Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

BÀI VIẾT GIỚI THIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH VÀ THƠ VĂN CỦA NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.06 KB, 6 trang )

Trường THPT Tôn Đức Thắng
Tổ Ngữ văn
Giáo viên: Trần Mai Kim Hảo.
BÀI VIẾT GIỚI THIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH VÀ THƠ VĂN CỦA NGƯỜI
gày 19/5/1890 cả dân tộc Việt Nam ta chào đón một người con ưu tú của đất
nước ra đời: đó chính là cậu bé Nguyễn Sinh Cung - người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành - người chiến sĩ cách mạng mang tên Nguyễn Ái Quốc và Người-Hồ Chí Minh cũng
chính là vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam .
Mảnh đất Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An - nơi Hồ Chí Minh được sinh ra là một cái
nôi giàu truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm của cả dân tộc Việt Nam.
Người lại được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước và sống trong hoàn cảnh đất
nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên, Người đã chứng
kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân. Người sớm có
chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với
tình cảm yêu nước thương dân vô hạn, ngày 5/6/1911 Người đã rời Tổ quốc đi sang phương
Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. Sau hơn 30 năm bôn ba khắp năm châu, ngày 28
tháng 1 năm 1941 Người về nước, tiếp tục lãnh đạo cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc ta cho
đến khi Người qua đời vào ngày 2/9/1969.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người
cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh
không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới; không chỉ thế,
Người còn là một nhà văn, nhà thơ lớn trong văn nghệ của dân tộc, thơ văn của Hồ Chí
Minh còn được nhiều người trên thế giới yêu thích.
Sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ tự nhận mình là một nhà thơ, nhà văn nhưng di
sản văn học mà Người để lại đã chứng minh Người là một nhà văn, nhà thơ yêu nước vĩ đại
của dân tộc với quan điểm sáng tác rõ ràng, cụ thể:
Hồ Chí Minh coi văn học là một vũ khí chiến đấu lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách
mạng. Nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như người chiến sĩ trên mặt trận:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.


Hồ Chí Minh luôn chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn học.
Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ đối tượng tiếp nhận, mục đích
để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn đặt câu hỏi: Viết cho ai?, viết
để làm gì?, viết cái gì? Và viết như thế nào?
Từ những quan điểm sáng tác trên, Người đã khẳng định một phong cách nghệ thuật
Hồ Chí Minh đa dang, độc đáo và hấp dẫn:
Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép,
bằng chứng đầy thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. Văn chính luận mà
vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh. Giọng văn chính luận cũng đa dạng: khi ôn tồn,
thấu tình, đạt lí, khi đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn:
Trong bản Tuyên ngôn độc lập Hồ Chí Minh đã đọc trước toàn thể quốc dân đồng bào
vào ngày 2/9/1945, Người đã dõng dạc nêu ra một nguyên lí chung về quyền độc lập tự do
của tất cả các dân tộc với những lí lẽ xác đáng:
1
Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra,
câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Tiếp sau đó, Hồ Chí Minh dã vạch trần bộ mặt cướp nước, bóc lột dân ta của thực dân
Pháp, và khẳng định một thực tế lịch sử:
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái,
đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người
yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu
thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn
trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách
vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh
Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân
ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là
cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị
chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp
hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái
lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để
chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn
nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái
và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân
đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua
biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài
sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải
2
thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy
giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần
100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Thực tế lịch sử đã được khẳng định, nên Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố rằng:
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho
toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt
Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân
Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình
đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền
độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã
gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do!
Dân tộc đó phải được độc lập!
Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã dõng dạc tuyên ngôn:
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ.
Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực, một văn kiện lịch sử vô giá
của cách mạnh Việt Nam.
Năm 1946, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 19 tháng 12 năm 1946 Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn
thể dân tộc đứng lên cứu nước:
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
3
Hai bài văn chính luận trên là hai bằng chứng thuyết phục nhất về giá trị văn chương
của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp văn học của Người còn có những tác phẩm truyện và kí: rất hiện đại, thể
hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cười trào phúng của
Nguyễn Ái Quốc tuy nhẹ nhàng , hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. Đó là những truyện kí
viết bằng tiếng Pháp như: Pa-ri, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Những trò lố hay là Va-
ren và Phan Bội Châu, đặc biệt là “ Vi hành”. Tất cả các tác phẩm này đều nhằm tố cáo tội
ác dã man, bản chất tàn bạo, xảo trá của bọn thực dân và phong kiến tay sai đối với nhân dân
lao động các nước thuộc địa, đồng thời đề cao những tấm gương yêu nước và cách mạng.
Bằng một bút pháp hiện đại và nghệ thuật trần thuật linh hoạt, Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên

được những tình huống truyện độc đáo, hình tượng sinh động, sắc sảo. qua những thiên
truyện này, người đọc có thể nhận ra một cây bút văn xuôi tài năng với trí tưởng tượng
phong phú, một vốn văn hóa sâu rộng, một trí tuệ sắc sảo và một trái tim đầy nhiệt tình yêu
nước.
Ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng mọi người là thơ ca của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những bài thơ thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn của Người với một phong cách đa
dạng, thơ ca của Người có thể chia làm hai loại:
Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng thường được viết bằng hình
thức bài ca, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian, hiện đại:
Bài thơ Hòn đá, mỗi câu thơ có bốn chữ, nhịp điệu đều đặn, Hồ Chí Minh muốn kêu
gọi tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng của nhân dân ta:
Hòn đá to

Hòn đá nặng
Chỉ một người
Nhấc không đặng
Hòn đá nặng
Hòn đá bền
Chỉ ít người
Nhấc không lên
Hòn đá to
Hòn đá nặng
Nhiều người nhấc
Nhấc lên đặng.
Hay qua hình tượng sợi chỉ, Người khẳng định mối dây liên kết, sự kết nối bền chặt
của nhân dân ta và kêu gọi mọi người hãy tham gia vào hội Việt Minh, bài thơ được viết như
sau:
Mẹ tôi là một đoá hoa
Thân tôi trong sạch tôi là cái bông
Xưa tôi yếu ớt vô cùng

Ai vò cũng đứt ai rung cũng rời
Khi tôi đã thành chỉ rồi
Cũng còn yếu lắm ăn ngồi không an
Mạnh gì sợi chỉ con con
Khuôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng?
4
Càng dài lại càng mỏng manh
Thế gian ai sợ chỉ anh chỉ xoàng
Nhờ tôi có lắm đồng bang
Hợp nhau sợi dọc sợi ngang rất nhiều
Dệt nên tấm vải mĩ miều
Đã bền hơn lụa lại điều hơn da
Đố ai bứt xé cho ra
Đó là lực lượng đó là vẻ vang
Hơi ai con cháu Hồng Bàng
Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau
Yêu nhau xin nhớ lời nhau
Việt Minh hội ấy mau mau tìm vào.
Ấn tượng khó phai nhất trong lòng đọc giả là nhớ mãi, nhớ mãi những bài thơ nghệ
thuật viết theo cảm hứng thẩm mĩ của Bác; những bài thơ tứ tuyệt cổ điển, bằng chữ Hán,
mang đặc điểm của thơ cổ phương Đôngvới sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển với bút
pháp hiện đại. Nhà phê bình người Pháp Rô-giơ-Đơ-nuy nhận xét: Thơ Người nói ít mà gợi
nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lặng, không phô diễn mà như cố
khép lại trong đường nét để người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ý ở ngoài lời. Tiêu biểu là
một số bài thơ:
Rằm tháng giêng: Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Vẻ đẹp của đêm trăng rằm tháng giêng hòa vào việc quân, hòa vào cuộc cách mạng

thật hữu tình và thi vị.
Đến với bài thơ Cảnh khuya, người đọc lại cảm nhận được một bức tranh của núi rừng
đêm trăng khuya được miêu tả bằng những hình ảnh trăng, hoa, cây cổ thụ và có cả thanh âm
của tiếng suối reo trong như tiếng hát cao vút từ rất xa vọng lại; và hơn cả là vẻ đẹp tâm hồn
của một người không ngủ được vì đang nặng nỗi lo cho đất nước đang còn bóng quân thù:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Tâm trạng của lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn biến chuyển cùng với cuộc cách mạng của
dân tộc ta, khác với nỗi lo nước nhà là một niềm vui chiến thắng khi quân ta thắng lớn:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về.
( Tin thắng trận)
Thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh còn là những bài thơ được sáng tác từ mùa thu năm
1942 đến mùa thu năm 1943 đó là tập thơ Nhật kí trong tù.Cả tập thơ là bức chân dung dung
tự họa của Hồ Chí Minh: một tù nhân nhưng không phải một tù nhân mà là một chiến sĩ, một
thi nhân:
Bài thơ Tảo giải( Giải đi sớm):
Nhất thứ kê đề dạ vị lan Gà gáy một lần đêm chửa tan,
5
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không
Noãn khí bao la toàn vũ trụ
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.

Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.

Trong bài thơ Ngắm trăng, ở trong tù, Hồ Chí Minh làm bạn với trăng và phút chốc trở
thành thi sĩ:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ.
Có mấy ai có một tinh thần thép, một ý chí nghị lực phi thường như Hồ Chí Minh,
đọng lại trong những câu thơ của nhà thơ Xuân Thủy là lời nhận định chính xác nhất về thơ
ca Hồ Chí Minh:
Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vầng thơ của Bác vầng thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
Tóm lại, văn thơ Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá, là một bộ phận gắn bó hữu cơ
với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. những tác phẩm văn học xuất sắc của Hồ Chí
Minh thể hiện chân thật và sâu sắc tư tưởng , tình cảm và tâm hồn cao cả của Người.Tìm
hiểu thơ văn Hồ Chí Minh, mỗi chúng ta sẽ tìm thấy những bài học vô cùng cao quý.
6

×