Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

luận văn mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục êđê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.79 KB, 106 trang )










LUẬN VĂN:


Mối quan hệ giữa pháp luật
và luật tục ÊĐê















Mở Đầu


1. Tính cấp thiết của luận văn
Dân tộc ÊĐê là một trong 54 dân tộc anh em trong cộng đồng người Việt Nam,
sống chủ yếu ở năm tỉnh Tây Nguyên đông nhất là ở DakLak, DakNông và sau đó là Gia
Lai, Kon Tum và Lâm Đồng. Dân số khoảng 250.000 người. Từ xưa đến nay đồng bào dân
tộc thiểu số ÊĐê sống và điều chỉnh hành vi bằng luật tục của dân tộc mình ít quan tâm
đến pháp luật của Nhà nước. Do vậy, có không ít những phong tục, tập quán lạc hậu đã cản
trở sự phát triển lành mạnh của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Mặt khác, có những phong
tục tập quán tiến bộ kết tinh từ bao đời nay của người ÊĐê lại chưa được pháp luật Nhà
nước ta ghi nhận. Vì vậy, pháp luật đi vào cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê
chưa thật sự tự nhiên và ít hiệu quả. Điều này tạo nên sự cách biệt, thậm chí là xung đột
không đáng có giữa cộng đồng người ÊĐê với người Kinh trong thời gian vừa qua.
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của
Nhà nước ta hiện nay, pháp luật đã được xác định là công cụ quan trọng nhất để nhà nước
quản lý xã hội. Vì vậy, Nhà nước ta đã sử dụng nhiều phương pháp để đưa pháp luật đi vào
cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Mặt khác, vai trò của luật tục ÊĐê cũng
được nâng lên một bước.
Tuy nhiên, về mặt lý luận, mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục nói chung và
luật tục ÊĐê nói riêng chưa được giải quyết một cách triệt để, đó là một trong những
nguyên nhân dẫn đến trong thực tiễn xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê trong thời gian qua còn nhiều hạn chế và khiếm
khuyết. Điều đó cho thấy cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc mối
quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê nhằm chỉ rõ những điểm tương đồng, điểm khác
biệt đồng thời nêu những mặt tích cực cũng như những hạn chế của từng yếu tố trong quản
lý xã hội, chỉ rõ sự tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa chúng… Trên cơ sở đó
đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục



ÊĐê trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Từ đó có cơ sở đề
ra những giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục ÊĐê sao cho pháp

luật và luật tục ÊĐê được sử dụng một cách có hiệu quả nhất trong việc quản lý cộng đồng
người dân tộc thiểu số ÊĐê trong thời gian tới.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài: " Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê
" để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tìm hiểu nghiên cứu đề tài này, tác giả nhận thấy từ trước đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu về luật tục của các dân tộc Việt Nam nói chung và một số công trình
nghiên cứu luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê, cụ thể:
- Luật tục ÊĐê, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996. Công trình này tác giả
thống kê, sắp xếp các quy định của luật tục ÊĐê từ khi hình thành đến năm 1996, bằng hai
thứ tiếng Việt - ÊĐê. Đồng thời, nêu những nét khái quát về sự hình thành và phát triển
của luật tục ÊĐê, vị trí vai trò của luật tục ÊĐê trong đời sống của người ÊĐê từ trước tới
nay.
- Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, 2000. Trong công trình này ngoài các phần viết về luật tục của các dân tộc trên
lãnh thổ Việt Nam nói chung, có phần viết về lịch sử hình thành luật tục ÊĐê, vai trò của
luật tục ÊĐê trong đời sống cộng đồng người ÊĐê và nêu một số thực trạng tranh chấp và
giải quyết tranh chấp đất đai trong các thời kỳ lịch sử gắn liền với sự phát triển của luật tục
ÊĐê.
- Luật tục Tây Nguyên - giá trị văn hóa pháp lý, quản lý cộng đồng và mối quan hệ
với pháp luật (Hoàng thị Kim Quế, Tạp chí Khoa học kinh tế luật, số 1/2005).
- Vai trò của người điều hành và thực thi luật tục; Giải quyết tranh chấp về dân sự
trong luật tục ÊĐê; Hiệu lực của luật tục ÊĐê trong dời sống dân sự hiện đại (Y Nha,
Nguyễn Lộc - Tòa án nhân dân tỉnh DakLak). Các công trình này tác giả viết dưới dạng đề
tài khoa học nghiên cứu các vấn đề liên quan đến vai trò của các già làng, trưởng buôn



trong giải quyết tranh chấp dân sự phát sinh trong đời sống của cộng đồng người ÊĐê và
nghiên cứu tính hiệu lực trên thực tế của luật tục ÊĐê.

- Những quy định của luật tục ÊĐê về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (luật sư Phùng Trung Tập). Nêu trình tự thủ tục giao kết hợp đồng dân sự, giải quyết
tranh chấp hợp đồng dân sự và giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy
định của luật tục ÊĐê
Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu của một số tác giả về lĩnh vực hôn
nhân gia đình, lĩnh vực văn hóa dân gian, lĩnh vực môi trường v.v…
Như vậy trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về luật tục
ÊĐê, mỗi công trình tiếp cận nghiên cứu luật tục ÊĐê ở các góc độ khác nhau, nhưng chưa
có đề tài nào riêng biệt nói về mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân tộc
thiểu số ÊĐê trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. Vì vậy,
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục ÊĐê đáp ứng yêu cầu cấp bách cả
lý luận và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng.
3. Phạm vi nghiên cứu
* Về đối tượng nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ giữa
pháp luật và luật tục ÊĐê (thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh DakLak)
trên một số lĩnh vực nhất định.
* Về thời gian:
Trong phạm vi của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa
pháp luật và luật tục ÊĐê dựa trên số liệu điều tra xã hội học tại các buôn làng đồng bào
dân tộc thiểu số ÊĐê trên địa bàn tỉnh DakLak và thông qua hoạt động xét xử các loại án ở
Tòa án nhân dân DakLak.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:



Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích và đánh giá thực
trạng mối quan hệ giữa pháp luật với luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê, luận văn
nêu ra một số giải pháp tăng cường giải quyết tốt mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục

ÊĐê hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ của luận văn, phân tích cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa pháp luật với
luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê cụ thể là:
- Xác định vị trí, vai trò của pháp luật và luật tục của đồng bào thiểu số ÊĐê trong
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
- Phân tích những nét tương đồng, khác biệt và mối quan hệ giữa pháp luật và luật
tục của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê.
- Nêu bật được thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân
tộc thiểu số ÊĐê hiện nay, có số liệu cụ thể chứng minh thực trạng lấy từ việc điều tra xã
hội học ở các buôn làng dân tộc thiểu số ÊĐê trên địa bàn tỉnh DakLak và thống kê được
từ hoạt động xét xử các loại án ở Tòa án nhân dân tỉnh DakLak.
- Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng về mối quan hệ giữa pháp luật và luật
tục của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê hiện nay, rút ra mặt được và mặt chưa được,
nguyên nhân của thành công và tồn tại. Từ đó đưa ra quan điểm và giải pháp tăng cường
mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số Ê Đê trong giai đoạn
xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
về chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền nói chung và chính sách dân tộc nói
riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp:
phân tích - tổng hợp, lịch sử - cụ thể; kết hợp các phương pháp điều tra xã hội học, phương



pháp thống kê tổng hợp số liệu thông qua hoạt động xét xử các loại án ở Tòa án nhân dân
tỉnh DakLak.
6. ý nghĩa của luận văn

Về lý luận:
Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận nhà nước và pháp luật về
mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
Về thực tiễn:
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong việc xây dựng pháp luật
về chính sách dân tộc của Nhà nước ta trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay.
Luận văn nghiên cứu vấn đề về mối quan hệ tương tác giữa pháp luật và luật tục
của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê trong khi ở địa bàn bốn tỉnh Tây Nguyên đang có nhiều
cuộc bạo loạn của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê nổi lên đòi thành lập nhà nước Đề Ga
độc lập. Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu của bản luận án này góp phần tích cực về
việc hài hòa mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê;
làm cầu nối cho người dân tộc thiểu số ÊĐê chung sống hòa bình, tự nhiên với cộng đồng
người Việt trên đất nước Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục ÊĐê.
Chương 2: Thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường giải quyết tốt mối quan hệ
giữa pháp luật và luật tục ÊĐê ở tỉnh ĐăkLăk hiện nay.





Chương 1
CƠ Sở Lý Luận Về Mối QUAN Hệ
Giữa Pháp Luật Và Luật Tục ÊĐÊ


1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của pháp luật và luật tục ÊĐê
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của pháp luật
Khái niệm: Pháp luật ra đời và tồn tại một cách khách quan để đáp ứng nhu cầu quản
lý các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Nó tồn tại song song với nhiều hiện tượng xã hội
khác cùng thực hiện chức năng điều chỉnh xã hội. Quá trình điều chỉnh các mặt khác nhau của
đời sống xã hội, pháp luật thể hiện tính vượt trội so với các hiện tượng xã hội khác trong việc
đáp ứng nhu cầu quản lý đời sống xã hội, đồng thời nó cũng bộc lộ tính phức tạp thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của các nhà luật học trong nước và thế giới. Cho đến hiện nay, khái niệm
pháp luật vẫn chưa được nhận thức một cách hoàn toàn thống nhất. Quan điểm truyền thống
cho rằng: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu
cầu về lợi ích của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội với mục đích trật tự và ổn định xã hội vì sự bền vững của xã hội [18, tr. 288].
Có thể nói, hầu hết các sách báo pháp lý, các luật gia, nhà khoa học đều thừa nhận cách hiểu
này. Tuy vậy cũng có một số tác giả không hoàn toàn tán thành cách hiểu cụm từ: Pháp
luật là hệ thống các quy tắc xử sự. Xuất phát từ quan điểm cho rằng quy tắc xử sự là những
mô hình, khuôn mẫu cho hành vi con người, nó xác định rõ trong điều kiện, hoàn cảnh hay
tình huống nào thì chủ thể được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào hay không được làm
gì…., một số tác giả cho rằng, pháp luật được hiểu là hệ thống những quy tắc xử sự sẽ
không bao quát hết những sự vật mà nó phản ánh, bởi lẽ trong pháp luật còn có rất nhiều
quy định do nhà nước ban hành nhưng không phải là quy tắc xử sự. Tác giả cho rằng lập
luận này có phần gò bó cứng nhắc. Thực tế, đúng là có rất nhiều quy định do Nhà nước
ban hành chỉ là để qui định cách hiểu về một thuật ngữ, giải thích một khái niệm hay nêu
lên một tư tưởng, một nguyên tắc nào đó, chúng không phải là những quy tắc xử sự bởi



chúng không đưa ra một phương án xử sự cụ thể nào để chủ thể thực hiện theo. Tuy nhiên,
chúng lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giúp các chủ thể nhận thức và thực hiện một
cách đúng đắn, đầy đủ những quy tắc của hành vi mà nhà nước đã đề ra. Mặt khác, pháp

luật là hiện tượng xã hội nên không thể là một phép cộng giản đơn của những quy tắc xử
sự do nhà nước ban hành mà nó còn bao gồm những tư tưởng, những nguyên tắc, những
khái niệm, thuật ngữ nào đó tạo thành chất keo liên kết những quy tắc xử sự thành một thể
thống nhất. Bởi vậy, theo tác giả, quan niệm pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự là
hoàn toàn chính xác.
Đặc điểm: Từ khái niệm trên ta có thể nhận dạng pháp luật một cách tương đối rõ
ràng trong vô vàn hiện tượng xã hội khác nhau đang tồn tại trong xã hội:
Trước hết, pháp luật mang tính quy phạm, phổ biến, bắt buộc chung. Quy phạm
pháp luật là quy tắc hành vi có giá trị như những khuôn mẫu xử sự, hướng dẫn, kiểm tra,
đánh giá hành vi của các cá nhân, các quá trình xã hội. Luật tục ÊĐê nói riêng và các loại
công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác cũng có tính quy phạm nhưng nó không có tính
phổ biến, bắt buộc chung. Nếu như các quy phạm luật tục ÊĐê chỉ có giá trị áp dụng bắt
buộc đối với các thành viên trong cộng đồng người ÊĐê thì pháp luật lại có tính phổ biến
và bắt buộc chung đối với tất cả các thành viên trong xã hội. Các quy phạm pháp luật được
áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong không gian và thời gian. Nó chỉ phát sinh hiệu lực
khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và hết hiệu lực áp dụng khi các cơ
quan có thẩm quyền của Nhà nước sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ. Điều này thể hiện điểm
khác biệt của pháp luật so với các hiện tượng xã hội khác đó là tính quyền lực nhà nước
hay ý chí nhà nước.
Đặc điểm thứ hai: Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức. Đối với các
quy phạm luật tục ÊĐê và các quy phạm xã hội khác như quy phạm đạo đức, tập quán…có thể
lưu truyền bằng miệng trong dân gian, riêng pháp luật phải được thể hiện dưới dạng thành
văn, ngôn ngữ trong các quy phạm pháp luật phải mang tính phổ thông và đễ hiểu. Mặt khác
pháp luật có tính chính xác cao, giúp cho các chủ thể hiểu một cách rõ ràng những điều
pháp luật cho phép, những điều pháp luật buộc phải làm và những điều ngăn cấm. Từ đó
chủ thể lựa chọn cho mình một cách xử sự đúng với yêu cầu của pháp luật.



Đặc điểm thứ ba của pháp luật là tính được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Chỉ

có nhà nước mới được ban hành pháp luật, và cũng chỉ có nhà nước mới có đủ quyền lực
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật trong phạm vi toàn xã hội. Pháp luật
sẽ trở nên vô nghĩa khi không có một bộ máy bảo đảm thực hiện đó là nhà nước. Các quy
phạm xã hội khác cũng được bảo đảm thực hiện bằng nhiều hình thức như lương tâm,
niềm tin tín ngưỡng, áp lực dư luận cộng đồng…nhưng không có tính bảo đảm thực hiện
bằng nhà nước. Ngoài ba đặc điểm này pháp luật còn có một số đặc điểm khác như tính hệ
thống, tính ổn định tương đối… Vì vậy, khi nghiên cứu các đặc điểm của pháp luật cần
phải có cách nhìn nhận tổng quát toàn diện để phân biệt các quy phạm pháp luật với các
quy phạm xã hội khác.
Vị trí vai trò của pháp luật: Pháp luật ra đời đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội trong điều kiên các giai cấp đối kháng nhau về quyền lợi. Có thể nói pháp
luật xuất hiện như một tất yếu khách quan, là công cụ bảo vệ giai cấp thống trị, củng cố,
xác lập trật tự xã hội. Không có pháp luật thì không có trật tự xã hội và không một cộng
đồng, một xã hội nào có thể tồn tại được trong điều kiện xã hội có giai cấp. Điều này cho
thấy vị trí vai trò to lớn của nó trong đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, nội dung của luật tục ÊĐê
Khái niệm: Luật tục thuộc phạm trù tập quán. Theo các quan điểm phổ biến hiện
nay, luật tục được hiểu là những phong tục tập quán tồn tại dưới dạng truyền khẩu và
thành văn, là hệ thống những quy tắc xử sự điều chỉnh mọi mặt của đời sống cộng đồng.
Điểm khác biệt của luật tục so với những phong tục tập quán bình thường đó là luật tục
không phải tổng hợp mọi phong tục tập quán mà chỉ bao gồm những phong tục, tập quán,
quy lệ tác động đến những hành vi cá nhân trong cộng đồng hay giữa các cộng đồng với
nhau như là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc, gắn với những hình thức xử phạt và
khen thưởng.
Luật tục và tập quán là những khuôn mẫu ứng xử được đặt ra trong một cộng đồng.
Nó có những điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau đó là: Luật tục và tập quán
đều được hình thành từ những thói quen, khuôn mẫu ứng xử được mọi người tuân theo. Tập




quán có biên độ rộng còn luật tục thường có biên độ hẹp hơn, quy định rõ những điều cụ thể.
Tập quán được mọi người chấp nhận tự giác, còn luật tục có tính cưỡng chế, gây áp lực bắt
buộc mọi cá nhân trong cộng đồng phải tuân theo. Luật tục bắt nguồn từ tập quán, trong quá
trình áp dụng tập quán từ thế hệ này sang thế hệ khác, sự tuyển chọn tự nhiên của con người
dẫn đến một số tập quán đáp ứng được những nhu cầu cần thiết cho việc bảo vệ lợi ích của
một cộng đồng người đã trở thành luật tục.
Nói theo ngôn ngữ pháp lý hiện đại thì luật tục vừa chứa đựng các quy định về luật
nội dung và luật hình thức, nó chính là những hành động, những khuôn mẫu ứng xử ừ tuân
theo chuẩn mực luân lý, chính trị và thẩm mỹ của một cộng đồng. Đặc biệt, luật tục có tính
cưỡng chế cao, nó quy định những điều được phép làm và những điều ngăn cấm.
Luật tục ÊĐê không nằm ngoài phạm trù tập quán. Nó là những khuôn mẫu ứng
xử được hình thành, lưu truyền trong cộng đồng người dân tộc thiểu số ÊĐê dưới dạng
truyền miệng, được sàng lọc, tuyển chọn từ hệ thống tập quán của đồng bào dân tộc thiểu
số ÊĐê qua nhiều thế hệ. Cho đến giai đoạn hiện nay không ai khẳng định được một cách
chính xác luật tục ÊĐê ra đời từ thời điểm cụ thể nào. Vào những năm đầu thập niên ba
mươi của thế kỷ XX viên Công sứ Pháp ở tỉnh DakLak: L.Sabatier đã tổ chức sưu tầm luật
tục của người ÊĐê bằng cách ghi âm tiếng ÊĐê và dịch ra bằng chữ ÊĐê, đó là loại chữ
được các cố đạo người Pháp xây dựng và đưa vào bộ vần chữ la tinh. Sưu tập này được gọi
là Tập quán pháp ca [19, tr. 22] và công bố công trình này vào năm 1926. Đến năm 1940
D.Antomarchi đã dịch và công bố luật tục này trên tạp chí Trường Viễn Đông Bác Cổ
(B.E.F.E.O).
Sau năm 1975 nhà Tây Nguyên học Nguyễn Hữu Thấu đã dịch bản luật tục này ra
tiếng việt qua bản in tiếng pháp. Trên cơ sở văn bản luật tục ÊĐê của L. Sabatier, Nguyễn
Hữu Thấu tham khảo thêm hai bộ luật tục mới sưu tầm được đó là bản luật tục ÊĐê của
Chu Thái Sơn, Bế Viết Đăng, Nguyễn Nam Tiến sưu tầm và bản luật tục chữ ÊĐê do Chu
Thái Sơn sưu tầm. Đến năm 1996 luật tục ÊĐê được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia cho
xuất bản bằng hai thứ tiếng Việt - ÊĐê [19, tr. 23]. Như vậy xét về mặt lịch sử, luật tục
ÊĐê được hình thành như là một đạo luật dân gian có vai trò điều hành, ổn định cuộc sống




của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó trở thành một thứ
văn hóa truyền thống của một tộc người.
Về bản chất luật tục ÊĐê được quan niệm như là: một loại luật được sử dụng, lưu
truyền trong dân gian, bắt nguồn từ phong tục, tập quán và gắn liền với phong tục tập
quán, khu biệt với luật nhà nước… Nói tóm lại, có thể khái quát những nét nhận diện cơ
bản về luật tục ÊĐê đó là:
- Luật tục ÊĐê là những quy tắc xử sự chung của người ÊĐê, được người ÊĐê
sáng tạo nên và lưu truyền trong cộng đồng người ÊĐê qua nhiều thế hệ, được mọi thành
viên trong cộng đồng mặc nhiên thừa nhận và thi hành.
- Luật tục ÊĐê có phạm vi điều chỉnh rộng. Nó chứa đựng cả luật nội dung và luật
tố tụng. Có thể coi luật tục ÊĐê là tiêu chí cho xử sự của các thành viên trong cộng đồng
người ÊĐê trên tất cả các lĩnh vực đạo đức, luân lý và tình cảm
- Luật tục ÊĐê xuất phát từ phong tục tập quán và trở lại điều chỉnh các quan hệ
nảy sinh trong cộng đồng người ÊĐê, bảo vệ các phong tục tập quán, có quan hệ chặt chẽ
với tín ngưỡng và tôn giáo.
Từ sự khái quát này, tác giả rút ra khái niệm luật tục ÊĐê như sau:
Luật tục ÊĐê là những quy tắc xử sự chứa đựng những tiêu chí về đạo đức, luân
lý, các phong tục tập quán, lễ nghi tôn giáo; do nhiều thế hệ trong cộng đồng người ÊĐê
có quan hệ huyết thống xây dựng nên và lưu truyền cho tới ngày nay, để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, nhằm điều hòa và bảo vệ xã hội truyền thống trong cộng đồng người ÊĐê;
được mọi thành viên trong cộng đồng người ÊĐê chấp nhận, thực hiện một cách tự giác.
Đặc điểm: Luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số Ê Đê bắt nguồn từ đời sống xã
hội cộng đồng của người ÊĐê. Xã hội trong luật tục ÊĐê là xã hội của cộng đồng người
dân tộc thiểu số ÊĐê sống chủ yếu ở bốn tỉnh DakLak, Gia Lai, Dak Nông, Lâm Đồng
thuộc vùng Tây Nguyên Nam Trung Bộ. Luật tục ÊĐê chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều
kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Nền kinh tế tự cung tự
cấp của đồng bào dân tộc ÊĐê trên cao nguyên Nam Trung Bộ được phản ánh rõ nét trong
luật tục ÊĐê. Trong 11 chương, 236 diều của luật tục ÊĐê có nhiều điều quy định về các




hành vi trao đổi vật ngang giá mà không có điều nào quy định các vấn đề liên quan đến các
hành vi mang tính chất thương mại hiện đại.
Do được hình thành một cách tự phát theo nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ
trong cộng đồng người dân tộc thiểu số ÊĐê - một cộng đồng người sống gắn liền với nền
sản xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp, phụ thuộc vào thiên nhiên, tin tưởng vào các lực
lượng siêu nhiên nên luật tục ÊĐê chứa đựng nhiều quy định bảo vệ lễ nghi tôn giáo, tín
ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê, được lưu truyền dưới dạng truyền miệng, phát
triển qua nhiều thế hệ và được coi là một công trình lập tục tập thể [23]. Vì vậy, luật tục
ÊĐê đi vào ý thức của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê một cách tự nhiên và được cộng
đồng người ÊĐê chấp nhận một cách tự giác. Ngôn ngữ trong luật tục ÊĐê mộc mạc,
mang đậm chất thi ca, gần gũi với thiên nhiên làm cho người đọc dễ hiểu và dễ áp dụng
Cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê có tính gắn kết cộng đồng cao. Điều
hành công việc chung của cộng đồng người ÊĐê ở các buôn làng là các Trưởng buôn.
Đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê ví Trưởng buôn như "Cây sung đầu suối, Cây đa đầu làng"
(Luật tục ÊĐê, Điều 26). Người Trưởng buôn được dân làng bầu ra, có quyền lực tối cao
trong làng và phải chịu ràng buộc chặt chẽ của luật tục khi thực hiện hành vi quản lý, điều
hành buôn làng. Luật tục ÊĐê dành hẳn chương II và III quy định về việc bầu Trưởng
buôn, quyền hạn của Trưởng buôn và mô tả các hành vi "có tội" của Trưởng buôn kèm
theo hình phạt khá nặng nề và chi tiết đối với Trưởng buôn trong khi thi hành nhiệm vụ
quản lý, điều hành và xử lý các công việc của buôn làng giao.
Luật tục ÊĐê là bức tranh phản ánh sâu sắc toàn cảnh lịch sử xã hội mẫu hệ kéo
dài từ hàng trăm năm và vẫn tồn tại khá điển hình trong xã hội hiện đại. Trong luật tục
ÊĐê các chương bảo vệ quyền thừa kế theo dòng họ mẹ, các chương hôn nhân gia đình
chiếm phần lớn nội dung của luật tục. Trong sự phân bố 236 điều của luật tục ÊĐê, có 48
điều quy định vấn đề hôn nhân gia đình. Như vậy cho thấy vấn đề hôn nhân trong luật tục
ÊĐê được chú trọng hàng đầu, đó là quan hệ hôn nhân theo truyền thống mẫu hệ: người
phụ nữ chủ động trao vòng tay cầu hôn người đàn ông và cưới người chồng về cư trú tại
nhà mình, con sinh ra mang họ mẹ…




Luật tục ÊĐê phát triển mạnh ở những cộng đồng nhỏ người ÊĐê có tính huyết
thống cao. Nó bao gồm những quy định về đạo đức và trí thức dân gian bản địa về con người,
tự nhiên và xã hội để hình thành nên những quy tắc ứng xử của cá nhân và cộng đồng người
ÊĐê. Do được hình thành từ cuộc sống gắn với tự nhiên của cá nhân và cộng đồng người
ÊĐê, nên luật tục ÊĐê có những đặc điểm cơ bản nổi trội vừa gần gũi với pháp luật, vừa
khác biệt với pháp luật.
Luật tục ÊĐê vừa chứa đựng các quy định về luật nội dung và luật tố tụng, tính
cưỡng chế cao và có hiệu lực trên thực tế. Mặt khác, luật tục ÊĐê có phạm vi điều chỉnh
rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực quan hệ xã hội. Hình phạt trong luật tục ÊĐê có điểm
đặc trưng đó là phạt đền bằng hiện vật.
Vị trí vai trò của luật tục ÊĐê trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê:
Luật tục ÊĐê trước hết là một kho tàng trí thức dân gian được tích lũy từ thực tế đời sống
của nhiều thế hệ đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Nó đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê, từ sản xuất, tổ chức xã hội và
quan hệ cộng đồng, quan hệ nam nữ, lễ nghi tôn giáo, phong tục… ở từng lĩnh vực, các tri
thức dân gian này đều được định hình và trở thành các nguyên tắc nhằm giáo dục răn đe
mọi người, ngăn chặn những hành vi làm thương tổn lợi ích của cá nhân và của cộng đồng,
phù hợp với nhận thức và trình độ xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê.
Trong xã hội cổ truyền cũng như trong xã hội hiện đại, luật tục ÊĐê vẫn phát huy
vai trò điều chỉnh mọi mối quan hệ xã hội ở các buôn làng đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê hiện nay luật tục vẫn là chuẩn mực trong mọi hành
vi ứng xử hàng ngày. Trong giao tiếp với cá nhân, cộng đồng, khi gặp phải tình huống phải
lựa chọn, đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê thường nghĩ ngay đến những câu luật tục mang
đậm chất thơ để định hướng cho những hành vi ứng xử khỏi đi ra ngoài quy định của luật
tục. Còn đối với những người được giao trọng trách xử kiện (Khoa Pin Ea), họ gần như
thuộc lòng các vần điệu của luật tục để dẫn ra từng câu, từng đoạn thích hợp nhằm phân
tích phải trái và luận tội, buộc tội một cách chính xác bảo đảm quyền lợi cho mỗi cá nhân

cũng như của cộng đồng. Điều đó thể hiện sức sống mãnh liệt của luật tục ÊĐê và chứng



minh cho sự hợp lý, sự cần thiết của nó trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các
buôn làng của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu luật tục ÊĐê ta có thể thấy đây là một hình thái pháp luật sơ khai đã
được đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê sáng tạo nên và hoàn thiện nó qua nhiều thế hệ. Nội
dung của luật tục ÊĐê xác lập vị trí của mỗi cá nhân trong cộng đồng, hình thành nên mối
quan hệ giữa từng thành viên trong cộng đồng với nhau, giữa cá nhân và cộng đồng, góp
phần quản lý cộng đồng một cách chặt chẽ, hiệu quả trong quá khứ và vẫn tiếp tục giữ vai
trò đáng kể trong cuộc sống hiện đại nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay.
Xã hội hiện đại với xu thế hội nhập toàn cầu đang diễn ra ở khắp mọi nơi trên thế
giới nói chung và ở Việt nam nói riêng. Đây là xu hướng phù hợp với sự phát triển của quy
luật tự nhiên. Như vậy, đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê không phải là những thực thể xã hội
biệt lập và không thể mãi mãi thu hẹp hành vi của mình trong phạm vi luật tục của buôn
làng. Trong xã hội mới, đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê phải cùng 54 dân tộc anh em trong
cả nước vận hành trong một hành lang pháp lý chung đó là pháp luật của nhà nước. Tuy
nhiên, luật tục ÊĐê với những quy định mang tính chất tiến bộ sẽ làm nhiệm vụ hậu thuẫn
đắc lực cho pháp luật, làm mềm các quy định vốn cứng nhắc của pháp luật, bổ sung, bù
đắp những quy định có tính khái quát cao của pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội ở các buôn làng đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê và đặc biệt luật tục ÊĐê chuyển
đổi các ngôn ngữ hiện đại của pháp luật thành các ngôn ngữ dân gian, gần gũi với thiên
nhiên, đưa pháp luật đi vào đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê một cách tự nhiên
và hiệu quả. Mặt khác, sự tiếp cận pháp luật tuy mới chỉ là ít ỏi của đồng bào dân tộc thiểu
số ÊĐê trong thời gian qua đã làm cho luật tục ÊĐê có những thay đổi về chất. Một số hủ
tục lạc hậu như đánh đuổi người bị coi là ma lai ra khỏi làng, con đã thành niên vi phạm
luật tục buộc cha mẹ phải bồi thường… nay đã được loại bỏ. Trong xã hội mới, sự tiếp cận
pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê trên diện rộng sẽ làm cho luật tục ÊĐê ngày

càng được sàng lọc và hoàn thiện trở thành những quy tắc ứng xử tiến bộ, hướng hành vi
của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê vừa đi vào quỹ đạo chung của pháp luật nhà nước vừa
không làm trái những tập quán lâu đời của buôn làng.



Nội dung của luật tục ÊĐê: Theo cuốn Luật tục ÊĐê (Tập quán pháp) Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia năm 1996 thì Iuật tục ÊĐê được tập hợp thành 11 chương và 236 điều:
Chương I: Các quy định mở đầu, gồm có 23 điều (từ Điều 1 đến Điều 23)
Trong chương I luật tục ÊĐê đề cập tới các yếu tố cấu thành tội phạm. Mặc dù
việc xác định một người phạm tội trong luật tục ÊĐê còn ở mức độ sơ khai nhưng có
những điểm khá gần gũi với pháp luật như việc mô tả hành vi lừa đảo: Hắn là kẻ biến mủ
cây đa thành mủ cây sung, biến voi cái thành voi đực, biến người này thành người kia…
như vậy có việc phải đưa hắn ra xét xử (Điều 20 luật tục ÊĐê). Mặt khác, trong chương này
luật tục còn quy định việc xem xét chứng cứ cụ thể là những bằng chứng, tang chứng trong
khi xét xử, đồng thời xác định về các hình thức tòng phạm như chứa chấp, bao che người
có tội … Điển hình là quy định về tang chứng: Phải tóm được chân hắn, phải nhìn tận mặt
hắn, phải tóm cổ được hắn bằng giữ được cái gùi hắn đeo, bằng nắm được cánh tay của
hắn, phải nhận được mặt mũi hắn thật chắc chắn (Điều 4 luật tục ÊĐê). Nghiên cứu các
quy định này ta thấy luật tục ÊĐê bước đầu vươn lên đến trình độ của một tục lệ, một tập
quán pháp trong xã hội tiền giai cấp.
Chương II và III: Gồm có 33 điều (từ Điều 24 đến Điều 67). Trong đó, quy định
các tội xúc phạm đến người Trưởng buôn, gồm có 22 điều; và quy định về các tội của
người Trưởng buôn gồm có 11 điều.
Hai chương này trực tiếp đề cập đến mối quan hệ then chốt trong xã hội mang tính
cộng đồng điển hình của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê. Như ta đã biết, thiết chế xã hội
truyền thống của dân tộc ÊĐê là buôn, tương tự như làng người Việt, bản người Thái… đó
là một tàn dư của hình thức công xã láng giềng nguyên thủy bước sang xã hội có giai cấp
[19, tr. 25]. Buôn của người ÊĐê vừa là một cộng đồng cư trú, vừa là một tổ chức xã hội
và văn hóa. Nguyên tắc bao trùm trong buôn là quan hệ cộng đồng. Trong đó quan hệ giữa

người đứng đầu buôn với các thành viên là rất quan trọng. Có thể khái quát các nguyên tắc
này như sau:



Về phía các thành viên: Không được xúc phạm tới danh dự nhân phẩm của Trưởng
buôn. Không được mua chuộc đe dọa Trưởng buôn. Mọi người phải tôn trọng Trưởng
buôn, phải tuân thủ các quy định của cộng đồng mà Trưởng buôn là người điều hành.
Về phía Trưởng buôn: Không được lộng hành, sử dụng quyền hạn được ủy thác để
vô cớ bắt bớ, giam cầm, xử oan người không có tội, không làm tròn trách nhiệm của mình,
không chăm lo chu đáo cho dân làng.
Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ hai mặt trách nhiệm nghĩa vụ và quyền của
người dân cũng như của Trưởng buôn. Mặt khác, nó vừa bảo đảm kỷ cương xã hội, vừa
bảo đảm quyền cá nhân, quyền dân chủ, bình đẳng trong quan hệ cộng đồng buôn làng.
Cũng xuất phát từ nguyên tắc này mà người ÊĐê rất tôn trọng Trưởng buôn. Họ
coi Trưởng buôn như Cây Đa đầu suối, Cây Sung đầu làng, như cha mẹ của dân làng trong
buôn. Trong luật tục ÊĐê có khá nhiều điều bảo vệ danh dự nhân phẩm của Trưởng buôn
và bảo vệ chế độ giải quyết việc làng cho Trưởng buôn: Kẻ thấy Cây Đa thì chặt Cây Đa,
thấy Cây Sung thì chém Cây Sung, thấy mẹ cha hoặc người đầu làng muốn chỉ vẽ dạy dỗ
cho thì hành hung họ tàn nhẫn…kẻ tỏ ra hung hãn láo xược thì phải được trừng trị thích
đáng (Điều 35 luật tục ÊĐê).
Đối với Trưởng buôn, họ là những người được dân làng kính trọng, vì nể và tin
tưởng. Song họ cũng phải chịu sự ràng buộc nghiêm khắc của luật tục. Ông ta là Cây Đa
đầu suối, là Cây Sung đầu làng, là người trông nom anh em con cháu trong làng. Thế mà
ông ta lấn át chà đạp áp bức họ… Được lót miếng thăn, miếng sấn là ông ta tìm ngay ra
cớ để bao che cho kẻ có tội. Vì vậy có việc phải đưa ông ta ra xét xử (Điều 61 luật tục
ÊĐê). Đây cũng là yếu tố tự nhiên để hạn chế sự lạm quyền mà ở bất cứ xã hội nào cũng
có thể xảy ra và đặc biệt môi trường thuận lợi cho sự lạm quyền phát triển đó là đời sống
mang tính cộng đồng do một cá nhân điều hành buôn làng như cộng đồng người ÊĐê.
Chương IV: Gồm có 27 điều (từ Điều 68 đến Điều 94). Quy định về vi phạm các

lợi ích của cộng đồng. Các quy định về bảo vệ lợi ích của cộng đồng ở chương IV luật tục
ÊĐê tập trung vào các mặt sau:



- Tội xâm phạm phong tục, tập quán của buôn làng; tội lang thang lêu lổng không
chịu sống theo khuôn phép của cộng đồng. Hành vi lang thang được luật tục mô tả: Hắn là
một tên lang thang lêu lổng, ăn bát đủ mọi nhà, đến đâu cũng xin ăn…Hắn là cái nong xổ
vành không còn ai cạp lại được. Tất cả mọi người từ người tù trưởng cho đến từng bà con,
anh em dân làng, không một ai còn có thể khuyên bảo hắn được nữa… thì không ai che
chở hắn nữa. Người ta bỏ mặc hắn dưới mồ … không một ai dòm ngó, mặc cho số phận
của hắn trôi nổi … Tội không sống theo khuôn phép của cộng đồng thể hiện tính gắn kết
giữa các cá nhân với nhau của người ÊĐê, là sự sống còn trong đời sống tinh thần của họ.
Đây là nét đặc trưng của tộc người này.
- Tội không giúp đỡ người hoạn nạn; tội làm lây lan bệnh truyền nhiễm cho người
khác; tội làm cháy rừng, gây hỏa hoạn (Điều 72, 73, 80, 81, 82 luật tục ÊĐê) … Rừng và con
người là hai đối tượng được luật tục ÊĐê quan tâm hàng đầu. Theo quan niệm của người
ÊĐê: Có người thì phải có rừng và ngược lại. Rừng là nguồn sống, là điều kiện tồn tại của
tộc người này. Mọi thức ăn vật dùng trong gia đình của người ÊĐê đều được lấy từ rừng.
Người ÊĐê yêu quý rừng như yêu chính tộc người của họ. Vì vậy, việc đốt rừng và làm
cháy rừng được luật tục ÊĐê coi là trọng tội: Đàn ông đốt lửa bừa bãi, đàn bà đốt lửa bậy
bạ… cả rừng le bị cháy khô cả rừng lồ ô bị cháy trụi, hang thỏ, hang chồn đều bị thiêu trụi
tất cả. Vì vậy có chuyện nghiêm trọng phải xét xử.
Bảo vệ lợi ích của cộng đồng là vấn đề then chốt, bảo đảm sự tồn tại và vận hành
xã hội cổ truyền ÊĐê. Về cơ bản các quy định này vẫn còn phù hợp với quan hệ cộng đồng
và xử lý các mối quan hệ cộng đồng trong buôn làng của người dân tộc thiểu số ÊĐê hiện
nay. Qua tìm hiểu ở một số buôn làng người ÊĐê tại huyện Cư Mgar tỉnh DakLak trong
tháng 7/2006, hầu hết các trưởng buôn đều sử dụng các quy định của luật tục trong chương
này để xử lý những người vi phạm lợi ích của cộng đồng, của buôn làng và đặc biệt là hiệu
lực thực tế của các quy định này rất cao, gần như 100% vụ vi phạm do Trưởng buôn xử lý

theo các quy định của luật tụcÊĐê đều được bên vi phạm tự nguyện thi hành.
Chương V: Gồm 48 điều (từ Điều 95 đến Điều 142) quy định về hôn nhân gia
đình. Đây là vấn đề tế nhị và phức tạp nhất trong quan hệ cộng đồng của bất cứ dân tộc
nào. Đối với người ÊĐê, gia đình không những là tế bào của xã hội mà còn là mấu chốt để



duy trì cuộc sống của cộng đồng. Trong Sang drông (căn nhà dài) của người ÊĐê có nhiều
thế hệ cùng sinh sống, chỉ cần những mâu thuẫn nhỏ phát sinh từ các cặp vợ chồng trong
gia đình thì cuộc sống chung của cộng đồng người trong gia đình đó sẽ trở nên hỗn loạn.
Vì vậy, hôn nhân gia đình là vấn đề được người ÊĐê quan tâm hàng đầu. Trong luật tục ÊĐê
chương hôn nhân gia đình là chương có nhiều điều nhất. Nét nổi bật trong nguyên tắc hôn
nhân của người ÊĐê mà luật tục bảo vệ nghiêm ngặt là tục nối nòi, có tới 9 điều đề cập
đến các khía cạnh khác nhau của lệ tục này. Nội dung của hôn nhân nối nòi được diễn đạt:
Rầm nhà gãy thì phải thay, dát sàn nát thì phải thế. Chết người này thì phải thế bằng
người khác. Vì tranh cùng một giống, cây Knôk cùng một nòi, hai dòng họ lấy nhau, nuôi
lẫn nhau từ xưa… Nhưng nếu họ tỏ ra lạnh nhạt, lấy cớ người của họ còn trẻ mỏ chưa biết
làm vợ, làm chồng họ không thực bụng muốn nối nòi thì tội thuộc về họ (Điều 97 luật tục
ÊĐê). Đây là một trong những lệ tục thiếu tính tiến bộ, bó buộc quan hệ hôn nhân của
người ÊĐê từ hàng ngàn năm nay, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển lành mạnh của tộc
người này.
Ngoài tục nối nòi, trong luật tục ÊĐê còn rất coi trọng sự bền vững của hôn nhân:
Đã lấy vợ thì phải ở với vợ cho đến chết, đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến
khi rượu nhạt, đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại (Điều 109). Do
coi trọng sự bền vững của quan hệ vợ chồng, người ÊĐê buộc tội bên nào gây ra việc chia
lìa vợ chồng: Nếu dã nhận làm chồng người ta mà anh không lấy người ta nữa thì tội
thuộc về anh, có việc phải đưa ra xét xử giữa người ta với anh (Điều 110).
Ngoại tình là hiện tượng thường thấy và là nguyên nhân chính phá hoại hạnh phúc
gia đình, luật tục ÊĐê dành nhiều điều khoản ngăn chặn hạn chế hành vi này, kể cả việc xử
phạt những người vu khống người khác ngoại tình, thông dâm dẫn tới mâu thuẫn vợ chồng

và tan vỡ hạnh phúc gia đình. Hành vi ngoại tình được luật tục ÊĐê mô tả: hắn đứng lén
ở một xó nhà kín đáo kéo người đàn bà ra đó để vụng trộm… Một đứa thì đã có Báng Ná
(có vợ). Một đứa thì đã có Canh Ná (có chồng). Vì vậy đúng lý là sọt của ai người ấy đeo,
gùi của ai người ấy cõng, thằng đàn ông có lỗi thì chịu phạt đền cho vợ hắn, con đàn bà có lỗi
chịu phạt đền cho chồng hắn. Bởi vì chúng là những kẻ đứa đã có vợ, đứa đã có chồng còn
lăng nhăng với nhau… (Điều 114, 115 luật tục ÊĐê)



Ngoài các khía cạnh đã phân tích trên đây, luật tục ÊĐê còn đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau của quan hệ hôn nhân và gia đình như: phản bội nghi thức đã hứa hôn,
đánh ghen vô cớ, không nộp đủ đồ dẫn cưới, chiếm vợ, chiếm chồng người khác, ngược
đãi vợ con, phá thai … Đặc biệt, xuyên suốt trong 48 điều của chương hôn nhân là nguyên
tắc bảo vệ hôn nhân theo chế độ mẫu hệ.
Chương VI: gồm có 6 điều (từ Điều 143 đến Điều 148) quy định các quan hệ giữa
cha mẹ và con cái. Trong chương này luật tục ÊĐê đề cập đến trách nhiệm giữa cha mẹ và
con cái, trước tiên là ở việc giáo dục con cái trở thành người lương thiện. Luật tục ÊĐê đặt
trách nhiệm nặng nề cho cha mẹ khi con cái phạm tội, kể cả con đã thành niên. Nghĩa là
cha mẹ phải chịu mọi trách nhiệm vật chất khi con cái mình vi phạm các điều cấm của luật
tục: Nếu những đứa con làm điều này điều nọ, nếu chúng đi tầm bậy tầm bạ như kẻ điên
dại, nếu chúng ăn uống bê tha bên cạnh ché rượu, nếu chúng đi rình mò thò tay lấy trộm,
lấy cắp của người ta, nếu người làm cha, làm mẹ làm ngơ, chấp nhận tất cả những hành vi
xấu xa của con cái họ có thể làm, thì họ là những người phải chịu trách nhiệm (Điều 143
luật tục ÊĐê).
Về phía con cái: Luật tục ÊĐê không cho phép con cái có cử chỉ bất kính đối với
cha mẹ, truy cứu trách nhiệm đối với con cái không vâng lời lời bề trên, tự động bỏ làng,
bỏ nhà đi lang thang không chăm sóc cha mẹ, ông bà… Trường hợp con cái vi phạm các
điều này thì không những bị truất quyền thừa kế tài sản, mà trong trường hợp có cử chỉ
hành hung cha mẹ còn bị đưa ra xét xử: Khi hắn đã có bắp chân to hắn giẫm lên cha, khi
hắn đã có đùi to hắn đạp lên me; hắn là cây cuốc sắc, cây rựa bén quật lại cha mẹ thì hắn

là kẻ có tội, có việc phải đưa hắn ra xét xử giữa cha mẹ và hắn (Điều 147).
Chương VII: gồm có 11 điều (từ Điều 149 đến Điều 159) quy định về tội gian
dâm.
Trong xã hội cổ truyền của người ÊĐê, loạn luân được coi là một trong những
hành vi gian dâm và là một tội lớn. Người ÊĐê cho rằng loạn luân là vi phạm các điều cấm
của Thần Đất (Yang Lăn), làm cho thần đất nổi giận gây mất mùa, dịch bệnh cho cả cộng
đồng. Vì vậy, người mắc tội loạn luân phải đưa ra xét xử. Cách biện luận tội loạn luân của



người ÊĐê thể hiện như sau: Nó phạm tội trong nhà, nó mê người trong họ. Nó mê chị em
ruột cùng một nơi sinh ra, cùng một cha mẹ đẻ ra. Nó làm tàn bụi môn dưới nước, bụi
chuối trên bờ. Xoài rừng không ra hoa, xoài nhà không đậu quả, nó phải lấy rượu, lấy heo
để cúng đền cho chủ Đất, lấy máu ngón tay cúng cho Thần Đất… (Điều157, 158).
Hành vi thứ hai của tội gian dâm trong luật tục ÊĐê đó là thông dâm. Hành vi này
luật tục ÊĐê truy cứu chủ yếu là thông dâm với nô lệ gái. Hành vi này được mô tả: Kẻ
thông dâm với nô lệ gái của người khác…Như con gà mái vào chuồng, như con gà trống
vào bu, hắn là một kẻ hư thân mất nết ngủ với cả nô lệ gái của người ta… Nếu ngủ với nô
lệ của tù trưởng nhà giàu thì hắn cũng trở thành nô lệ. Nếu mẹ hắn có của thì họ sẽ trả giá
người nô lệ và nộp một khoản bồi thường cho người chủ nô. Nhưng nếu cha mẹ hắn không
có của cải gì … thì anh em trai bên vợ hắn đem giao hắn làm nô lệ cho người ta (tức
người chủ của nô lệ gái) (điều 150). Khi hành vi thông dâm với nô lệ gái của chính gia
đình mình bị phát hiện, người nô lệ gái đó được trả lại tự do, còn người đàn ông ÊĐê thì bị
xử theo luật tục: Người nô lệ gái mà hắn đã thông dâm được trả lại tự do như con dế trong
rừng, như con châu chấu trong rú, như hạt lúa phơi ngoài sân, thân phận của người đó đã
trở lại sáng sủa, người đó được quyền trở về nhà mình… Còn người đàn ông thì phải nộp
cho vợ anh ta một khoản bồi thường …
Ngoài hai hành vi đã phân tích trên, tội gian dâm trong luật tục ÊĐê còn bao hàm
cả hành vi hiếp dâm. Hành vi này được luật tục mô tả khá cụ thể: Hắn là kẻ thấy muối đã
muốn nếm, thấy ngựa đã muốn ép cưỡi… hắn vồ lấy họ (người đàn bà) như cọp, tha họ đi

như con thú rừng… Nếu hắn đã hiếp một người đàn bà nghèo, hắn sẽ phải trả một con heo
ba sông (một sông bằng một đồng bạc Đông Dương trước năm 1945) và một số của ba kô
(một kô trị giá bằng hai sông) Nếu hắn hiếp vợ, con của nhà giàu hắn phải hiến sinh một
trâu và trả một số của sáu kô (Điều 152). Trong luật tục ÊĐê hành vi hiếp dâm, cưỡng
dâm những bé gái còn ở độ tuổi vị thành niên được đề cập đến một cách nghiêm khắc. Đây
là điểm tiến bộ vượt trội của luật tục ÊĐê so với luật tục của các dân tộc thiểu số khác và
đây cũng là điểm gần gũi với pháp luật của Nhà nước ta nhìn tư góc độ cấm đối với hành
vi hiếp dâm trẻ em.
Chương VIII: Gồm 21 điều (Từ điều 160 đến điều 180) quy định về các trọng tội



Trong chương này chủ yếu là nêu lên các hành vi xâm phạm thân thể con người.
Hình phạt trong chương này cũng là loại hình phạt nặng nhất so với các chương trong luật
tục, điển hình là hành vi giết người, giết trẻ em sơ sinh: Hắn là người nóng tính, không
kiềm chế được mình, dễ sinh liều lĩnh. Hắn như cọng tranh khô, sợi lạt giòn dễ bốc cháy,
hắn đã nổi nóng vô cớ giết người ta… về số máu đã đổ ra, hắn phải trả một nồi bung (nồi
đồng cỡ lớn), Về tội gây rối trong xóm làng hắn phải trả một nồi biê. … Cho người chết,
hắn phải cúng một ché Duê đặt ở chân, một ché Bơng đặt ở đầu, kèm theo của cải đồ
dùng. Cho người than thuê hắn phải trả một nồi ba, cho người khóc mướn phải trả một nồi
bung, cho xóm làng hắn làm rối loạn phải cúng cầu an bằng trâu, bằng bò… (Điều 160).
Ngoài các hành vi trên thì hành vi cố ý gây thương tích mua bán người cũng được
luật tục ÊĐê coi là trọng tội: Hắn bán người mà như bán đùm muối, gùi thuốc…hắn bán
người ta đi để có muối ăn, có thép rèn, có mền đắp, có ché tuk, ché êbah để ủ rượu. Vì vậy
hắn là kẻ có tội rất nghiêm trọng phải đưa hắn ra xét xử (Điều 172). Nghiên cứu các trọng
tội trong luật tục ÊĐê ta thấy con người là đối tượng được luật tục ÊĐê tôn trọng và bảo vệ
hàng đầu. Đây là điểm dung hòa điển hình nhất giữa pháp luật và luật tục ÊĐê, là lối mòn
có sẵn để pháp luật mở rộng và hoàn thiện con đường của luật tục ÊĐê trong việc điều
chỉnh cộng đồng người ÊĐê trong tương lai.
Chương IX: Gồm có 38 điều (từ Điều 181 đến Điều 218) quy định về quyền sở

hữu tài sản. Tài sản và quyền sở hữu là vấn đề quan trọng của cộng đồng, dù cộng đồng đó
còn ở trình độ lạc hậu hay đã đạt tới trình độ văn minh cao. Luật tục ÊĐê cũng đã chú trọng
đến quyền sở hữu tài sản và đã dành 38 điều đề cập các quan hệ khác nhau của vấn đề sở hữu
tài sản điển hình là quy định về thừa kế tài sản. Người ÊĐê sống theo chế độ mẫu hệ nên
việc thừa kế tài sản nhất nhất phải theo dòng họ mẹ. Người đã chết thì cái niết, cái chà gạc
được tự do, cùng với vòng đeo tay, chuỗi hạt cườm đeo cổ … chén bát để ăn cơm, cái dùi,
cái búa, cái rìu… phải được đem trả lại cho mẹ người chết hoặc người thừa kế gái của bà
ta (Điều 182). Ngoài ra, luật tục ÊĐê còn quy định người có trách nhiệm chính trong việc
giữ gìn của cải chung của gia đình: Các vật lớn hay nhỏ, quý hay không quý, các nồi hoặc
chén bát… đều do người chị cả trông coi (Điều 181). Tài sản của con trai chưa vợ phải
giao cho mẹ hoặc chị, em gái anh ta quản lý. Người đàn ông đã có vợ không được lấy tài



sản của vợ và con gái đem cho các cháu, con của chị em gái mình. Trong chương quy định
về quyền sở hữu tài sản, luật tục ÊĐê còn quy định nhiều hành vi xâm phạm quyền sở hữu
như trộm cắp tài sản, mua bán hàng của trẻ em, chiếm đoạt tài sản từ việc thực hiện các
hành vi gian dối, giấu giếm đồ bắt được, cưỡng đoạt tài sản, vay mượn tài sản không trả,
chứa chấp đồ ăn cắp… Riêng tội giấu giếm đồ bắt được nếu đã được hỏi nhiều lần mà
không trả lại cho chủ sở hữu thì được coi là tội trộm cắp: Hắn nhận được của người ta mà
hắn không hé miệng nửa lời cho ai biết, hắn không báo cho dân làng rằng hắn đã nhặt
được của cải của người ta… hắn kín hơi kín tiếng… mặc cho người ta đã hỏi khi sáng dậy,
khi mặt trời đứng bóng, hỏi ngày hôm trước, hỏi cả ngày mai. Thế là phải bắt hắn trả gấp
ba…Hắn phải đền tội như một tên ăn cắp (Điều 213).
Chương X: Gồm có 10 điều (từ Điều 219 đến Điều 228) quy định về việc súc vật
gây thiệt hại cho người và tài sản. Người ÊĐê rất yêu súc vật, họ phản ứng gay gắt đối với
những người đối xử tàn ác với súc vật. Điều này rất dễ hiểu bởi đối với người ÊĐê các con
vật nuôi trong gia đình vừa là người bạn, vừa là nguồn tài sản lớn của gia đình và dòng họ.
Trong chương này luật tục ÊĐê quy định về các tội giết gia súc, gia cầm, tội tàn nhẫn với
vật nuôi trong làng, tội dùng voi người khác chuyên chở làm bị thương hoặc chết. Người

đốn tre nứa về làm rầm sàn, dát sàn mà phải mượn voi người khác kéo về cho thì: Nếu voi
sinh ra ốm đau, chân voi bị thương vì vấp phải gốc cây… người mượn voi phải lo thuốc
thang chạy chữa, giao cho chủ voi một chiếc vòng tay, một lưỡi niết (dụng cụ làm cỏ rẫy)
để cầu may cho voi … Nếu voi vẫn không khỏi hẳn, vẫn không chịu ăn, chịu uống thì
người mượn voi phải trả đủ giá con voi hoặc thay con voi đó bằng một con voi khác ngang
giá. Ngoài ra, trong chương này luật tục ÊĐê còn quy định các tội để gia súc hại mùa
màng, tội để gia súc sa bẫy trong mùa trồng cấy, tội giết gia súc của người khác vào vườn
rẫy của mình. Đặc biệt là tội để súc vật hại chết người: Nếu ai đó có trâu hung bò dữ báng
chết dù là một người…thì người đó phải trả giá đền mạng, còn con vật sẽ đem giết làm vật
hiến sinh cúng cho người chết (Điều 224).
Chương XI: Gồm 8 điều (từ Điều 229 đến Điều 236) quy định về đất đai và người
chủ đất. Trong chương này luật tục ÊĐê chủ yếu quy định về việc chăm nom đất đai, không
để mất người chủ đất, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của chủ đất, tội lấn chiếm đất đai…



đặc biệt trong chương này luật tục ÊĐê quy định nhiệm vụ đi thăm đất của người chủ đất: Đi
thăm là để đất đai mãi mãi tốt tươi, để nước không ngừng chảy, để chuối, mía mọc xum xuê
(Điều 233).
1.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa pháp luật và luật tục ÊĐê
1.2.1. Sự tương đồng giữa pháp luật và luật tục ÊĐê
Pháp luật và luật tục ÊĐê (sau đây gọi chung là luật tục) đều là những phương tiện
điều chỉnh các quan hệ xã hội: Con người trong đời sống xã hội cho dù văn minh hay lạc
hậu đều có những nhu cầu lợi ích, mục đích nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu lợi ích của
mình, mỗi chủ thể có những phương pháp, cách thức riêng. Trong những điều kiện hoàn
cảnh nhất định, có thể có những chủ thể lại thực hiện những hành vi làm tổn hại đến lợi ích
của chủ thể khác, tổn hại lợi ích chung của cộng đồng. Xã hội vì thế sẽ trở nên mất ổn
định. Bởi vậy để xã hội tồn tại trong ổn định, trật tự, các quyền và lợi ích của các thành
viên trong cộng đồng được bảo đảm và bảo vệ, đòi hỏi xử sự của mỗi người phải dựa trên
những chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định. Nói cách khác, các mối

quan hệ trong xã hội cần được điều chỉnh nhằm bảo đảm xử sự của chủ thể này không làm
tổn hại đến lợi ích của chủ thể khác, phù hợp yêu cầu, đòi hỏi của cộng đồng.
Điều chỉnh các quan hệ xã hội là đưa ra những cách xử sự mẫu cho các chủ thể để
họ thực hiện trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, hay nói cách khác là xác định
cho các chủ thể những quyền, nghĩa vụ nhất định khi họ tham gia vào những quan hệ xã
hội cụ thể. Để điều chỉnh quan hệ xã hội có nhiều công cụ phương tiện khác nhau trong đó
pháp luật và luật tục ÊĐê là những công cụ rất quan trọng (tuy nhiên luật tục ÊĐê chỉ điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong buôn làng người ÊĐê). Để điều chỉnh các quan hệ
xã hội pháp luật và luật tục ÊĐê phải tác động vào nhận thức của chủ thể nhằm hình thành
ở chủ thể một ý thức nhất định trên cơ sở đó, các chủ thể lựa chọn cách xử sự phù hợp,
kiềm chế minh không thực hiện những hành vi ngăn cấm, đồng thời khuyến khích họ thực
hiện những hành vi tích cực. Như vậy, điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật hay
luật tục, thực chất là dùng chúng tác động lên nhận thức của chủ thể làm cho chủ thể tự lựa



chọn và thực hiện một hành vi phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của nhà nước hay của cộng
đồng dân tộc mình.
Điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục ÊĐê đều mang tính quy phạm.
Chúng đều là những mô hình chuẩn mực cho hành vi con người (dù luật tục chỉ bó hẹp
trong phạm vi một số ít người). Xét về bản chất pháp luật và luật tục có sự thống nhất cơ
bản đó là sự thống nhất về mục đích điều chỉnh nhằm bảo vệ và định hướng cho sự phát
triển của xã hội, phù hợp với xu thế tất yếu của cuộc sống, hạn chế và loại bỏ khỏi đời
sống xã hội những quan hệ xã hội không phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và lợi
ích của công đồng dân tộc, bảo đảm cho xã hội phát triển trong ổn định và trật tự
Điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật và luật tục ÊĐê có sự đồng nhất về tính
bắt buộc thực hiện đối với chủ thể bị điều chỉnh, chỉ khác là nếu pháp luật có tính bắt buộc
thực hiện đối với toàn xã hội thì luật tục ÊĐê chỉ có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các
thành viên trong cộng đồng người dân tộc thiểu số ÊĐê.
Pháp luật và luật tục ÊĐê đều thuộc kiến trúc thượng tầng, chịu sự chi phối của

cơ sở hạ tầng nhưng có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Xét ở một góc độ khác, pháp
luật và luật tục ÊĐê đều là các hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ
tầng quyết định. Luật tục ÊĐê phản ánh toàn cảnh bức tranh xã hội mẫu hệ, tương ứng với
nền kinh tế tự cung tự cấp và trình độ sản xuất lạc hậu của đồng bào dân tộc thiểu số ÊĐê.
Cũng như vậy tương ứng với mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong xã hội có giai cấp là một
kiểu pháp luật. Là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế, vì vậy về cơ bản pháp luật
quy định vấn đề gì, quy định như thế nào, điều đó trước tiên phụ thuộc vào thực trạng nền
kinh tế. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi thì luật tục và pháp luật cũng bị biến đổi.
Tuy nhiên, luật tục ÊĐê và pháp luật đều có tính độc lập tương đối và đều có sự
tác động trở lại cơ sở hạ tầng ở những mức độ nhất định. Sự tác động này có thể diễn ra
theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi pháp luật và luật tục phát triển theo đúng quy
luật phát triển của đời sống xã hội, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp
với lợi ích của số đông người trong xã hội, nói cách khác khi pháp luật và luật tục phản
ánh đúng thực trạng của nền kinh tế xã hội thì chúng có tác động tích cực, chúng củng cố,



tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các quan hệ kinh tế, xã hội tồn tại và phát triển, đồng
thời chúng góp phần loại bỏ những quan hệ kinh tế, xã hội không phù hợp, đi ngược lại lợi
ích của giai cấp thống trị và lợi ích chung của cộng đồng. Ngược lại, khi pháp luật và luật
tục không phù hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội, không phản ánh đúng thực
trạng nền kinh tế chúng sẽ có tác động tiêu cực, gây cản trở kìm hãm sự phát triển của các
quan hệ kinh tế - xã hội, làm cho đời sống xã hội mất ổn định. Thực tiễn đời sống chứng
minh sự tác động của pháp luật và luật tục đối với cơ sở hạ tầng là mạnh mẽ và dễ nhận
thấy. Song sự tác động ở diện rộng của pháp luật đối với cơ sở hạ tầng có vị trí và tầm
quan trọng nổi trội hơn so với luật tục ÊĐê.
Pháp luật và luật tục ÊĐê vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội. Luật tục
ÊĐê hình thành vào thời kỳ tiền giai cấp nên ít nhiều mang tính giai cấp. Nghiên cứu luật
tục ÊĐê ta thấy các tù trưởng nhà giàu được bảo vệ khắt khe hơn thường dân, ông chủ
được hưởng chế độ ưu đãi của luật tục hơn nô lệ. Tuy nhiên xét về tổng thể tính xã hội

trong luật tục ÊĐê vẫn có điểm nổi trội hơn tính giai cấp. Điều này xuất phát từ lối sống
cộng đồng mang tính huyết thống cao và với những lợi ích ít đối lập nhau của đồng bào
dân tộc thiểu số ÊĐê. Mặt khác, luật tục ÊĐê là công trình luật tục tập thể không mang
tính nhà nước, thể hiện ý chí chung của một tập thể người trong một dân tộc thiểu số có sự
phân hóa kinh tế thấp. Đối với pháp luật tính giai cấp thể hiện rõ nét hơn bởi nó được hình
thành bằng con đường nhà nước. Thực tế cho thấy nhà nước bao giờ cũng thuộc về một
giai cấp nhất định. Thông qua nhà nước, bằng con đường nhà nước, ý chí của giai cấp
thống trị được tập trung thành ý chí nhà nước và được nâng lên thành pháp luật.
Trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của các giai cấp vẫn chưa đồng nhất, lực lượng
chống đối chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại. Trong điều kiện này pháp luật vẫn được xác
định là công cụ hữu hiệu để củng cố và bảo vệ các quyền và lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa pháp luật vẫn chưa loại
bỏ được tính giai cấp.
Bên cạnh tính giai cấp pháp luật và luật tục có sự đồng nhất ở tính xã hội. Chúng
đều phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của xã hội (xã hội trong luật tục ÊĐê là xã
hội của cộng đồng người dân tộc thiểu số ÊĐê) như điều kiện lịch sử, văn hóa, truyền

×