Tải bản đầy đủ (.pptx) (210 trang)

kim quỹ yếu lược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 210 trang )

Bài giang Kim quỹ
yếu lợc đại cơng


TS Đặng Quốc Khánh
Mở đầu
Kim quỹ yếu lợc phơng luận là phần tạp bệnh của
sách Thơng hàn tạp bệnh luận do Trơng Trọng Canh
viết từ thời đông Hán. đây là cuốn sách đầu tiên viết về
chẩn trị tạp bệnh theo lý luận biện chứng của y học cổ
truyền. Sách có giá trị cao ca về lý luận cũng nh ứng
dụng lâm sàng và là một trong nhung sách kinh điển của y
học cổ truyền. Tên sách là Kim quỹ yếu lợc phơng
luận, trong đó Kim quỹ có nghĩa là quan trọng và quý
giá, Yếu lợc có nghĩa là tóm lợc. Kim quỹ yếu lợc
cho thấy đây là nhung nội dung quan trọng chủ yếu và cần
thiết về y học cổ truyền đợc tóm tắt lại.
Lịch sử ra đời lu lạc và đợc chỉnh lý của sách có
thể chia thành ba giai đoạn. Khoang đầu thế kỷ thứ ba sau
công nguyên, Trơng Trọng Canh viết xong Thơng hàn
tạp bệnh luận.
Sách gồm hai phần Thơng hàn và Tạp bệnh. Toàn
sách có mời sáu chơng trong đó mời chơng nói về th
ơng hàn và sáu chơng nói về tạp bệnh. Kim quỹ thuộc
phần viết về tạp bệnh. Trong thời gian từ đông Hán đến
Tây Tấn do chiến tranh loạn lạc sách bị thất lạc. Tuy đã đ
ợc Vơng Thúc Hoà (Tây Tấn) thu thập và chỉnh lý nhng
ngời ta vẫn chỉ thấy phần Thơng hàn luận, gồm mời
chơng mà không thấy phần tạp bệnh.
Cho đến tận thời Tống Nhân Tông, Học sỹ Ông Lâm
mới tim thấy trong th viện của gia đinh cuốn Kim


quỹ ngọc hàm yếu lợc phơng , đây chính là ban
tóm lợc Thơng hàn tạp bệnh luận của Trơng
Trọng Canh. Sách gồm có ba phần, phần đầu bàn về
thơng hàn, phần thứ hai bàn về tạp bệnh, phần thứ ba
bàn về phơng tễ, bệnh phụ khoa và cách điều trị.
Nhng do là cuốn tóm lợc nên Hoặc có chứng mà
không có phơng, hoặc có phơng mà không có
chứng nên không tránh khỏi Chũa bệnh không toàn
diện.
Lâm ức và nhiều tác gia khác đã tiến hành hiệu đính
theo nguyên tắc: phần đầu sử dụng ban do Vơng
Thúc Hoà đã hiệu đính tơng đối hoàn chỉnh nên giũ
nguyên, phần thứ hai viết về tạp bệnh và các bệnh phụ
khoa. Nhằm tiện cho ứng dụng lâm sàng lại đem phần
viết về phơng tễ phân biệt theo các chứng hậu chia
thành ba chơng. Ngoài ra còn đem các phơng thuốc
của Trơng Trọng Canh và các thày thuốc nổi tiếng
khác phân loại ở cuối sách.
Do là sách tóm lợc nên đặt tên sách là: Kim quỹ
yếu lợc phơng luận, về sau đợc gọi tắt là Kim
quỹ yếu lợc hay chỉ đơn gian là Kim quỹ.
Sách Kim quỹ bàn về tạp bệnh nội khoa là
chính, tuy nhiên cũng đề cập đến một số bệnh
phụ khoa và ngoại khoa. Toàn sách chia thành ba
phần lớn, tổng cộng có hai mơi nham chơng.
Phần đầu từ chơng một đến chơng mời, phần
hai từ chơng mời một đến chơng mời chín,
phần ba từ chơng hai mơi đến chơng hai m
ơi nham. Chơng đầu mang tên Bệnh tạng phủ
kinh lạc trớc sau có tính chất tổng luận, viết về

nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, dự phòng, chẩn
đoán và điều trị bệnh .
Do viết theo hinh thức hỏi đáp, nêu các nguyên
tắc nên chơng này có tính chất cơng lĩnh cho
toàn cuốn sách. Từ chơng thứ hai Bệnh kính
thấp yết đến chơng mời bay Bệnh nôn oẹ hạ
lợi thuộc bệnh nội khoa. Chơng mời tám
Bệnh sang ung tràng ung phù nề thuộc bệnh
ngoại khoa. Chơng mời chín Bệnh phu quyết
thủ chỉ tý thũng chuyển cân âm hồ sán u trùng
viết về một số hợp bệnh. Chơng hai mơi đến
chơng hai mơi hai chuyên về san phụ khoa. Ba
chơng cuối viết về cấm kỵ, chú ý khi dùng thuốc
và an uống cùng một số nghiệm phơng.
Toàn sách đề cập đến hơn sáu mơi loại chứng
bệnh mức độ sơ sài hay kỹ càng khác nhau. Trong
hai mơi hai chơng đầu viết về hơn bốn mơi loại
bệnh và hai tram linh nam bài thuốc. Bốn bài đầu
tiên chỉ nêu tên bài thuốc mà không viết rõ từng vị
thuốc. đó là các bài Hạnh tử thang trong chơng
Bệnh thuỷ khí, bài Hoàng liên phấn trong chơng
Bệnh sang ung tràng ung phù nề, bài Lê lô Cam
thao thang trong chơng Bệnh phu quyết thủ chỉ tý
thũng chuyển âm hồ sán u trùng và bài Phụ tử
thang trong chơng Bệnh nu nhân nhâm thân.
Về phơng diện điều trị, ngoài dùng thuốc
còn sử dụng các phơng pháp châm cứu, ẩm thực
điều dỡng và chú trọng điều trị hộ lý. Về cách
dùng thuốc ngoài các loại thuốc uống nh thuốc
thang, thuốc hoàn, thuốc ngâm rợu, thuốc tán

còn dùng các dạng thuốc dùng ngoài nh xoa,
bôi, dán, ngâm, rửađồng thời trong sách còn
kể tơng đối tỷ mỷ các phơng pháp bào chế,
cách uống, tác dụng phụ của bài thuốc.
Phân chơng trong sách có thể nhiều bệnh
viết trong cùng một chơng, nhng cũng có thể
một bệnh viết riêng thành chơng. Nếu nhiều
bệnh viết trong cùng một chơng thi đấy là
nhung bệnh có cơ chế bệnh sinh giống nhau, vị
trí bệnh nh nhau hoặc các chứng hậu tơng tự
nh nhau


Cơ chế bệnh giống nhau
Ví dụ nh hai bệnh Tý huyết và H lao thi
Tý huyết tuy liên quan đến cam ngoại tà nhng
nguyên nhân chủ yếu do dơng khí h hao dẫn
đến huyết hành không thông, dơng khí bị tà khí
gây trở ngaị mà thành bệnh. Còn H lao do ngũ
lao, thất tinh và lục dâm gây h tổn khí huyết nội
tạng gây ra. Cơ chế bệnh sinh của hai bệnh tơng
đồng với nhau nên viết vào cùng một chơng.


Cơ chế bệnh giống nhau
Chơng Bệnh kính quý thổ nục hạ huyết hung
mãn ứ huyết ghép vào cùng một chơng vi cơ chế bệnh
sinh của mấy bệnh này đều liên quan đến Tâm và
huyết mạch. Do chức nang chủ huyết của Tâm, tàng
huyết của Can, nhiếp huyết của Tỳ bị rối loạn nên dẫn

đến các bệnh loạn nhịp tim, nôn ra huyết, chay máu
cam, đi ngoài ra huyết và ứ huyết.
Cơ chế bệnh sinh của ba loại bệnh khác là Bách
hợp, Hồ hoặc, Âm dơng độc hoặc do nhiệt bệnh hoặc
do cam nhiễm bệnh độc (Hiện nay gọi là nhiễm
Virus) gần giống nhau nên cũng đợc viết chung vào
một chơng.

Vị trí bệnh gần nhau
Ví dụ ba bệnh Tiêu khát, Tiểu tiện không
thông và Lâm chứng do đều liên quan đến Thận
và Bàng quang nên đợc ghép chung thành một
chơng. Mặt khác tuy nguyên nhân cơ chế bệnh
sinh của ba bệnh Nôn, Oẹ, Hạ lợi khác nhau nh
ng là nhng biến đổi bệnh lý ở Vị tràng nên cũng
đợc viết chung thành một chơng.


Chứng hậu tơng tự nh nhau
Ba bệnh Kính, Thấp, Yết (Trúng thử) tuy do mắc
các loại ngoại tà khác nhau nhng khi mới mắc các biểu
hiện lâm sàng đều thấy sợ lạnh phát sốt nên đợc viết
vào cùng một chơng.
Có nhng chơng do chứng bệnh bao gồm hai hoặc
ba nhân tố giống nhau, thí dụ nh chứng đầy bụng, Hàn
sán, Thực tích vừa có chung đặc điểm liên quan với
Tràng Vị về mặt vị trí lại vừa có chung đặc điểm đau
bụng về mặt lâm sàng nên viết vào cùng một chơng.



Chứng hậu tơng tự nh nhau
Hai bệnh Hung tý và Tâm thống đều do dơng khí
bất chấn (không hng phấn), thuỷ ẩm hoặc đàm ngng
trệ trong ngực hoặc dới Tâm, đều có biểu hiện đau ở
trong ngực và đoan khí. điều đó cho thấy trên ca ba ph
ơng diện cơ chế bệnh sinh, vị trí bệnh và biểu hiện lâm
sàng đều tơng tự nh nhau nên hai bệnh này đợc viết
vào cùng một chơng.
Phơng pháp trinh bày này có lợi cho việc phân biệt
sự giống và khác nhau gia nhng bệnh có chung đặc
điểm đồng thời còn giúp cho ngời đọc dễ dàng nắm đ
ợc quy luật biện chứng luận trị.
gi¸ trÞ chñ yÕu vÒ
mÆt häc thuËt
1. Kế thừa và phát huy nhng tinh hoa kiến thức của
Nội kinh
Nội dung Âm binh dơng bí tinh thần nãi trị , Trị
bệnh tất cầu ban - nói về thang bằng của âm dơng:
Cẩn thận tra xét âm dơng mà điều chỉnh, lấy binh làm
cơ ban cho thấy Mục đích của điều trị đều là nhằm duy
tri, hồi phục thang bằng của âm dơng trong cơ thể .
đây là một trong nhng quan điểm cơ ban của Nội
kinh, quan điểm này không chỉ đợc Kim quỹ thừa kế
mà còn đợc phát huy một cách sáng tạo.
Ví dụ nh khi bàn về nguyên tắc điều trị "Khí phận"
của chơng Bệnh thuỷ khí tác gia viết: "Âm dơng tơng
đắc khí của nó hành, đại khí hễ chuyển thi khí sẽ tán".
1. Kế thừa và phát huy nhng tinh hoa kiến thức
của Nội kinh
Lại ví dụ nh do âm dơng lỡng h mà xuất hiện chứng

hàn nhiệt, tác gia không chỉ đơn gian lấy nhiệt trị hàn, hoặc
lấy hàn trị nhiệt mà còn dùng phơng pháp kiến lập trung
khí, điều hoà âm dơng - mà bài Tiểu kiến trung thang trong
sách là đại biểu, nhằm tòng dơng dẫn âm và tòng âm dẫn d
ơng làm âm dơng tơng hỗ hoà điều. Trung khí đợc dẫn đi
khắp nơi thi tất nhiên các chứng hàn nhiệt thác tạp "H lao lý
cấp, quý, nục, đau bụng, mộng thất tinh, tứ chi đau mỏi, lòng
bàn tay chân nóng, miệng khô họng táo " đều tự khỏi. Có thể
thấy Trơng Trọng Canh với t tởng "Trị bệnh tất cầu ban"
của "Nội kinh" - để điều hoà âm dơng là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt ca cuốn sách "Kim quỹ" và Anh hởng sâu sắc tới ph
ơng pháp điều trị tạp bệnh.
1. Kế thừa và phát huy nhng tinh hoa kiến thức
của Nội kinh
Tinh hoa của t tởng "Trị từ lúc cha bệnh" của
"Nội kinh" trong "Kim quỹ" đợc phát triển thành nhng
nguyên tắc cụ thể "Cha bệnh thi phòng bệnh" và đã
bệnh thi phòng biến chứng".
Chơng Bệnh tạng phủ kinh lạc trớc sau chỉ rõ:
"Nếu ngời ta chú trọng dỡng sinh, ngoại tà không thể
xâm phạm kinh lạc. Nếu vào kinh lạc cũng không thể
truyền sâu vào tạng phủ. Về điều trị, nếu thấy chân tay tê
mỏi dùng các phơng pháp xoa bóp, uống thuốc, châm
cứu, dỡng sinh không cho cửu khiếu bị bế tắc.
1. Kế thừa và phát huy nhng tinh hoa kiến thức
của Nội kinh
Cũng trong kinh van đầu tiên của sách viết: "Thấy Can
bị bệnh biết bệnh từ Can sẽ chuyển đến Tỳ, cần bổ Tỳ".
Nhấn mạnh thấy Can bị bệnh phần nhiều sẽ anh hởng đến
Tỳ, điều trị nên chú ý kết hợp cha Tỳ, không nên chỉ cha

bệnh cho Can. Vi nh vậy không nhng bệnh Can khó lành
mà tạng bị nó anh hởng cũng không tránh khỏi bị bệnh.
đối với bệnh do tà khí thịnh cần chú ý tạng nó khắc có
thể bị bệnh, trong khi điều trị ngoài việc điều trị chính tạng
bị bệnh cần kết hợp phòng cho tạng mà bệnh có thể truyền
đến đó chính là "Phòng biến chứng khi đã mắc bệnh".
2. Sáng lập lý luận cơ ban của môn lâm sàng của
y học cổ truyền
Chơng Bệnh tạng phủ kinh lạc viết: "Nguyên nhân
gây bệnh không ngoài ba điều, một là tà theo kinh lạc
vào tạng phủ đó là nội nhân. Hai là bệnh tà theo chân
tay, cửu khiếu truyền theo huyết mạch, ủng trệ không
thông đó là ngoại nhân. Và ba là phòng sự, gơm đao,
trùng thú cắn". Việc phân nguyên nhân gây bệnh thành
ba loại đã tạo cơ sở cho học thuyết Tam nhân về sau. Có
thể nói lý luận về nguyên nhân bệnh học đã đợc Tr
ơng Trọng Canh đặt nhng viên gạch đầu tiên.
2. Sáng lập lý luận cơ ban của môn lâm sàng của
y học cổ truyền
Cũng trong chơng này còn viết: "Nếu chân khí của
ngũ tạng vận hành thông thoát thi ngời ta khoẻ mạnh, nếu
tà khí xâm nhập ngời ta có thể chết". đoạn van cho thấy
đạo lý: chính khí có thể chống tà khí và tà khí có thể gây tổn
thơng chính khí. Nên còn có thể nói Trơng Trọng Canh
cũng là ngời đầu tiên sáng lập lý luận về sự phát bệnh.
Trơng Trọng Canh còn là ngời đầu tiên đề xuất lấy
chính khí làm chủ, chẩn đoán chứng kết hợp với bệnh, lý
luận cơ ban về điều trị học. Vi vậy tên của mỗi chơng bao
giờ cũng viết "Mạch chứng và điều trị bệnh xxx". Sách "Kim
quỹ" còn viết về một số bệnh cụ thể nh: bệnh Ngợc, bệnh

Tràng ung, bệnh Giun đũa
3. đồng thời với sáng lập lý luận cơ ban cho môn lâm sàng, sách còn là nhng
ví dụ kinh điển cho vận dụng chính xác, khéo léo về pháp phơng dợc
3.1. Vận dụng mạch pháp
Can cứ vào mạch tợng để chẩn đoán bệnh
Can cứ mạch để lý giai cơ chế bệnh sinh
Can cứ vào mạch để phân biệt bệnh chứng
Can cứ vào mạch để xác định phơng pháp
điều trị
Can cứ vào mạch để tiên lợng diễn biến
bệnh
3. đồng thời với sáng lập lý luận cơ ban cho môn lâm sàng, sách còn là nhng
ví dụ kinh điển cho vận dụng chính xác, khéo léo về pháp phơng dợc
3.2. Vận dụng thiết chẩn
Khi phân biệt tích và tụ, chơng Bệnh ngũ tạng phong
hàn tích tụ viết: "Tích là bệnh của tạng, vị trí không di
chuyển. Tụ là bệnh của phủ, khi có khi không, vị trí di
chuyển và có thể cha khỏi". Nh vậy thông qua sờ nắn ổ
bụng có thể phân biệt mức độ nông sâu nặng nhẹ của tích và
tụ. Khi phân biệt h thực của chứng đầy bụng chơng Bệnh
Phúc mãn hàn sán thực tích chỉ ra: "Bệnh phúc mãn ấn vào
không đau thi là h, nếu đau là thực". Kết luận này không
chỉ là biện chứng quan trọng của chứng đầy bụng mà còn là
tổng kết để phân biệt h thực trong các bệnh ổ bụng.
3. đồng thời với sáng lập lý luận cơ ban cho môn lâm sàng, sách còn là nhũng
ví dụ kinh điển cho vận dụng chính xác, khéo léo về pháp phơng dợc
3.2. Vận dụng thiết chẩn
Về mặt điều trị cũng đề ra: "Bệnh phúc mãn khi giam
hoàn toàn không đau là do hàn, phai dùng thuốc ôn để chũa.
Bệnh phúc mãn không giam, nếu giam không đáng kể là do

thực tích, cần phai hạ dùng bài đại thừa khí thang". đây là
thông qua sờ bụng để phân biệt hàn nhiệt khác nhau.
Cũng trong chơng này Trơng Trọng Canh còn viết: đau
dới mạng sờn, mạch huyền khẩn là do hàn dùng thuốc ôn để
hạ bằng bài đại hoàng Phụ tử thang"; "ấn dới Tâm đầy đau
là do thực, phai hạ bằng bài đại Sài hồ thang". Nh vậy cùng
đau dới mạng sờn và đều là thực chứng, nhng phân thành
chứng thực hàn và thực nhiệt nên khi điều trị dùng pháp ôn hạ
và hàn hạ khác nhau.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×