH do các
tổ chức và cá nhân nước ngoài làm chủ sở hữu. Các công ty này trước
ngày 01/7/2006 được thành lập dưới các hình thức công ty liên doanh,
công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996. Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
là chủ sở hữu công ty có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến
hoạt động của công ty.
Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ một số trường hợp khác
theo quy định của pháp luật; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng
cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần
có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng

theo quy định của pháp luật về chứng khoán, điều này khác với công ty
trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có
trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc công ty cổ phần có cổ đông là tổ
chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát
(Điều 95, Luật DN 2005)
Công ty Cổ phần có các loại cổ phần sau: loại cổ phần phải có khi thành
lập, là cổ phần phổ thông và loại cổ phần ưu đãi khác có thể có hoặc
không có bao gồm cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ
phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định
(Điều 78 Luật Doanh nghiệp 2005). Mỗi cổ phần của cùng một loại đều
tạo cho người sở hữu có các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau. Luật
doanh nghiệp 2005 quy định cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi
thành cổ phần ưu đãi, tuy nhiên cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ
phần phổ thông theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Công ty cổ
phần có rất nhiều lợi thế như: Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là
trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của
các cổ đông không cao; Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng,
trong hầu hết các lịch vực, ngành nghề; Cơ cấu vốn của công ty cổ phần
hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; Khả
năng huy động vốn của công ty cổ phần cao thông qua việc phát hành cổ
phiếu ra công chúng là không giới hạn, đây là lợi thế riêng của công ty cổ
phần. Ngoài ra, việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương
đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là
rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của
công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có những
hạn chế nhất định như:
Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình

công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc
biệt về chế độ tài chính, kế toán; Việc quản lý và điều hành công ty cổ
phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn (không hạn chế
được số lượng thành viên tham gia vào công ty) có nhiều người không hề
quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ đông
đối kháng nhau về lợi ích; Chủ sở hữu (thường và đa số) không trực tiếp
tham gia vào hoạt động hàng ngày của công ty đồng thời, loại hình công
ty cổ phần cũng có nguy cơ dễ bị người khác, công ty khác thôn tính.
2.1.2. Tổ chức thương mại quốc tế WTO
2.1.2.1. Lịch sử hình thành, mục đích và chức năng của tổ chức thương mại
quốc tế WTO
Tổ chức thương mại quốc tế WTO:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định
lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ
Lịch sử hình thành của tổ chức thương mại quốc tế WTO:
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới(World Trade
Organization) - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương
mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp
định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết.
WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết
thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định chung về Thuế
quan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà
trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác
kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết
và Phát triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World
Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại
quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng
hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển,
23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về

thương mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ
chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp
Quốc. Đồng thời, các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán
về thuế quan và xử lý những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn
lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu
tự do hóa mậu dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại phát triển, tạo
công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các nước
thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được
thỏa thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana
từ 11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê
chuẩn, nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không
thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt
được ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng
giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế
giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan.
Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay(1986-1994) do
thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện
hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các
hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi
quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư
có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về
cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa
biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT) vốn chỉ là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính
chất tùy ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh
(Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế

giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức
được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ
1/1/1995.
2.1.2.2. Các nguyên tắc khi các doanh nghiệp gia nhập WTO
Các nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO:
Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản pháp lý
quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, viễn thông, các biện
pháp kiểm dịch động - thực vật, sở hữu trí tuệ song thực chất, tất cả các
văn bản đó đều được xây dựng và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của
WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm
nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên
nhất". Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng,
các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của
mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO
phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như
những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương
mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối
xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất
cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả
là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
"Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và
sản phẩm nội địa.

Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự
sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập
khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí
khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử
ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất
trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu
nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân
biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ của các
nước A, B, C khi xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi
ngộ quốc gia" nhằm tới mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối
xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A với hàng hoá, dịch
vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước X, sau khi hàng hoá,
dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan, đã trả thuế
và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán):
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải
cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế,
hạn ngạch, giấy phép ). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO
đã cho thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan,
rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở
rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu
trí tuệ
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát
triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi
nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị
trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị
trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải

điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của
WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng
bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng
bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực
hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch:
Ðây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các
nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước
được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu,
nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi
thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế
hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách
làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh
nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một
nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ
thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một
môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân
nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã
đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế
suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất
đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là
các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra
danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và không được phép
tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp nước
ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc
chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do

việc tăng thuế đó gây ra.
Về các biện pháp phi thuế quan:
nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây
khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu
minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện
pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu
chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai
("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của
mình. Ðồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các
nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn:
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại
song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy
định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động
tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ
cấp hoặc các biện pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh
tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay
không được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá
giá
Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi hơn cho
các nước kém phát triển nhất:
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng
tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của
WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên
cũng thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ
của các nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ
là một, song trình độ "cầu thủ" thì không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện
số thành viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong

quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4 số nước thành viên của
WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển
và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi
bằng cách dành cho những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác
biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống
thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định
trong việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các
nước này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một
số nghĩa vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong
việc thực hiện các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện
dài hơn để các nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO
cũng quyết định các nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật
ngày một nhiều hơn.
2.1.2.3. Tác động của việc gia nhập WTO
2.1.3. Việt Nam gia nhập WTO – cơ hội, thách thức cho các doanh
nghiệp
2.1.3.1. Cơ hội
Thị trường được mở rộng: không những kinh tế nước nhà phát triển, sức mau
của nhân dân tăng lên, mà từ nay doanh nghiệp nước ta có cơ hội tiếp cận thị
trường rộng lớn hơn với 150 thành viên WTO chiếm 85% thương mại hàng
hóa và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. Trên thị trường rộng lớn ấy, những
rào cản về hạn ngạch, giấy phép, thuế quan, v.v sẽ dần dân bị gỡ bỏ, hàng
hóa nước ta có điều kiện đi ra nước ngoài, thâm nhập thị trường toàn cầu,
bình đẳng với hàng hóa các nước khác.
Doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội tiếp cận một cách bình đẳng công nghệ,
vốn tín dụng và nhân lực từ bên ngoài. Đó chính là những yếu kém của
doanhh nghiệp nước ta mà trước đây chúng ta chưa tự giải quyết được. Đặc
biệt quan trọng là công nghệ hiện đại sẽ được tiếp thu bới doanh nghiệp

nước ta và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên đất nước ta.
Môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện. Hội nhập sẽ thúc đẩy các cơ quan
nhà nước tích cực đổi mới thể chế, chính sách, sắp xếp lại tổ chức quản lý và
làm trong sạch đội ngũ công chức, cải cách thủ tục hành chính, chống quan
liêu tham nhũng, v.v thuận lợi hơn cho yêu cầu nâng cao hiệu quả, sức
cạnh tranh của doanh nghiệp hiện có và phát triển thêm nhiều doanh nghiệp
tư nhân mới.
Tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp. Đây là
thời cơ để doanh nghiệp tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài mà tái cấu trúc
doanh nghiệp một cách thật khẩn trương, kể cả bố trí bộ máy, sắp xếp lại
nhân sự, triển khai các quan hệ liên kết, liên doanh
Các cuộc tranh chấp thương mại sẽ được giải quyết công bằng hơn. Trước
đây, doanh nghiệp ta bị kiện, đó là trên sân của nước sở tại, theo luật của
nước họ, thường không công bằng; ngày nay, là thành viên WTO, doanh
nghiệp nước ta sẽ được bảo vệ trước những tranh chấp thương mại theo các
điều lệ của WTO; được đối xử công bằng hơn.
2.1.3.2. Thách thức
Yêu cầu của thị trường khắt khe hơn. Trên thị trường toàn cầu, người tiêu
dùng có thêm nhiều thuận lợi để lụa chọn hàng hóa mà họ cần; không những
thế, người tiêu dùng ngày nay không chỉ quan tâm hình dáng, mẫu mã và giá
cả sản phẩm hàng hóa như trước đây, mà họ đang có những đòi hỏi mới cao
hơn về chất lượng, về an toàn sức khỏe cho công nhân viên, vệ sinh thực
phẩm cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, v.v
Cuộc cạnh tranh sẽ gay gắt, khốc liệt hơn. Đó là cuộc cạnh tranh toàn cầu,
doanh nghiệp nước ta ra nước ngoài sẽ gặp nhiều đối thủ mới, đồng thời các
doanh nghiệp trong WTO sẽ tìm mọi cách để thâm nhập ngày càng sâu vào
thị trường nước ta. Có thể thấy trước nhiều lính vực sẽ bị cạnh tranh gay gắt,
nhất là tài chính, ngân hàng, viễn thông, v.v Cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra gay
gắt giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nuớc ngoài được đầu tư,

kinh doanh bình đẳng như các doanh nghiệp trong nước.
Thị trường lao động sẽ rất sôi động. Có thể diễn ra tình trang dịch chuyển lao
động giữa các nước thành viên WTO, trước hết là những nước trong khu
vực, gây ra tình trạng thiếu nhân lực. Nhân lực cấp cao sẽ tìm đến nơi có
điều kiện phù hợp nhất đối với họ, cuộc cạnh tranh về nhân lực cấp cao sẽ
gay gắt. Vì vậy, doanh nghiệp rât khó tìm được và giữ được nhân lực lao
động kỹ thuật và nhân lực cấp cao cho doanh nghiệp mình.
Nhiều ưu đãi hiện hành trái với các cam kết trong WTO để bảo hộ doanh
nghiệp trong nước, nhất là đối với doanh nghiệp nhà nước sẽ bị bãi bỏ.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp được
bình đẳng cạnh tranh trong kinh doanh, không kể đó là doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;
điều này sẽ khó khăn cho doanh nghiệp nước ta, nhất là khi đang còn nhiều
yếu kém.
Doanh nghiệp nước ta chưa đủ thành thạo trong luật chơi chung. Gia nhập
WTO, doanh nghiệp nước ta phải tiếp cận hệ thống luật lệ WTO và luật lệ
của từng đối tác; khi thương mại và đầu tư tăng nhanh, các cuộc kiện tụng về
tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài, sở hữu trí tuệ, v.v sẽ nhiều
hơn trước. Thế nhưng, hệ thống thể chế, chính sách của ta chưa hoàn chỉnh;
kinh nghiệm của hệ thống tư pháp nước ta trong việc giải quyết các tranh
chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài còn nhiều lúng túng; doanh nhân nước ta
cũng chưa rành luật lệ thế giới về xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, bảo
hiểm quốc tế, v.v
Đó là những thời cơ và thách thức chủ yếu mà doanh nghiệp nước ta gặp
phải khi hội nhập, trong đó, thời cơ là chủ yếu. Song, mọi xu thế vừa là thời
cơ vừa là thách thức; không có xu thế nào chỉ đơn thuần là thời cơ hoặc
thách thức; thời cơ và thách thức luôn đan xen nhau và có thể chuyển hóa
thành nhau, thời cơ thành thách thức và ngược lại, thách thức thành thời cơ;
thách thức đối với ngành này, doanh nghiệp này có thể là thời cơ của ngành
khác, doanh nghiệp khác. Điều quan trọng là mỗi doanh nghiệp thấy đúng và

xử lý tốt tính chất và mức độ thời cơ và thách thức của từng xu thế. Thách
thức được khắc phục tốt và kịp thời thì tạo ra thời cơ mới; còn thời cơ nếu
không được tận dụng tốt và kịp thời thì có thể tạo ra thách thức mới. Mối
quan hệ tương tác giữa thời cơ và thách thức chính là một thách thức lớn tạo
ra thời cơ lớn mà mỗi doanh nghiệp phải năm lấy để tận dụng, vươn lên.
Có thể ví dụ. Doanh nghiệp chúng ta còn yếu kém về nhiều mặt, nếu như
không có cạnh tranh, doanh nghiệp vẫn có thể “bình chân như vại”; một số
vẫn có thể dựa vào sự bao cấp, ưu ái của Nhà nước. Thế nhưng, bước vào
hội nhập, phải cạnh tranh bình đẳng, không còn ưu ái, bao cấp, doanh nghiệp
buộc phải đứng trước tình thế “tồn tại hay không tồn tại”; nếu doanh nghiệp
biết liên kết, liên doanh, nhân dịp này mà tiếp thu công nghệ mới, thu hút
thêm vốn, đổi mới quản lý thì thách thức của cạnh tranh lại chuyển thành
thời cơ để doanh nghiệp “lột xác”, chuyển mình sang một con đường phát
triển mới. Đương nhiên, trong cuộc cạnh tranh mới, gay gắt và cam go này,
có thể có những doanh nghiệp không trụ được, chịu phá sản, nhưng đó là sự
sàng lọc cần thiết, là “sự tàn phá sáng tạo”, những doanh nghiêp trụ lại được
trong cuộc sàng lọc khe khắt này sẽ thực sự có sức sống, phát triển bền vững
hơn.
2.1.4. Thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO
2.1.4.1. Những thuận lợi và khó khăn khi gia nhập WTO của DNVN
2.1.4.1.1.Những thuận lợi
thứ nhất, sau 5 năm gia nhập WTO, số lượng doanh nghiệp nước ta tăng
nhanh và các doanh nghiệp cũng trưởng thành lên nhiều cả về quy mô và
vốn. Nếu như 5 năm trước đây, số lượng các doanh nghiệp có vốn trên 100 tỉ
đồng rất ít, thì hiện nay, con số này là rất nhiều, thậm chí có không ít những
doanh nghiệp đạt mức doanh thu hàng nghìn tỉ đồng.
Thứ hai,sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra nhiều về số lượng, đa
dạng về chủng loại và mẫu mã. Chúng ta đã từng lo ngại rằng, việc mở cửa
thị trường bán lẻ cho các tập đoàn phân phối đa quốc gia sẽ lấn chiếm thị
phần của doanh nghiệp trong nước, hoặc, khi mở nhiều siêu thị thì hàng

ngoại sẽ tràn vào lấn át hàng nội, nhưng qua thực tế hiện nay, tuy số lượng
siêu thị tăng rất nhanh nhưng 85% hàng bán trong siêu thị là hàng Việt Nam.
Mặc dù GDP ngày càng lớn, nhưng tỷ lệ đóng góp của bán buôn và bán lẻ
vào GDP vẫn ngày càng tăng.
Thứ ba, mức độ trưởng thành của các doanh nghiệp trong quản lý. Rất nhiều
tập đoàn có cổ phần liên quan đến hàng trăm công ty, đã được hình thành cả
trong khu vực tư nhân. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam phát triển nhanh, có
vốn, có kinh nghiệm đã mua lại doanh nghiệp FDI. Đây là tín hiệu tích cực
trong sự thay đổi chiến lược của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội
nhập.
Thứ tư, doanh nghiệp đã tận dụng khá tốt cơ hội thu hút vốn nước ngoài, tận
dụng được sự mở rộng thị trường để tăng đầu tư phát triển, đặc biệt là thị
trường dệt may, thủy hải sản và nông sản. Doanh nghiệp có tư duy mới,
không chỉ bó hẹp ở thị trường nội địa mà vươn ra thị trường toàn cầu.
Tham gia wto khuyến khích năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, khi thực hiện cam kết giảm
hàng rào thuế quan và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, doanh nghiệp
trong nước sẽ phải nỗ lực cải tiến kĩ thuật nâng cao năng suất để cạnh tranh
với doanh nghiệp và sản phẩm từ nước ngoài mà không còn gặp phải thuế
quan bảo hộ.
Tăng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp việt nam:
việt nam trở thành viên của wto cho phép các doanh ngiệp đưa sản phẩm tới
thị trường của khoảng 150 quốc gia trên thế giới với mức thuế suất thấp và
không có biến động. Them nữa các quy chế trong thương mại wto ngày càng
trở nên ưu đãi cho các quốc gia thành viên là các nước đang phát triển và
chậm phát triển.
Việc tiếp cận các nhà cung cấp nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho phát triển
trong nước. Xét dưới góc độ nhâp khẩu các doanh nghiệp trong nước không
chỉ nhận được nguồn nguyên liệu với giá rẻ hơn mà điều quan trọng là các
doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp cận với nhiều đối tác từ nhiều

quốc gia do đó có cơ hội lựa chọn yếu tố đầu vào với giá rẻ hơn. Bên cạnh
đó một số nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như bảo hiểm, vận tải, tư
vấn pháp luật.
2.1.4.2. Những khó khăn
chưa mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ; công nghệ còn lạc hậu nên chúng
ta chủ yếu mới chỉ dừng lại ở gia công lắp ráp, tham gia vào phân khúc cuối
của thị trường, giá trị gia tăng trong sản phẩm không cao. Doanh nghiệp
chưa đủ tầm, chưa đủ người để có thể nghiên cứu tốt thị trường thế giới,
cũng như thị hiếu, đặc điểm hàng hóa, nhu cầu của người tiêu dùng. Đa số
các doanh nghiệp chưa có cố vấn, chuyên gia về luật để tư vấn cho doanh
nghiệp hoạt động đúng luật. Các doanh nghiệp chưa có sự gắn kết với nhau,
chưa có ý thức cộng đồng, thậm chí, nhiều doanh nghiệp, vì lợi ích của
mình, sẵn sàng cạnh tranh, tranh giành đối tác của nhau. Hoạt động của
nhiều hiệp hội nghề nghiệp còn hình thức, theo phong trào, chưa có cơ chế
để có sự ràng buộc giữa các hội viên với nhau, vẫn còn phổ biến tình trạng
mạnh ai người ấy làm.
Để tiếp tục phát triển trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt ở tầm khu vực
và quốc tế, những điều cốt yếu mà các doanh nghiệp cần là nắm vững luật
pháp; hiểu rõ thị trường; có tinh thần cộng đồng, “buôn có bạn, bán có
phường”; đội ngũ doanh nhân phải có nhiệt huyết, có ý chí, khát vọng làm
giàu.
2.1.5. Những thành tựu và hạn chế ( nêu một số DN điển hình)
2.1.5.1. Những thành tựu
2.1.5.2. Những hạn chế
2.1.6. Biến động một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam
2.2. Giải pháp để các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập thành công
2.2.1. Đối với doanh nghiệp
2.2.1.1. Xây dựng chiến lược thị trường, chiến lược phát triển trong hội
nhập
Khi là thành viên WTO, phạm vi kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không

còn bó hẹp trong phạm vi nước ta mà đã mở rộng ra toàn cầu, mỗi doanh
nghiệp đã là “doanh nghiệp toàn cầu”. Đây là một chuyển biến rất cơ bản,
đòi hỏi xem xét lại và tính toán lại toàn bộ chiến lược kinh doanh đi đôi với
xây dựng văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập. Trên
thị trường toàn cầu, doanh nghiệp nước ta có thể đưa sản phẩm của mình
thâm nhập sâu hơn vào thị trường toàn cầu, đồng thời các nhà đầu tư nước
ngoài cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam. Trên thị
trường này, nguyên tắc cạnh tranh được áp dụng phổ biến giữa các doanh
nghiệp, các nền kinh tế; nhưng đó là cùng hợp tác và cạnh tranh, một cuộc
cạnh tranh có văn hóa. Mỗi doanh nghiệp cần khẩn trương soát xét lại kế
hoạch kinh doanh, thực hiện các biện pháp đầu tư, mở rộng quy mô, v.v
bằng sức của mình hoặc thông qua liên kết, liên doanh để nâng cao năng lực
sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của
mình trên phạm vi toàn cầu. Làm được như vậy, sản phẩm hàng hóa của
mình có chỗ chen chân, có thị trường lớn, có thị trường ngách, có sản phẩm
cao cấp, có sản phẩm bình dân, có điều kiện phân khúc thị trường để tìm
ra chỗ đứng vững chắc, lâu bền cho sản phẩm và doanh nghiệp của mình.
Nhiều nghiên cứu cho rằng có những ngành sẽ khó khăn hơn, ví dụ tài chính
– ngân hàng, viễn thông nhưng đây cũng là thời cơ để các ngành này xem
lại mình. Đây chính là thời cơ thuận lợi để xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp,
để doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, phát huy
mọi tiềm năng về vật chất và tinh thần của mình, sống tốt, sống khỏe bằng
chính sức lực của mình. Điều này đối với doanh nghiệp nhà nước có khó
khăn hơn doanh nghiệp dân doanh, nhưng không thể nào khác, doanh nghiệp
nhà nước phải nhanh chóng được sắp xếp lại chuyển sang hình thức doanh
nghiệp cổ phần là chủ yếu, qua đó mà đổi mới quản lý, thu hút nhân tài, tiền
vốn và công nghệ, thực hiện được nhiệm vụ của mình trong điều kiện hội
nhập.
2.2.1.2. Ứng dụng khoa học hiện đại trong sản xuất kinh doanh
Đối với doanh nghiệp, mức độ ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất

là thước đo chủ yếu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Gia nhập
WTO, đây chính là một đòi hỏi cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp để tồn tại
và phát triển. Phải đẩy mạnh hoạt động R&D trong doanh nghiệp. Việc
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ cần tập trung vào những sản
phẩm chủ lực của mỗi doanh nghiệp, phân tích những mặt yếu của sản phẩm
trong thế so sánh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường, từ đó, đề ra các
giải pháp nhằm cải thiện mẫu mã, nâng cao chất lượng, xây dựng thương
hiệu, tìm kiếm thị trường cho sản phẩm và doanh nghiệp.
Phục vụ việc bảo vệ và cải thiện môi trường cũng là một nhiệm vụ rất bức
xúc của khoa học, công nghệ. Trong mỗi doanh nghiệp, cần đề cao trách
nhiệm và thực hiện các biện pháp khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm;
ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghiệp ít gây ô nhiễm môi trường.
Doanh nghiệp trong các khu công nghiệp cần có hệ thống xử lý nước thải tập
trung; việc di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư cần được
thực hiện khẩn trương hơn. Để gắn khoa học, công nghệ với sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả, rất cần mở rộng hơn nữa các quan hệ liên kết giữa nhà
khoa học, các trường, viện, cơ quan nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp,
thông qua hình thức hợp đồng mà gắn kết quả ứng dụng với lợi ích của các
bên tham gia, bảo đảm cho mối quan hệ liên kết, hợp tác thêm chặt chẽ, đem
lại hiệu quả thiết thực.
2.2.1.3. Áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật về năng suất chất lượng
Trên thị trường toàn cầu hiện nay, sự thỏa mãn của khách hàng không còn
giới hạn trong các nội dung như chất lượng của sản phẩm hàng hóa, giá cả,
thời hạn giao hàng như trước, mà còn bao gồm các yêu cầu cao hơn về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, về sức khỏe của người lao động trong doanh
nghiệp, vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng, đặc biệt là về bảo vệ
môi trường là vấn đề bức xúc đang được báo động toàn cầu, v.v Mỗi sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ đều phải được bảo đảm bằng những tiêu chuẩn được
thế giới công nhận và áp dụng đối với các lĩnh vực nói trên. Để bảo đảm các
yêu cầu khắt khe ấy, mỗi doanh nghiệp đều phải xây dựng nhiều hệ thống

quản lý chất lượng, như ISO 9000 về quản lý chất lượng, ISO 14000 về quản
lý môi trường, OHSAS 18000 về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp,
HACCP/ISO 22000 về quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, Nếu các biện
pháp bảo đảm chất lượng, an toàn, vệ sinh thực phẩm , được xây dựng vào
trong các quy trình tác nghiệp của doanh nghiệp và được văn bản hóa nhằm
bảo đảm sự tuân thủ thì mọi khía cạnh chất lượng toàn diện nhằm tạo ra sự
thỏa mãn toàn diện của khách hàng và cộng đồng sẽ được đáp ứng.
2.2.1.4. Phát triển nguồn nhân lực
Trong doanh nghiệp, nhân lực được coi là nguồn vốn đặc biệt, là tài sản quý
giá nhất, là sức lao động quan trọng nhất. Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ
tạo ra giá trị gia tăng cao của doanh nghiệp. Phát triển nhân lực, chăm lo cho
con người trong doanh nghiệp về tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của
mọi cá nhân, từ tình trạng sức khỏe tới sự tự do về kinh tế và chính trị là giải
pháp cơ bản, lâu dài để doanh nghiệp phát triển, nâng cao sức cạnh tranh
trong hội nhập. Đó cũng là văn hóa trong kinh doanh. Trong hội nhập, doanh
nghiêp thu hút được người tài, giữ được nhân tài, đó là điều kiện quyết định
để doanh nghiệp thành công trong phát triển. Chính vì vậy, mỗi doanh
nghiệp cần có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, tạo điều
kiện để mọi người, nhất là lớp thanh niên, được phát huy tài năng, trí tuệ,
thỏa sức sáng tạo, đề ra những giải pháp cụ thể góp phần phát
triển doanh nghiệp. Cần bảo đảm cho mỗi thành viên trong doanh nghiệp
quyền phát huy tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, trong
việc tham gia thảo luận những giải pháp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của doanh nghiệp, của mỗi sản phẩm, hàng hóa, cũng như trong việc xử lý
những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của họ.
Nói đến vấn đề con người trong doanh nghiệp, không thể không quan tâm
giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong doanh nghiệp. Đó là các mối quan hệ
giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, quan hệ giữa doanh nghiệp với
bạn hàng, với đối tác, với cơ quan nhà nước, v.v Mỗi doanh nghiệp phải xử
lý thiết thực những vấn đề được đặt ra trong đời sống của mỗi thành viên

trong doanh nghiệp, từ việc làm, thu nhập, đến sinh hoạt của cộng đồng, chỗ
làm việc, nhà ở, đến giáo dục con cái, chăm lo hạnh phúc gia đình và ngăn
chặn các tệ nạn xã hội, v.v
2.2.1.5. Mở rộng liên kết kinh doanh
Trong hội nhập, việc liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp là hết sức
quan trọng, nhất là khi đại bộ phận doanh nghiệp nước ta còn ở quy mô nhỏ
và vừa, đang có nhiều khó khăn, như thiếu vốn liếng, yếu về công nghệ, ít
hiểu biết về thị trường, v.v thì liên kết, liên doanh là con đường rất hiệu
quả để khắc phục những khó khăn đó. Gia nhập WTO, con đường liên kết,
hợp tác kinh doanh mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Từ nay, không chỉ liên kết,
liên doanh giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhau, giữa các doanh
nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn, mà rất cần liên doanh liên kết giữa các
doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước
ngoài, kể cả doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm khu vực và rộng ra với toàn
thế giới, nhất là với các công ty xuyên quốc gia (TNC) để tranh thủ kỹ thuật
và thị trường. Phạm vi, nội dung, cũng như hình thức liên kết kinh tế sẽ
phong phú thêm nhiều, đòi hỏi doanh nghiệp nước ta những hiểu biết mới về
luật pháp quốc tế, để khai thác được thời cơ, tranh rủi ro.
2.2.2. Đối với nhà nước và các hiệp hội
2.2.2.1. Có nhiều vấn đề về đổi mới kinh tế đặt ra, đòi hỏi giải pháp, tư duy
mới về các mặt như cơ cấu kinh tế, quản lý và hội nhập
Đây là một vấn đề rất lớn, cần có sự nghiên cứu, thảo luận một cách nghiêm
túc để làm sáng tỏ, bảo đảm sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thành công.
2.2.2.2. Tập trung sức mạnh vào việc hoàn thiện hệ thống thể chế, chính
sách, tăng năng lực cạnh tranh quốc gia
Trong toàn bộ sự nghiệp phát triển đất nước trong tình hình mới, cần nhấn
mạnh hơn nữa việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đã qua rồi thời kỳ phân
biệt đối xử như phân chia nền kinh tế thành xã hội chủ nghĩa và phi xã hội

chủ nghĩa, phân chia doanh nghiệp thành doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, với những quan điểm “Thực hiện chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chủ yếu” và “Xã hội do nhân dân lao động làm chủ”,
v.v Ngày nay, như Đại hội lần thứ IX và thứ X của Đảng đã xác định: quan
hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh
trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ;
phát triển đất nước dựa trên sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc. Dựa vào dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc phải được coi là quan
điểm nền tảng trong mọi hoạt động của Nhà nước, trước hết là trong việc
thiết kế và thực thi hệ thống thể chế, chính sách kinh tế, xã hội, nhằm vào
giải phóng các lực lượng sản xuất trong các loại hình tổ chức sản xuất kinh
doanh, không không biệt chế độ sở hữu và thành phần kinh tế, để mọi người
dân ở mọi miền của đất nước, kể cả những người Việt định cư ở nước ngoài
đều có thể phát huy tài năng, trí tuệ, tiền bạc vào công cuộc phát triển đất
nước.
2.2.2.3. Cải cách hành chính và thống nhất nhận thức
Lâu nay, những việc rất quan trọng, từ sắp xếp lại bộ máy quản lý cho phù
hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, tách bạch giữa chức năng quản lý nhà
nước với quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, chấm dứt sự can
thiệp quá sâu và không cần thiết của dơ quan nhà nước vào hoạt động của
doanh nghiệp cho đến việc làm trong sạch đội ngũ công chức, xóa bỏ tệ
nạn tham những đang phát triển tràn lan gây ra tốn kém về thời gian, tiền bạc
và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, v.v đã được đề cập từ nhiều năm
nay, nhưng sự chuyển biến quá chậm. Phải thấy rõ thực trạng nguy hiểm này
để có quyết tâm khắc phục. Nhiều giải pháp đã được đề ra; vấn đề hiện nay
là tổ chức thi hành triệt để nhũng giải pháp đó.
Trong các giải pháp, xin nhấn mạnh yêu cầu công khai, minh bạch trong thể
chế, chính sách. Theo các cam kết khi gia nhập WTO, đã có yêu cầu minh
bạch hóa chính sách (rõ ràng, minh bạch, cụ thể, dễ dự đoán): các quy định

pháp luật liên quan đến kinh doanh của doanh nghiệp phải được công bố
công khai, minh bạch để các bên chịu sự điều tiết của luật pháp đều nắm
được, có tiếng nói tham gia soạn thảo và tiên liệu được, thuận lợi cho việc
kinh doanh. Đây là một quy định mà luật pháp nước ta nêu ra từ nhiều năm
nay trong việc soạn thảo và ban hành văn bản, nhưng việc thực hiện chưa
thực sự nghiêm túc. Từ nay, quy định này sẽ phải được thực hiện triệt để, vì
sẽ được giám sát chặt chẽ không chỉ bằng doanh nghiệp trong nước mà bằng
cả các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trên đất nước ta, thông qua các
quy định của WTO.
3. KẾT LUẬN
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO

×