Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học 'kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở nhật bản và bài học rút ra cho việt nam'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.47 KB, 4 trang )

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ
NÔNG NGHIỆP Ở NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC RÚT RA
CHO VIỆT NAM
EXPERIENCE FROM THE DEVELOPMENT OF AGRICULTURAL
COOPERATIVES IN JAPAN AND LESSONS DRAWN FOR VIETNAM


PHAN TRỌNG AN
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng


TÓM TẮT
Bài báo khảo sát kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản, qua đó rút ra một số vấn
đề và bài học để phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
ABSTRACT
The report presents the experience in the development of agricultural cooperatives in Japan from which
some issues and lessons have been drawn for the development of the Vietnamese agricultural
cooperatives in the process of integrating into the international economics.


1. Đặt vấn đề
Bước vào cơ chế thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhất là sau khi gia
nhập WTO, hộ nông dân Việt Nam phải đối đầu với nhiều đối thủ sản xuất kinh doanh mạnh.
Đó là các hàng hoá nông sản nhập khẩu và cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu của nông dân
các nước phát triển hơn, có tổ chức rất tốt về quy mô, về trình độ hợp tác. Trong khi 50% giá
trị sản xuất nông nghiệp của Việt Nam dành cho xuất khẩu thì tình trạng đơn thương độc mã
hiện nay không cho phép các hộ tiểu nông cạnh tranh nổi trong sản xuất, thương thuyết nổi
trong mua bán, tranh thủ được về chính sách [3]. Phải nói rằng, hơn lúc nào hết, người nông
dân cần có tổ chức thực sự của mình, được tổ chức tốt từ trên xuống dưới do họ bầu ra và
thực sự quản lý, giúp cho họ vốn, tiêu thụ sản phẩm và kỹ thuật sản xuất tiên tiến,… Đó chính
là các hợp tác xã nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay ở hầu hết các địa phương, hợp tác xã nông


nghiệp vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó cũng như chưa đáp ứng được
mong mỏi của các hộ nông dân. Bài viết mong muốn khảo sát kinh nghiệm phát triển hợp tác
xã nông nghiệp của Nhật Bản rút ra một số vấn đề và bài học để phát triển hợp tác xã nông
nghiệp ở Việt Nam.

2. Kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản
Ở Nhật Bản, các hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức theo ba cấp: Liên đoàn toàn
quốc hợp tác xã nông nghiệp; Liên đoàn hợp tác xã nông nghiệp tỉnh; Hợp tác xã nông nghiệp
cơ sở. Các Hợp tác xã nông nghiệp cơ sở gồm hai loại: đơn chức năng và đa chức năng. Từ
năm 1961 trở về trước các hợp tác xã đơn chức năng khá phổ biến. Nhưng từ năm 1961 trở về
đây, do chính phủ Nhật Bản khuyến khích hợp nhất các hợp tác xã nông nghiệp nhỏ thành
hợp tác xã nông nghiệp lớn, nên mô hình hoạt động chủ yếu của hợp tác xã nông nghiệp Nhật
Bản hiện nay là đa chức năng. Các hợp tác xã nông nghiệp đa chức năng chịu trách nhiệm đối
với nông dân trên tất cả các lĩnh vực dịch vụ như cung cấp nông cụ, tín dụng, mặt hàng, giúp
nông dân chế biến, tiêu thụ sản phẩm và bảo hiểm cho hoạt động của nông dân. Có thể thấy
ưu nhược điểm của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản qua phân tích cơ chế quản lý và chức
năng hoạt động của chúng.
Các hợp tác xã nông nghiệp đa chức năng của Nhật bản thường đảm đương các nhiệm
vụ sau:
- Cung cấp dịch vụ hướng dẫn nhằm giáo dục, hướng dẫn nông dân trồng trọt, chăn
nuôi có năng suất, hiệu quả cao cũng như giúp họ hoàn thiện kỹ năng quản lý hoạt động sản
xuất. Thông qua các cố vấn của mình, các hợp tác xã nông nghiệp đã giúp nông dân trong
việc lựa chọn chương trình phát triển nông nghiệp theo khu vực; lập chương trình sản xuất
cho nông dân; thống nhất trong nông dân sử dụng nông cụ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến,…
Các tổ chức Liên hiệp tỉnh và Trung ương thường quan tâm đào tạo bồi dưỡng cố vấn cho hợp
tác xã nông nghiệp cơ sở.
- Mục tiêu của hợp tác xã là giúp nông dân tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất. Do đó, mặc
dù các hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị hạch toán lấy thu bù chi nhưng các hợp tác xã không
đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà chủ yếu là trợ giúp nông dân. Các hình thức giao dịch
giữa hợp tác xã với nông dân khá linh hoạt. Nông dân có thể ký gửi hàng hoá cho hợp tác xã,

hợp tác xã sẽ thanh toán cho nông dân theo giá bán thực tế với một mức phí nhỏ; nông dân
cũng có thể gửi hợp tác xã bán theo giá họ mong muốn và hợp tác xã lấy hoa hồng; thông
thường nông dân ký gửi và thanh toán theo giá cả thống nhất và hợp lý của hợp tác xã.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản do hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã
đã đề nghị nông dân sản xuất theo kế hoạch với chất lượng và tiêu chuẩn thống nhất với nhau
và ưu tiên bán cho hợp tác xã. Về phần mình, hợp tác xã định tỷ lệ hoa hồng thấp. Các hợp tác
xã tiêu thụ nông sản theo quy mô lớn, không chỉ ở chợ địa phương mà thông qua liên đoàn
tiêu thụ trên toàn quốc với các khách hàng lớn như xí nghiệp, bệnh viện,… Hợp tác xã đã mở
rộng hệ thống phân phối hàng hoá khá tốt ở Nhật Bản.
- Hợp tác xã cung ứng hàng hoá cho xã viên theo đơn đặt hàng và theo giá thống nhất
và hợp lý. Các hợp tác xã đã đạt đến trình độ cung cấp cho mọi xã viên trên toàn quốc hàng
hoá theo giá cả như nhau, nhờ đó giúp cho những người ở các vùng xa xôi có thể có được
hàng hoá mà không chịu cước phí quá đắt. Hàng tiêu dùng không cần đặt hàng theo kế hoạch
trước. Thông thường các hợp tác xã nhận đơn đặt hàng của xã viên, tổng hợp và đặt cho liên
hiệp hợp tác xã tỉnh, sau đó tỉnh đặt cho liên hiệp hợp tác xã toàn quốc. Đôi khi liên hiệp hợp
tác xã nông nghiệp tỉnh hoặc hợp tác xã nông nghiệp cơ sở đặt hàng trực tiếp cho doanh
nghiệp sản xuất. Nhìn chung các liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp tỉnh và Trung ương không
phải là cấp quản lý thuần tuý mà là các tổ chức kinh tế, các trung tâm phân phối và tiêu thụ
hàng hoá.
- Hợp tác xã nông nghiệp cung cấp tín dụng cho các xã viên của mình và nhận tiền gửi
của họ với lãi suất thấp. Các khoản vay có phân biệt: cho xã viên khó khăn vay với lãi suất
thấp (có khi chính phủ trợ cấp cho hợp tác xã để bù vào phần lỗ do lãi suất cho vay thấp). Hợp
tác xã nông nghiệp cũng được phép sử dụng tiền gửi của xã viên để kinh doanh. Ở Nhật Bản
có tổ chức một trung tâm ngân hàng hợp tác xã nông nghiệp để giúp các hợp tác xã quản lý số
tín dụng cho tốt. Trung tâm này có thể được quyền cho các tổ chức kinh tế công nghiệp vay
nhằm phục vụ phát triển nông nghiệp.
- Hợp tác xã nông nghiệp còn sở hữu các phương tiện sản xuất nông nghiệp và chế
biến nông sản để tạo điều kiện giúp nông dân sử dụng các phương tiện này hiệu quả nhất, hạn
chế sự chi phối của tư nhân. Các loại phương tiện thuộc sở hữu hợp tác xã thường là: Máy cày
cỡ lớn, phân xưởng chế biến, máy bơn nước, máy phân loại, đóng gói nông sản. Hợp tác xã

trực tiếp quản lý việc sử dụng các tài sản này.
- Các hợp tác xã còn là diễn đàn để nông dân kiến nghị Chính phủ các chính sách hợp
lý cũng như tương trợ lẫn nhau giữa các hợp tác xã và địa phương.
- Ngoài ra, các hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản còn tiến hành các nhiệm vụ giáo dục
xã viên tinh thần hợp tác xã thông qua các tờ báo, phát thanh, hội nghị, đào tạo, tham quan ở
cả ba cấp hợp tác xã nông nghiệp cơ sở, tỉnh và Trung ương.
Như vậy, có thể thấy rằng hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản đã phát triển từ các đơn vị
đơn năng đến ngày nay trở thành các đơn vị đa năng dịch vụ mọi mặt cho cho nhu cầu của
nông dân và tổ chức liên kết qui mô lớn toàn quốc. Một nước công nghiệp hoá như Nhật Bản,
hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp hiệu quả vẫn là hộ gia đình, do đó hợp tác xã nông
nghiệp, một mặt được thành lập để hỗ trợ nông dân, giúp cho họ vừa nâng cao hiệu quả sản
xuất, vừa cải thiện cuộc sống ở nông thôn, mặt khác vẫn tôn trọng mô hình kinh tế nông hộ và
chỉ thay thế hộ nông dân và tư thương ở khâu nào hợp tác xã tỏ ra có ưu thế hơn hẳn trong
tương quan với mục tiêu hỗ trợ nông dân.

3. Một số vấn đề và bài học để phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam
Thứ nhất. Để giúp các hộ nông dân cải thiện điều kiện sống và phát triển sản xuất, cần
phải liên kết các hoạt động đầu ra, đầu vào cho họ dưới hình thức tốt nhất là hợp tác xã, nông
nghiệp. Bởi vì theo tôn chỉ của hợp tác xã từ trước đến nay thì hợp tác xã có thể mang đến
nhiều điều lợi cho nông dân như:
+ Bán hàng cho nông dân với giá phải chăng, tiện lợi và đảm bảo chất lượng.
+ Giúp nông dân tiêu thụ hàng hoá dễ dàng, có kế hoạch với chi phí giảm, giá cả hợp
lý, buôn bán văn minh, tiêu chuẩn hoá sản phẩm ở mức cao.
+ Tạo thế cạnh tranh tốt cho nông dân cả khi mua và khi bán hàng hoá.
+ Liên kết nông dân sử dụng hết công suất máy móc, chi phí sản xuất thấp.
+ Đào tạo năng lực tự quản lý, năng lực áp dụng kỹ thuật tiên tiến cho nông dân.
Tuy nhiên, các giá trị trên chỉ có được khi hợp tác xã thực sự hoạt động theo nguyên
tắc tự lực tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ, hiệu quả hoạt động cao, có sự tương trợ lẫn
nhau.
Thứ hai, để hợp tác xã nông nghiệp ra đời và phát triển tốt rất cần sự hỗ trợ của Nhà

nước về các mặt: tạo khuôn khổ luật pháp; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn nhất là
đường giao thông, điện, nước; tuyên truyền, khuyến khích, quảng bá cho các hợp tác xã. Nhà
nước cần giúp đỡ hợp tác xã thực thi kiểm soát bằng các chế định luật hạn chế ban lãnh đạo
hợp tác xã lũng đoạn, trá hình doanh nghiệp tư nhân dưới lốt hợp tác xã để hưởng ưu đãi.
Thứ ba, tiêu thụ được sản phẩm cho hộ nông dân với giá phải chăng và chi phí thấp
chính là sự hỗ trợ đáng giá mà các hộ nông dân Việt Nam đang cần. Để làm được điều này
các hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam phải đáp ứng được ba điều kiện:
+ Ban quản lý hợp tác xã phải có tâm huyết với mục tiêu giúp nông dân làm giàu hơn
là dùng hợp tác xã để làm giàu cho cá nhân mình hay để tích luỹ lợi nhuận cho hợp tác xã.
+ Người nông dân hiểu được hợp tác xã chính là tổ chức tự họ giúp họ nên hợp tác với
ban quản lý nhằm thiết lập được chế độ hoạt động tối ưu cho hợp tác xã.
+ Chính quyền địa phương không được can thiệp vào công việc của hợp tác xã nhưng
phải tạo điều kiện cho các mục tiêu xã hội của hợp tác xã có thể thực hiện dễ dàng nhất.
Thứ tư, hợp tác xã nông nghiệp phải được tổ chức ở những khâu nào mà hợp tác xã
làm thì tốt hơn hộ gia đình, tốt hơn tư nhân, thậm chí tốt hơn cả doanh nghiệp Nhà nước. Do
đó lựa chọn khâu nào để hợp tác xã làm là hết sức quan trọng. Kinh nghiệm của Nhật Bản chỉ
ra rằng bốn khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm
và khuyến nông là rất phù hợp với hợp tác xã [1]. Nhưng để chiến thắng tư nhân thì hợp tác
xã nên tổ chức theo kiểu đa năng và tuyển chọn người giỏi làm giám đốc để quản lý, điều
hành. Cán bộ là khâu rất quan trọng, có tính chất quyết định đến sự tồn tại và hiệu quả hoạt
động của hợp tác xã.
Thứ năm, theo kinh nghiệm của Nhật Bản cần đề cao vấn đề giáo dục đào tạo nhân lực
cho hợp tác xã. Các tổ chức Liên hiệp hợp tác xã tỉnh, quốc gia đều coi trọng nhiệm vụ này.
Nếu làm tốt nhiệm vụ này thì phong trào hợp tác xã sẽ phát triển bền vững. Chú trọng đào tạo
cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ tư vấn cho hợp tác xã và nông dân. Đặc biệt các hợp
tác xã cần coi trọng hoạt động khuyến nông, coi đây là phương tiện cơ bản giúp nông dân
vượt khó, xoá nghèo để vươn lên làm giàu. Hợp tác xã nông nghiệp phải coi cải tạo tư tưởng
phong cách, lề lối, tập quán sản xuất của nông dân là mục tiêu của mình thì mới giúp ích
nhiều cho nông dân và giúp hộ nông dân phát triển lực lượng sản xuất để cạnh tranh hiệu quả
với nông dân thế giới trong nền kinh tế toàn cầu và chắc chắn 100% nông dân sẽ trở thành xã

viên của hợp tác xã như ở Nhật Bản.

4. Kết luận
Hợp tác xã nông nghiệp chỉ phát triển và phát huy tác dụng tốt cho hộ nông dân khi:
hợp tác xã thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý dân chủ,
hiệu quả hoạt động cao; việc lựa chọn khâu dịch vụ nào để hợp tác xã làm là hết sức quan
trọng. Bốn khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm
và khuyến nông là rất phù hợp với hợp tác xã. Nhưng để chiến thắng tư nhân thì hợp tác xã
nên tổ chức theo kiểu đa năng và tuyển chọn người giỏi làm giám đốc để quản lý, điều hành.
Ngoài ra để hợp tác xã nông nghiệp phát triển cũng cần sự hỗ trợ của Nhà nước.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Hữu Tiến, Tổ chức hợp tác xã ở một số nước châu Á, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, 1996.
[2] Phạm Thị Cầm, Vũ Văn Kỷ, Nguyễn Văn Phúc, Kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp
ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
[3] Phạm Bảo Dương, Xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp trong nông
nghiệp nông thôn, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số 9/2004, tr.12-14.

×