Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

báo cáo khoa học 'cảng biển việt nam tiềm năng và thách thức'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.64 KB, 3 trang )

cảng biển việt nam
tiềm năng và thách thức


ths. bành thị hải linh
Khoa Kinh tế vận tải biển
Trờng Đại học Hng hải
Tóm tắt: Bi báo đề cập đến hiện trạng, tình hình quản lý, khai thác v xây dựng phát
triển các cảng biển Việt Nam.
Summary: The article mentioned the actualities, the management state, the exploiting,
the constructing and the developing of Vietnam seaports.

Việt Nam đợc coi là một trong những
quốc gia có tiềm năng rất lớn về hoạt động
khai thác kinh tế biển bởi với bờ biển dài trên
3.260 km, có nhiều vụng, vịnh, cửa sông nối
liền với Thái Bình Dơng rất thuận tiện cho
việc xây dựng hệ thống cảng biển, phát triển
đội tàu biển quốc gia, các cơ sở công nghiệp
đóng, sửa chữa tàu biển và thực hiện các loại
hình dịch vụ hàng hải thơng mại khác.
Việt Nam có một hệ thống cảng biển với
tổng chiều dài tuyến mép trên 25 km, hàng
vạn mét vuông kho tàng, bãi chứa hàng, cả
nớc có 126 cảng biển đang hoạt động, đợc
đầu t trang thiết bị, phơng tiện bốc dỡ hiện
đại. Lợng hàng hoá thông qua các cảng biển
hàng năm tăng từ 8 đến 12%. Trong những
năm qua, các dự án lớn nh mở rộng, nâng
cấp cảng Hải phòng, Sài gòn, Tiên Sa (Đà
nẵng); xây dựng mới một số cảng nh Cái


Lân, Chân Mây, Nghi Sơn cũng đã đợc triển
khai. Với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nớc về ngành đờng biển, Cục Hàng hải đã
nghiên cứu, lập quy hoạch và đã đợc Thủ
tớng Chính phủ, Bộ GTVT phê duyệt các Đề
án quy hoạch chi tiết 8 nhóm cảng biển trên
toàn quốc đến năm 2010 và định hớng đến
năm 2020; quy hoạch di dời các cảng trên
sông Sài Gòn và Nhà máy đóng tàu Ba Son;
Quy hoạch cảng biển lớn cho khu vực đồng
bằng sông Cửu Long; Quy hoạch chi tiết cảng
biển Dung Quất; Quy hoạch chi tiết cảng
trung chuyển quốc tế Vân Phong, tỉnh Khánh
Hòa.
Ngành hàng hải Việt Nam đã đầu t xây
dựng mới và đa vào khai thác có hiệu quả
các công trình cảng: Nâng cấp và cải tạo phát
triển cho các cảng biển trọng điểm: Hải
Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ, Cửa Lò,
Nha Trang, Quy Nhơn để đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của hàng hóa thông qua cảng
biển. Đồng thời xây dựng mới một số cảng
quan trọng, đáp ứng cho các tàu có trọng tải
lớn từ 10.000 đến 40.000 DWT cập cảng và
làm hàng nh: cầu cảng 5, 6, 7, cảng Cái Lân
và cầu số 1 Cảng tổng hợp Đình Vũ, Nghi
Sơn, cầu số 1 Cảng Chân Mây, cầu số 1
Cảng Vũng
áng, Dung Quất.
Đến nay, Ngành hàng hải đã xây dựng

đợc 126 bến cảng và 266 cầu cảng nên đã
đáp ứng kịp thời yêu cầu hàng hoá thông qua
cảng biển, đóng góp tích cực vào lĩnh vực xuất
nhập khẩu và trao đổi hàng hóa qua các
vùng, miền, góp phần phát triển kinh tế đất
nớc. Khối lợng hàng hoá thông qua hệ
thống thuộc cảng biển Việt Nam (trong 5 năm
2001-2005) đạt 575.286.000 tấn, trong đó

hàng Container là 10.452.870 TEUS, hàng
lỏng là 170.962.000 tấn, hàng khô là
244.481.000 tấn. Tổng sản lợng hàng hoá
thông qua cảng năm 2005 đạt 139.161.413
tấn, tăng 8,91% so với năm 2004, trong đó
hàng khô là 60.584.571 tấn, tăng 9,9% so với
năm 2004, hàng container là 2.910.793 TEUS
tăng 19,4% so với năm 2004. Hành khách
thông qua cảng biển ớc đạt 75.623 lợt hành
khách.
Hoạt động của ngành hàng hải nói chung
và hệ thống cảng biển quốc gia nói riêng có
tác động mạnh đối với sự phát triển của tất cả
các ngành, lĩnh vực thuộc nền kinh tế quốc
dân, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Song trên
thực tế, công tác quản lý Nhà nớc chuyên
ngành tại cảng biển đợc điều chỉnh bởi nhiều
văn bản quy phạm pháp luật thuộc các lĩnh
vực khác nhau nh hàng hải, thơng mại, hải
quan, tài chính, môi trờng, xuất nhập cảnh,
bảo vệ thực vật, bảo vệ động vật và y tế. Tất

cả các văn bản quy phạm pháp luật nói trên
đều có nội dung điều chỉnh liên quan đến thủ
tục hành chính tại cảng biển, do đó đã dẫn
đến sự chồng chéo, mâu thuẫn và cha phù
hợp với quy định của điều ớc quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
Việc thực hiện chức năng quản lý Nhà
nớc chuyên ngành tại cảng biển cũng do
nhiều cơ quan đảm nhiệm nh cảng vụ hàng
hải, biên phòng cửa khẩu, hải quan cảng,
kiểm dịch y tế, kiểm dịch động vật, kiểm dịch
thực vật và các cơ quan chức năng khác thuộc
các bộ, ngành và địa phơng nơi có cảng.
Nghiên cứu mới đây của 5 cơ quan hợp
tác quốc tế Nhật Bản (JICA) về quản lý cảng
biển thơng mại của Việt Nam cho thấy, hệ
thống cảng này đang chịu một áp lực ngày
càng lớn trong quá trình tiếp tục hội nhập và
phát triển của nền kinh tế. Đó là áp lực phát
sinh từ mối tơng quan tỷ lệ nghịch giữa sự
gần nh bất biến của mô hình quản lý và sự
thay đổi liên tục của hình thái vận tải biển
quốc tế từ mô hình phân khúc thị trờng sang
vận chuyển tích hợp đa năng. Với thực tế này,
để có thể nâng cao sức cạnh tranh và đáp
ứng các yêu cầu của dịch vụ vận tải biển quốc
tế (chiếm tới 90% tổng lợng hàng hoá luân
chuyển trên toàn thế giới hiện nay), việc đổi
mới hình thức quản lý cảng biển thơng mại
đợc coi là đòi hỏi cấp thiết và quan trọng

nhất đối với công tác quản lý cảng biển của
Việt Nam hiện nay.
Theo JICA, quản lý cảng biển thơng mại
bao gồm quản lý đầu t xây dựng hạ tầng
cảng và quản lý hoạt động khai thác cảng.
Đối với quản lý đầu t xây dựng cảng, trong
điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp nh hiện
nay, trớc tiên cần thiết lập trật tự trong đầu t
xây dựng hạ tầng cảng, tránh hiện tợng đầu
t tràn lan. Thực tế cho thấy, ở không ít địa
phơng, cảng biển thơng mại đợc đầu t
xây dựng để thực hiện những mục tiêu quá xa
vời trong tơng lai rất xa. Do vậy, cảng luôn
trong trạng thái chờ đợi ngày đạt công suất
thiết kế, thậm chí ngày đó cha xác định
đợc. Do vậy, theo các chuyên gia của JICA,
cần phải cơ chế hoá việc thiết lập và phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển cảng
trên cơ sở phân loại, xác định tầm quan trọng
của từng cảng nhằm phân loại u tiên trong
đầu t để phân bổ một cách có hiệu quả vốn
đầu t.
JICA và một số chuyên gia về vận tải
biển của Cục Hàng hải Việt Nam khuyến cáo
rằng, Việt Nam nên phân ra 3 loại cảng biển
thơng mại:
- Loại cảng có mức độ đóng góp quan
trọng vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và nền ngoại thơng của đất nớc nói
riêng;

- Loại cảng chuyên dụng phục vụ các
nhu cầu của khách hàng đặc biệt hoặc các
loại hàng hoá đặc biệt;
- Các loại khác.

Sự phân loại cảng không phải là dựa vào
tầm quan trọng của cảng, mà dựa vào cơ sở
xếp hạng u tiên đầu t nhằm mang lại hiệu
quả thiết thực đối với nền kinh tế cũng nh
của ngành vận tải biển và của các địa phơng
có cảng.
Về quản lý khai thác cảng biển thơng
mại, sự bất cập dễ nhận thấy nhất trong công
tác quản lý sử dụng cảng biển hiện nay là việc
thực hiện khấu hao và sử dụng số vốn đợc
lấy ra từ khâu này. Trên thực tế, hầu hết cảng
không sử dụng nguồn vốn lấy ra từ khấu hao
để tái đầu t nâng cấp cảng, nếu có thì rất
nhỏ và thờng đầu t cho các mục đích nh
xây trụ sở, đóng tàu lai dắt, mua sắm thiết bị
bốc xếp và phơng tiện thiết bị khác.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng,
hàng năm nhà nớc đã bỏ ra hàng trăm tỷ
đồng đầu t cho hệ thống hạ tầng cảng biển
mà hoàn toàn không thu hồi đợc. Hơn nữa,
nếu vẫn duy trì cơ chế quản lý nh hiện nay,
việc huy động các nguồn lực khác, đặc biệt là
nguồn lực từ khu vực t nhân vào đầu t cơ sở
hạ tầng cảng biển là hoàn toàn bất khả thi.
Trong khi đó, theo Cục Hàng hải Việt

Nam, việc bóc tách khoản thu khoảng 200 tỷ
đồng/năm từ nguồn thu cầu bến, kho bãi ra
khỏi doanh thu sẽ không hề ảnh hởng tới
hoạt động kinh doanh của hệ thống cảng biển
thơng mại Việt nam, mà lại làm lộ ra khả
năng thu hồi vốn đầu t yếu tố kích thích
việc huy động vốn đầu t vào lĩnh vực này.
Theo tính toán của Bộ GTVT, dự kiến
tổng mức đầu t xây dựng cho toàn bộ hệ
thống cảng biển theo quy hoạch từ nay đến
năm 2010 sẽ lên tới gần 60.000 tỷ đồng
(tơng đơng với 4 tỷ USD).
Để đáp ứng sản lợng hàng hoá thông
qua cảng biển Việt Nam (dự kiến khoảng 265
triệu tấn/năm trong 5 năm tới), từ nay đến
năm 2010, hàng loạt các dự án, công trình
trọng điểm sẽ đợc xây dựng, nâng cấp.
- ở miền Bắc, sẽ mở rộng, nâng cấp
cảng Hải Phòng, Cái Lân, xây dựng cảng
nớc sâu, Lạch huyện
- ở miền Trung là dự án mở rộng nâng
cấp cảng Cửa Lò, Nghi Sơn, Vũng áng, Chân
Mây, cụm cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn, Ba Ngòi,
Nha Trang, Dung Quất, xây dựng cảng Kỳ Hà
phục vụ cho khu kinh tế mở Chu Lai, xây dựng
cảng trung chuyển quốc tế Văn Phong
- ở khu vực miền Nam, sẽ tiến hành cải
tạo, nâng cấp, xây dựng 3 cụm cảng biển ở
thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa
Vũng Tàu.

Để khắc phục những bất cập đang cản
trở quá trình phát triển, hội nhập thì việc thực
hiện cải cách thủ tục hành chính tại cảng biển
ở Việt Nam là vấn đề hết sức cần thiết, đòi hỏi
cần sớm đợc đổi mới. Bộ GTVT đã xây dựng
đề án thí điểm cải cách thủ tục hành chính tại
các cảng biển khu vực thành phố Hồ Chí Minh
và đợc Thủ tớng Chính phủ phê duyệt cho
phép thí điểm tại Quyết định số 55/2002/QĐ-
TTg ngày 24/3/2002.
Việc thí điểm cải cách thủ tục hành chính
tại các cảng biển trong thời gian qua đã nhận
đợc sự ủng hộ nhiệt tình của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trong và ngoài nớc,
các cơ quan, Bộ, ngành liên quan và sự đánh
giá cao của Chính phủ. Trên cơ sở đó, Chính
phủ ban hành Nghị định số 160/2003/NĐ-CP
ngày 18/12/2003 về Quản lý hoạt động hàng
hải tại các cảng biển và khu vực hàng hải của
Việt Nam thống nhất áp dụng đối với hệ
thống cảng biển trong toàn quốc. Đây là một
dấu son trong việc hoàn thiện và đổi mới cơ
chế quản lý nhà nớc về cảng biển, phù hợp
với thông lệ quốc tế và tạo đà cho sự phát
triển chung của ngành trong xu thế hội nhập
hiện nay
Ă

×