Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

luận văn các rào cản thương mại của mỹ đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu từ việt nam và các giải pháp vượt qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.33 KB, 95 trang )



1




Luận văn
Các rào cản thương mại của Mỹ đối
với hàng thuỷ sản nhập khẩu từ
Việt Nam và các giải pháp vượt qua


2
LỜI NÓI ĐẦU

Năm 2006 được đánh giá là một năm có rất nhiều thay đổi đối với nền
kinh tế Việt Nam nó được đánh dấu bằng rất nhiều sự kiện quan trọng như
tháng 11/2006 Việt nam chính thúc trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại quốc tế.Tháng 12/2006 Mỹ kí hiệp định bình thường hoá vĩnh
viễn quan hệ thương mại quốc tế với Việt Nam.Những sự kiện quan trọng này
đã mở ra một triển vọng mới cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cho Việt
Nam đây cũng là cơ hội và thách thức cho kinh tế Việt Nam.
Hiện tại Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển giá trị ngành nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế quốc dân và ngành thuỷ
sản trong những năm qua đã góp phần không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc
dân vào giá trị xuất khẩu chung của nền kinh tế. Đây cũng là một ngành kinh
tế của Việt Nam phát triển trên thị trường nước ngoài rất sớm và cũng rất
thành công nó được đánh giá là một ngành kinh tế thâm nhập sâu vào thị
trường thế giới tiếp thu được những thành tựu khoa học kĩ thuật hiên đại,
đồng thời áp dụng nhiều tiêu chuẩn kĩ thuật của thuỷ sản thế giới để đáp ứng


đòi hỏi của thị trường các nước nhập khẩu.
Theo thông tin từ Bộ thương mại xuất khẩu năm 2006 xuất khẩu Việt
Nam đã đạt được kỉ lục mới với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 39,5 tỷ
USD.Với 8 mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD thì mặt hàng thuỷ
sản đứng vị trí thứ 4.Trong đó thị trường của ngành này là Nhật Bản, Mỹ,EU,
Nga, Hàn Quốc, Trung Quốc… đều là những thị trường lớn và là đối tác
quen thuộc thường xuyên của Việt Nam.
Đối với thị trường Mỹ đây được đánh giá là một thị trường tiềm năng,
thị trường Mỹ là một thị trường tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản lớn do vậy mở
ra triển vọng cho ngành thuỷ sản Việt Nam thâm nhập khẳng định mình trong


3
thị trường này.Tuy nhiên thị trường Mỹ cũng là một thị trường tương đối
phức tạp khó tính với những chính sách bảo hộ ,tiêu chuản kĩ thuật khắt
khe.Trong một vài năm gần đây kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường này tăng đáng kể nó cũng trở thành một thị trường có vị trí quan trọng
đối với ngành thuỷ sản Việt Nam .Tuy nhiên thị trường Mỹ cũng là một thị
trường rất khó tính và phức tạp với những chính sách bảo hộ ,những tiêu
chuẩn kĩ thuật khắt khe, trong một vài năm liên tiếp ngành thuỷ sản của chúng
ta gặp khó khăn bởi những rào cản thương mại của Mỹ tiêu biểu là hai vụ kiên
cá tra cá ba sa và vụ kiện tôm đã để lại những bài họcvà kinh nghiệm quý giá
cho ngành khi xuất khẩu sang thị trường này.Chín vì vậy để hàng thuỷ sản
Việt Nam có thể thâm nhập sâu hơn vào thị trường ,vượt qua các rào cản về
thương mại tránh được những rủi ro đáng tiếc như sự kiện vụ kiện cá tra ba sa
và tôm bán phá giá trên thị trường Mỹ em xin chọn đề tài:
"Các rào cản thương mại của Mỹ đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu từ
Việt Nam và các giải pháp vượt qua”.
Phạm vi và đối tượng của đề tài là tìm hiểu các rào cản thương mại của
thị trường Mỹ đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu trong đó có thuỷ sản nhập

khẩu từ thị trường Việt Nam,các số liệu tổng hợp từ 1990 đến 2006.Qua
những hiểu biết của thị trường em xin kiến nghị một số giải pháp để giúp cho
ngành thuỷ sản Việt Nam có thể vượt qua rào cản tăng kim ngạch xuất khẩu
đông thời tránh những rủi ro do rào cản thương mại của thị trường Mỹ.
Phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài là phương
pháp logic,phương pháp tổng hợp ,phương pháp thống kê,và một số phương
pháp khác …đồng thời em còn kết hợp những thông tin thu thập từ sách báo,
tạp chí các đề tài nghiên cứu có liên quan cùng những kiến thức đã tích luỹ
trong quá trình học tập để phân tích tình hình thực tế nhằm rút ra những nhận


4
xét mang tính chất khách quan từ đó đưa ra những phương hướng giải quyết
vấn đề đặt ra.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I:Những vấn đề lý luận về rào cản thương mại
Chương II:Thực trạng về các loại rào cản thương mại đối với hàng
thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ
Chương III: Các giải pháp vượt qua rào cản thương mại để xuất khẩu
thuỷ sản vào thị trường Mỹ.
















5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI.

1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI.
1.1.1 KHÁI NIỆM VỀ RÀO CẢN THƯƠNG MẠI.
Rào cản thương mại là những quy định về thuế quan và phi thuế
quan,quy định về kĩ thuật nhằm hạn chế về di chuyển hàng hoá dịch vụ giữa
các quốc gia gây bóp méo thương mại.
1.1.2. CÁC HÌNH THỨC CỦA RÀO CẢN THƯƠNG MẠI.
1.1.2.1. RÀO CẢN THUẾ QUAN.
 Khái niệm.
Thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi một đơn vị hàng hoá xuất khẩu
hay nhập khẩu của mỗi quốc gia .
 Phân loại thuế quan.
Thuế quan có thể được chia làm 3 loại:
 Thứ nhất: thuế quan do chính phủ đánh vào hàng hoá xuất khẩu
của mình được gọi thuế quan xuất khẩu.
 Thứ hai:thuế quan mà chính phủ một nước đánh vào hàng hoá
được chuyển qua ngang lãnh thổ nước đó trước khi đến đích cuối
cùng gọi là thuế quá cảnh.
 Thứ ba: thuế quan mà chính phủ một nước áp dụng đối với hàng
hoá nhập khẩu vào nước đó gọi là thuế quan nhập khẩu.
 Ưu nhược điểm của việc sử dụng hàng rào thuế quan.
 Ưu điểm:thuế quan nhập khẩu tạo ra hàng rào bảo hộ giúp các

nhà sản xuất trong nước chống lại nhập khẩu từ bên ngoài do


6
thuế nhập khẩu làm tăng chi phí của hàng hoá nhập khẩu. Đồng
thời thuế tạo ra nguồn thu cho ngân sách chính phủ.
 Nhược điểm : do phải trả giá cao hơn cho đối với hàng nhập
khẩu đo đó dẫn tới tiêu dùng giảm và cũng làm giảm lợi ích xã
hội
1.1.2.2.HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN.
 Khái niệm.
Hệ thống phi thuế quan trong thương mại, đôi khi cũng được gọi là rào
cản phi thuế quan, rào cản kỹ thuật, là một trong những biện pháp kỹ thuật
nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong nước, lợi ích quốc gia, bảo hộ sản xuất
trong nước
 Phân loại .
 Hạn ngạch: hay hạn chế số lượng là biện pháp quy định số
lượng hàng hoá được đưa vào hay đưa ra khỏi một nước trong
một quãng thời gian nhất định.
 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện:là một biện pháp mà hạn chế
xuất khẩu mà theo đó một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc
gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang
nước mình nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên
quyết.Hình thức này thường được áp dung riêng với từng
quốc gia có khối lượng xuất khẩu lớn ở một mặt hàng nào đó.
 Những quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật: đó là những quy định
về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động ,bao bì đóng
gói , đặc biệt là các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm,vệ sinh
phòng dịch đối với động thực vật tươi sống,tiêu chuẩn bảo vệ
môi trường sinh thái đối với các máy móc thiết bị và dây

chuyền công nghệ…


7
 Trợ cấp xuất khẩu: chính phủ có thể áp dụng biện pháp trợ
cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà
xuất khẩu trong nước.Bên cạnh đó chính phủ còn có thể thực
hiện một khoản vay ưu đãi với bạn hàng nước ngoài để họ có
điều kiện mua các sản phẩm của nước mình sản xuất ra. Đây
chính là các khoản tín dụng viện trợ mà chính phủ các nước
công nghiệp phát triển áp dụng khi cho các nước phát triển
vay( thường kèm theo điều kiện).
Ngoài ra còn có một số công cụ khác như:
 Các loại thuế và phí trong nước
 Các quy định và thủ tục hải quan
 Các hạn chế trong việc tiếp cận thị trường liên quan đến cạnh
tranh
 Các thủ tục và quy trình hành chính (nói chung)
 Các thực tiễn về mua sắm của Chính phủ
 Các hạn chế về đầu tư hoặc các yêu cầu
 Quy định hoặc chi phí về vận chuyển
 Các hạn chế về cung cấp dịch vụ (nói chung)
 Các hạn chế về sự dịch chuyển của các thương nhân hoặc
người lao động
 Các công cụ bảo hộ thương mại (chống bán phá giá, thuế đối
kháng, quyền tự vệ)
 Ưu điểm và nhược điểm của việc sử dụng hàng rào phi thuế quan
Ưu điểm:
Hạn ngạch
Đưa tới sự hạn chế số lượng nhập khẩu, mang lại thu nhập cho chính phủ

và không có tác dụng hỗ trợ các loại thuế khác.Hạn ngạch mang tính chắc


8
chắn hơn thuế quan trong vẩn đề bảo hộ cán nhà sản xuất nội địa ưa thích vì
làm cho giá hàng sản xuất nội địa cao tăng lên và cho phép các nhà sản xuất
trong nước thực hiện quy mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn trong điều kiện
thương mại tự do.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Không đặt ra sự hạn chế số lượng xuất khẩu như hạn ngạch mà đòi hỏi
quốc gia xuất khẩu phải hạn chế một cách ‘tự nguyện’ xuất khẩu sang nước
mình nên tránh được một số tiêu cực trong việc xin hạn ngạch xuất khẩu
Những quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật
Đặt ra nhằm đáp ứng cuộc sống của con người xuất phát từ đòi hỏi thực tế
đảm bảo yêu cầu chất lượng cuộc sống sức khoẻ của người tiêu dùng .Về mặt
kinh tế những quy định này có tác dụng bảo hộ đối với thị trường trong nước.
Trợ cấp xuất khẩu
Sẽ giúp cho các nhá sản xuất trong nước có điều kiện thuận lợi phát triển
sản xuất giúp cho họ có được những khả năng thích ứng với môi trường kinh
doanh quốc tế. Trợ cấp xuất khẩu thực sự có ích khi dùng vào những mục
đích nhất định.
Đồng thời một số biện pháp bảo hộ thực sự xuất phát từ nhu cầu của
cuộc sống xã hội thể hiện trình độ văn minh thương mại như đố với những
tiêu chuẩn kĩ thuật đặt ra với hàng nhập khẩu.
Nhược điểm:
Các loại rào cản này đều nhằm mục đích hạn chế số lượng hàng nhập
khẩu do đó dẫn tới khan hiếm hàng hoá nhập khẩu,giá cả tăng,giảm sức mua
trong nướcvà dẫn đến lợi ích xã hội giảm. Cụ thể:
Hạn ngạch hạn chế số lượng hàng nhập khẩu nên sẽ làm cho giá hàng nội
địa tăng lên làm giảm sức mua , lãng phí nguồn lực của xã hội .Có thể dẫn

đến tiêu cực khi “xin” hạn ngạch nhập khẩu


9
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có tác động kinh tế như tác động của
hạn ngạch nó cũng dẫn đến vấn đề giảm sức mua,giảm nguồn lực xã hội .
Những quy định về tiêu chuản kĩ thuật có thể dẫn đến hạn chế và làm
méo mó dòng vận động của hàng hoá trên thị trường thế giới.Hiện nay có đến
1/3 khối lượng buôn bán quốc tế gặp trở ngại do có quá nhiều tiêu chuẩn mà
các quốc gia đặt ra.
Trợ cấp xuất khẩu:sẽ làm mức cung thị trường nội địa giảm do mở rộng
quy mô sản xuất ,giá cả thị trường nội địa tăng lên, người tiêu dùng trong
nước sẽ bị thiệt một khoản tiền nhất định. Chi phí ròng của xã hội phải bỏ ra
để bảo hộ việc khuyến khích xuất khẩu gây thiệt hại cho xã hội gồm có chi
phi nội địa tăng lên do sản xuất thêm nhiều sản phẩm và chi phí do giảm mức
tiêu dùng trong nước .
1.2. CÁC LOẠI RÀO CẢN THƯƠNG MẠI CỦA MỸ
1.2.1. RÀO CẢN THUẾ QUAN CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ ĐỐI VỚI HÀNG
NHẬP KHẨU.
Biểu thuế nhập khẩu (hay còn gọi là biểu thuế quan) HTS hiện hành của
Hoa Kỳ được ban hành trong Luật Thương mại và Cạnh tranh Omnibus năm
1988 và có hiệu lực từ 1 tháng 1 năm 1989. Hệ thống thuế quan (thuế nhập
khẩu) của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan (gọi tắt là
HS) của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tai
Bruxen. Mức thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ có thể thay đổi và được công bố
hàng năm.
 Các loại thuế :
 Thuế theo trị giá: Hầu hết các loại thuế quan của Hoa Kỳ được đánh
theo tỷ lệ trên giá trị, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị giá giao dịch
của hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ mức thuế tối huệ quốc năm 2004 đối

với chè xanh có hương vị đóng gói không quá 3 kg/gói là 6,4%.


10
 Thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng: Một số hàng hoá, chủ yếu là
nông sản và hàng sơ chế phải chịu thuế theo trọng lượng hoặc khối
lượng. Loại thuế này chiếm khoảng 12% số dòng thuế trong biểu thuế
HTS của Hoa Kỳ. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 đối với cam là 1,9
cent/kg, đối với nho tươi trong khoảng 1,13 – 1,80 USD/m3 hoặc được
miễn thuế tùy thời điểm nhập khẩu trong năm. (Xem thêm phần về
Thuế Thời vụ dưới đây.)
 Thuế gộp: Một số hàng hóa phải chịu gộp cả thuế theo giá trị và thuế
theo số lượng. Hàng phải chịu thuế gộp thường là hàng nông sản. Ví dụ
thuế suất MFN đối với nấm mã HTS 0709.51.01 áp dụng cho năm 2004
là 8,8 cent/kg + 20%.
 Thuế theo hạn ngạch: Hàng hoá nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn
ngạch cho phép được hưởng mức thuế thấp hơn, trong khi đó hàng
nhập vượt quá hạn ngạch phải chịu mức thuế cao hơn nhiều và có hệ
quả như cấm nhập khẩu. Mức thuế MFN năm 2002 áp dụng đối với số
lượng trong hạn ngạch bình quân là 9%, trong khi đó mức thuế đối với
số lượng vượt hạn ngạch trung bình là 53%. Thuế hạn ngạch hiện nay
đang được áp dụng với thịt bò, các sản phẩm sữa, đường và các sản
phẩm đường. Mức thuế MFN năm 2002 áp dụng đối với số lượng trong
hạn ngạch bình quân là 9%, trong khi đó mức thuế đối với số lượng
vượt hạn ngạch trung bình là 53%. Thuế hạn ngạch hiện nay đang được
áp dụng với thịt bò, các sản phẩm sữa, đường và các sản phẩm đường.
 Thuế theo thời vụ: Mức thuế đối với một số loại nông sản có thể thay
đổi theo thời điểm nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong năm. Ví dụ, mức thuế
MFN năm 2004 đối với nho tươi nhập khẩu trong thời gian từ 15 tháng
2 đến hết ngày 31 tháng 3 là 1,13 USD/m3, trong thời gian từ 1 tháng 4



11
đến hết 30 tháng 6 là 1,80 USD/m3, và ngoài những thời gian trên được
miễn thuế.
 Thuế leo thang: Một đặc điểm nữa của hệ thống thuế nhập khẩu của
Hoa kỳ là áp dụng thuế suất leo thang, nghĩa là hàng càng chế biến sâu
thì thuế suất nhập khẩu càng cao. mức thuế FMN đối với cá tươi sống
hoặc ở dạng philê đông lạnh là 0%, trong khi đó mức thuế đối với cá
khô và xông khói là từ 4% đến 6%. Loại thuế này cá tác dụng khuyến
khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế hơn là hàng thành phẩm.
 Luật Thuế:
 Luật Thuế năm 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập
khẩu vào Hoa Kỳ, bảo vệ chống lại việc nhập khẩu hàng giả. Đến nay
nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực, song thuế suất đã được
nhiều lần sửa đổi và hạ xuống nhiều.Luật Thuế năm 1930 quy định tất
cả hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải được đánh dấu
nước xuất xứ bằng tiếng Anh, phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá được,
ghi ở chỗ dễ nhìn thấy trên bao bì. Việc xác định xuất xứ là rất quan
trọng vì hàng nhập khẩu ở những nước đang phát triển hoặc những
nước đã ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ sẽ được hưởng thuế suất
thấp hơn. Quy định này chỉ bắt buộc với sản phẩm hoàn chỉnh, khi
nhập vào Hoa Kỳ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng.Hàng nhập
khẩu vi phạm quy định ghi nhãn xuất xứ sẽ bị Hải quan giữ lại. Hải
quan có thể yêu cầu người nhập khẩu nộp thuế vi phạm quy định ghi
nhãn xuất xứ bằng 10% trị giá hàng hoá, trừ phi hàng đó được tái xuất,
tiêu huỷ hoặc ghi nhãn xuất xứ dưới sự giám sát của Hải quan.
 Luật Thương mại năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt động
buôn bán. Luật có nhiều điều khoản cho phép đền bù tổn thất cho các
ngành công nghiệp Hoa Kỳ bị cạnh tranh bởi hàng nhập khẩu.



12
 Hiệp định Thương mại năm 1979: Bao gồm các điều khoản về sự bảo
trợ của Chính phủ về các rào cản kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi
thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế.
 Luật tổng hợp Thương mại và Cạnh tranh năm 1988: Luật này uỷ
nhiệm Tổng thống Hoa Kỳ tham gia vòng đàm phán Uruguay, đồng
thời thiết lập thủ tục đặc biệt cho phép Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp
trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa cho hàng hoá
Hoa Kỳ vào và vi phạm Quyền sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ.
 Quy định mới của Hải quan Hoa Kỳ về việc đặt cọc tiền thuế đối với
hàng nhập khẩu bị đánh thuế chống bán phá giá khi xuất sang thị
trường này. Theo quy định mới, khoản tiền đặt cọc sẽ tương đương với
giá trị thuế chống bán phá giá tính trên tổng lượng hàng mà một công
ty nhập khẩu (từ nước bị áp thuế) trong vòng 12 tháng.
 Tu chính án Byrd: Với tên gọi chính thức “Luật đền bù phá giá và trợ
giá tiếp diễn 2000”, hàng năm “Tu chính án Byrd” cho phép trực tiếp
rót các khoản tiền thu được từ việc áp thuế chống bán phá giá hoặc
thuế chống trợ giá cho các công ty Hoa Kỳ đã tham gia khởi kiện bán
phá giá để đòi phải áp đặt các loại thuế này. Tu chính án Byrd khuyến
khích các nhà sản xuất của Hoa Kỳ khởi xướng các vụ kiện chống bán
phá giá và chống trợ giá, vì họ biết rõ rằng họ sẽ “đủ tư cách” để nhận
các khoản phân bổ từ tiền thuế thu được. Ngày 21/12/2005, Thượng
viện Hoa Kỳ đã biểu quyết thông qua việc bãi bỏ Tu chính án Byrd,
nhưng phải sau 2 năm nữa hiệu lực của Tu chính án Byrd này mới thực
sự bị xoá bỏ.
 Luật uu đãi thương mại Andean (Andean Trade Preference Act -
ATPA) được ban hành tháng 12 năm 1991 nhằm hỗ trợ các nước
Bolivia, Colombia, Ecuador và Peru trong cuộc chiến chống sản xuất



13
và buôn lậu ma tuý bằng cách phát triển kinh tế. Theo Luật này, hầu
hết các sản phẩm nhập khẩu từ những các nước Adean vào Hoa Kỳ
được giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, trong đó có khoảng 6.300 sản
phẩm được miễn thuế hoàn toàn.ATPA được thay thế bằng Luật Xúc
tiến Thương mại và Xoá bỏ Ma tuý (ATPDEA) được ban hành tháng 8
năm 2002 là một phần của Luật Thương mại năm 2002.

 Luật Hỗ trợ Phát triển Châu Phi (African Growth and Opportunity Act
- AGOA). Luật này cho phép gần như toàn bộ các hàng hoá của 38
nước Châu Phi được nhập khẩu vào Hoa Kỳ miễn thuế và không bị
hạn chế về số lượng. Chính quyền Mỹ đang đề nghị Quốc hội gia hạn
hiệu lực của Luật này khi hết hạn vào năm 2008.
 Mức thuế
 Mức thuế tối huệ quốc (MFN), hay còn gọi là mức thuế dành cho các
nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với
những nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những
nước tuy chưa phải là thành viên WTO nhưng đã ký hiệp định thương
mại song phương với Hoa Kỳ như Việt Nam. Mức thuế tối huệ quốc
(MFN) nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết
các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Hàng dệt may và giầy dép
thường chịu mức thuế cao hơn. Mức thuế MFN theo giá trị nói chung
bình quân khoảng 4%. Mức thuế MFN được ghi trong cột “General”
của cột 1 trong biểu thuế nhập khẩu (HTS) của Hoa Kỳ.
 Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dung đối với những
nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất
Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều lần so



14
với thuế suất MFN. Mức thuế Non- FMN được ghi trong cột 2 của biểu
thuế HTS của Hoa Kỳ.
 Mức thuế áp dụng với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Hàng
hoá nhập khẩu từ Canada và Mexico được miễn thuế nhập khẩu hoặc
được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn mức thuế MFN. Ví dụ, mức thuế
MFN năm 2004 áp dụng chung với dưa chuột chế biến là 9,6%, trong
khi đó nếu nhập khẩu từ Canada hoặc Mêxicô thì được miễn thuế. Thuế
suất ưu đãi đối với hàng nhập từ Canada và Mêxicô được ghi ở cột
“Special” của cột 1 trong biểu thuế HTS trong đó (CA) là ký hiệu dành
cho Canada và (MX) là ký hiệu dành cho Mêxicô
 Chế độ ưu đãi độ thuế quan phổ cập (Generalized System of
Preferences - GSP). Một số hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang
phát triển được Hoa kỳ cho hưởng GSP được miễn thuế nhập khẩu vào
Hoa Kỳ. Chương trình GSP của Hoa kỳ thực sự được thực hiện từ 1
tháng 1 năm 1976 với thời hạn ban đầu là 10 năm. Từ đó đến nay,
chương trình này đã được gia hạn nhiều lần với một số sửa đổi.Hiện
nay, có khoảng 3.500 sản phẩm từ trên 140 nước và vùng lãnh thổ được
hưởng ưu đãi này của Hoa kỳ, trong đó không có Việt nam. Những
hàng hoá được hưởng GSP của Hoa kỳ bao gồm hầu hết các sản phẩm
công nghiệp và bán công nghiệp, một số mặt hàng nông thuỷ sản, vàcác
nguyên liệu công nghiệp.Những mặt hàng không được đưa vào diện
hưởng GSP bao gồm một số mặt hàng hàng dệt may; đồng hồ; các mặt
hàng điện tử nhập khẩu nhậy cảm; các mặt hàng thép nhập khẩu nhậy
cảm; giầy dép, túi xách tay, các loại bao ví dẹt, găng tay lao động, và
quần áo da; và các sản phẩm thuỷ tinh bán công nghiệp và công nghiệp
nhập khẩu nhậy cảm.



15
 Sáng kiến Khu vực Lòng chảo Caribê (Caribbean Basin Initiative -
CBI). Điểm mấu chốt của CBI là cho phép Tổng thống quyền đơn
phương dành ưu đãi thương mại cho hàng nhập khẩu từ các nước và
lãnh thổ nằm trong khu vực Lòng chảo Caribê để hỗ trợ cho các nước
và vùng lãnh thổ này phục hồi và phát triển kinh tế. Sáng kiến này được
thể hiện trong các luật của Hoa Kỳ như: Luật Phục hồi Kinh tế Khu vực
Lòng chảo Caribê ban hành tháng 8 năm 1983 (hay còn gọi là CBI I),
Luật Mở rộng Phục hồi Kinh tế Khu vực Lòng chảo Caribê năm 1990
(hay còn gọi là CBI II), và Luật Hợp tác Thương mại Khu vực Lòng
chảo Caribê, có hiệu lực tháng 10 năm 2000 (hay còn gọi là CBI III).
Kể từ CBI I đến CBI III hiện nay, những ưu đãi thương mại mà Hoa kỳ
đơn phương dành cho các nước và lãnh thổ được hưởng lợi ngày càng
nhiều và lớn hơn. Hiện nay, có 24 nước và vùng lãnh thổ được hưởng
lợi của CBI. Hầu hết các sản phẩm có xuất xứ từ những nước và vùng
lãnh thổ này được nhập khẩu vào Hoa kỳ không bị hạn chế về số lượng
và được miễn thuế. CBI III đã bổ xung một số loại hàng dệt may vào
danh mục hưởng lợi (không bị hạn chế số lượng và được miễn thuế), số
còn lại vẫn chịu sự điều tiết của các hiệp định dệt may song phương.
Các nhóm hàng chưa được miễn thuế hoàn toàn, song được hưởng mức
thuế ưu đãi thấp hơn mức MFN bao gồm: giầy dép, túi xách tay, túi
hành lý, các loại túi ví dẹt, găng tay lao động, quần áo da.
Để được hưởng ưu đãi theo CBI, hàng hoá phải đáp ứng 3 yêu cầu xuất
xứ: (1) Phải được nhập trực tiếp từ một nước được hưởng lợi vào lãnh
thổ hải quan Hoa Kỳ; (2) Phải chứa ít nhất 35% hàm lượng nội địa của
một hoặc nhiều nước hưởng lợi (hàm lượng nguyên liệu xuất xứ Hoa
kỳ chiếm tới 15% tổng trị giá hàng hoá cũng có thể tính vào yêu cầu
35% này), và (3) Hàng hóa phải là sản phẩm được trồng, sản xuất hoặc



16
chế tạo hoàn toàn ở nước hưởng lợi hoặc nếu có nguyên liệu nước
ngoài thì nó phải được biến đổi thành sản phẩm mới hoặc khác ở nước
hưởng lợi.
 Luật ưu đãi thương mại Andean (Andean Trade Preference Act -
ATPA) được ban hành tháng 12 năm 1991 nhằm hỗ trợ các nước
Bolivia, Colombia, Ecuador và Peru trong cuộc chiến chống sản xuất
và buôn lậu ma tuý bằng cách phát triển kinh tế. Theo Luật này, hầu hết
các sản phẩm nhập khẩu từ những các nước Adean vào Hoa Kỳ được
giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu, trong đó có khoảng 6.300 sản phẩm
được miễn thuế hoàn toàn.
ATPA được thay thế bằng Luật Xúc tiến Thương mại và Xoá bỏ Ma
tuý (ATPDEA) được ban hành tháng 8 năm 2002 là một phần của Luật
Thương mại năm 2002. ATPDEA đã mở rộng diện các mặt hàng được
miễn thuế nhập khẩu. ATPDEA có hiệu lực đến 31 tháng 12 năm 2006.
Tổng thống Hoa Kỳ có thể huỷ hoặc tạm ngừng quyền hưởng lợi, hoặc
huỷ, tạm ngừng hoặc thu hẹp một số lợi ích của một nước nào đó nếu
như nước này không thỏa mãn các tiêu chuẩn hưởng lợi đặt ra trong
Luật.
Bốn nước Adean nói trên cũng được hưởng GSP, song diện mặt hàng
được ưu đãi theo ATPA rộng hơn GSP và qui định về xuất xứ trong
ATPA cũng rộng rãi hơn. Ví dụ, nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Puerto
Rico, Virgin Islands thuộc Mỹ, và các nước hưởng lợi của Luật Phục
hồi Kinh tế Khu vực Lòng chảo Caribê có thể được tính vào yêu cầu
35% trị giá gia tăng nội địa. Những mặt hàng không được ưu đãi theo
Luật ATPA và ATPDEA cũng tương tự như những mặt hàng không
được hưởng lợi theo CBI.



17
 Luật Hỗ trợ Phát triển Châu Phi (African Growth and Opportunity Act
- AGOA). Luật này cho phép gần như toàn bộ các hàng hoá của 38
nước Châu Phi được nhập khẩu vào Hoa Kỳ miễn thuế và không bị hạn
chế về số lượng. Chính quyền Mỹ đang đề nghị Quốc hội gia hạn hiệu
lực của Luật này khi hết hạn vào năm 2008.
 Các hiệp định thương mại tự do song phương. Tính đến hết tháng 1
năm 2004, Hoa Kỳ đã ký hiệp định thương mại tự do song phương với
Israel (1985), Jordan (2000), Singapore (2002), Chi lê (2002), và
Australia (2004). Hoa Kỳ đang tiếp tục đàm phán các hiệp định tương
tự với nhiều khu vực và nước trên thế giới, trong đó có khu vực mậu
dịch tự do toàn Châu Mỹ. Nhìn chung, hàng hoá nhập khẩu vào Hoa
Kỳ từ những nước có hiệp định thương mại tự do với Hoa Kỳ đều được
miễn thuế nhập khẩu hoặc có mức thuế thấp hơn nhiều so với mức thuế
MFN

 Các ưu đãi thuế quan khác. Hoa Kỳ còn dành ưu đãi thuế quan cho
những hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ thuộc diện hưởng lợi của Luật
Thương mại các Sản phẩm Ô tô .Hiệp định Thương mại Máy bay Dân
dụng .Hiệp định Thương mại các Sản phẩm Dược và những cam kết
giảm thuế của Vòng Uruguay đối với hoá chất nguyên liệu trực tiếp
của thuốc nhuộm Các mặt hàng kim loại chế biến ở nước ngoài từ kim
loại mua của Hoa Kỳ khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ được miễn thuế nhập
khẩu đối với phần trị giá mua của Hoa Kỳ. Hàng lắp ráp từ các bộ phận
mua của Hoa Kỳ khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ được miễn thuế nhập khẩu
đối với phần trị giá mua của Hoa Kỳ.


18
1.2.2. RÀO CẢN PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG NHẬP KHẨU.

Theo nghiên cứu của OECD thì việc sử dụng các loại rào cản phi thuế
quan là một trong những cách phổ biến để thay thế cho các quy định cắt
giảm thuế quan của WTO . Đúng đầu thế giới về một nền kinh tế phát triển
Mỹ đã áp dụng những biện pháp rào cản phi thuế quan đa dạng như :
1.2.2.1. Rào cản kĩ thuật trong thương mại
 Các quy định về dịch tễ vệ sinh an toàn (Sanitary and
phytosanitary): các quy định này được các nước đưa ra để bảo vệ
sức khoẻ cho người, vật nuôi và cây trồng.
 Các biện pháp đối với người tiêu dùng: các biện pháp quy định về
chất lượng và an toàn thực phẩm bao gồm nhãn mác, đóng gói, dư
lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng dinh dưỡng và tạp chất. Các quy
định này có thể cho phép một quốc gia sử dụng các rào cản nhằm
đảm bảo hàng hoá an toàn.
 Các biện pháp thương mại: các biện pháp được thực hiện nhằm
ngăn chặn gian lận thương mại bao gồm các chứng từ vận chuyển và
tài chính, các tiêu chuẩn nhận dạng và các tiêu chuẩn đo lường. Sự
trỗi dậy của các hàng rào kỹ thuật vô hình trong thương mại đã tạo
ra một môi trường thương mại không tích cực, thông thoáng. Trong
khi một số các rào cản kỹ thuật trong thương mại có cơ sở khoa học
thì rất nhiều hàng rào khác lại không có cơ sở và chúng được sử
dụng ngày càng nhiểu để hạn chế tự do thương mại. Từ giữa những
năm 1990, Bộ Nông nghiệp Mỹ đã đánh giá rằng các sản phẩm nông
nghiệp xuất khẩu của Mỹ đạt trị giá 5 tỷ đô la Mỹ là đối tượng bị áp
dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại của 63 nước trên thế
giới. Mặt khác, trong vài năm gần đây, Mỹ đã gia tăng đáng kể việc


19
giám sát nhập khẩu tại các cửa khẩu dẫn đến kết quả là danh mục
các sản phẩm nhập khẩu bị giám sát đã không ngừng tăng lên.

1.2.2.2.Luật thực phẩm: Các thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ không chỉ là
đối tượng chịu thuế nhập khẩu mà còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn về chất
lượng và phẩm cấp để đảm bảo cung cấp thực phẩm an toàn.
1.2.2.3Đạo luật chống khủng bố sinh học năm 2002 (BTA).Việc ban
hành đạo luật này tạo điều kiện cho FDA phản ứng nhanh chóng trước các
nguy cơ khủng bố và ra các báo hiệu khẩn cấp liên quan đến việc cung cấp
thực phẩm. Đạo luật này quy định rằng FDA và Hải quan cửa khẩu (CBP) có
thể cấm nhập các thực phẩm nhập khẩu không đăng ký theo quy định và các
sản phẩm không có đủ những thông tin cần thiết. FDA và CBP đã ban hành
hướng dẫn thực hiện trong đó giải thích các cơ quan chức năng làm thế nào để
thực thi các quy định này. Đạo luật bắt đầu có hiệu lực từ 12/8/2004 và được
áp dụng rộng rãi từ 1/11/2004. Đạo luật này có nhiều quy định được xem như
những rào cản thương mại đối với hàng hóa hiện đang và sẽ được nhập khẩu
vào Mỹ.
1.2.2.4.Luật về nhãn hiệu hàng hóa Ở Mỹ tồn tại nhiều quy định do
các cơ quan chức năng khác nhau ban hành nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ
sở hữu về nhãn hiệu, tên thương mại, tácquyền và sáng chế. Đạo luật về Nhãn
hiệu năm 1946 cấm nhập khẩu những sản phẩm làmnhái theo những thương
hiệu đã được đăng ký tại Hoa kỳ, hoặc gây tương tự đến mức gây nhầm lẫn.
Đạo luật Thuế quan năm 1930 cho phép các cơ quan hải quan Mỹ cấm nhập
các sản phẩm từ nước ngoài mang nhãn hiệu đã đựơc các tổ chức, công dân
Mỹ đăng ký tại Hoa Kỳ. Các quy định của Mỹ cũng cho phép các chủ sở hữu
những đối tượng như nhãn hiệu hàng hóa và tác giả nộp đơn xin bảo hộ tại cơ
quan có thẩm quyền và nộp phí đăng ký theo quy định.


20
1.2.2.5.Hệ thống đăng ký quốc gia Hoa kỳ Có hai đạo luật quy định về
chức năng cơ bản của hệ thống đăng ký quốc gia và phạm vi ban hành các
quy phạm pháp luật liên quan là Đạo luật về đăng ký toàn liên bang và Đạo

luật về các thủ tục hành chính. Đạo luật về về các thủ tục hành chính ban hành
năm 1934 thiết lập một hệ thống đồng bộ các quy định cho các cơ quan quản
lý hành chính, còn Đạo luật đăng ký toàn liên bang ban hành năm 1946 đã bổ
sung những yêu cầu quan trọng áp dụng cho Hệ thống đăng ký liên bang.
1.2.2.6.Các yêu cầu về dán nhãn hàng hóa. Theo Đạo luật về Thực
phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm toàn liên bang (FD&C Act), mỗi nhãn hiệu
thực phẩm phải chứa đựng các thông tin cụ thể, dễ nhận biết mà các khách
hàng bình thường cũng có thể đọc và hiểu theo những điều kiện thông thường
khi mua và sử dụng. Tất cả các thực phẩm phải có nhãn hiệu bằng tiếng Anh,
chứa đựng các thông tin về thành phần, dinh dưỡng, cách sử dụng, giá trị
chuẩn khi sử dụng hàng ngày, nước xuất xứ, tên và địa chỉ của nhà sản xuất
hoặc nhà nhập khẩu v.v… bằng tiếng Anh.
1.2.2.7.Các quy định về phụ gia thực phẩm. Các phụ gia thực phẩm
phải được kiểm duyệt trước khi đưa ra thị trường. Trước khi chào bán một
loại thực phẩm hoặc phụ gia tạo màu vào thị trường Mỹ, nhà sản xuất phải
nộp đơn yêu cầu lên FDA để được phê duyệt. Một đơn xin phê duyệt về thực
phẩm hoặc phụ gia tạo màu phải có các bằng chứng thuyết phục rằng chất phụ
gia đó thực sự có tác dụng như dự kiến. FDA sau đó dựa trên cơ sở tiến bộ
khoa học hiện có sẽ chấp thuận nếu chất phụ gia đó an toàn theo các điều kiện
sử dụng đã đề xuất.
1.2.2.8 Luật thuế chống phá giá
Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng nhập khẩu khi nó được
xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá
giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông


21
thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn giá bán của hàng hóa
đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ 3 thay thế thích hợp.
Thuế chống phá giá được áp dụng khi có đủ hai điều kiện

(1) DOC phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc có
thể sẽ được bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ,
(2) USITC phải xác định hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây
thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản hình thành
ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ.
Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá
trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. DOC sẽ xác định giá trị
thông thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu
tiên là:
(1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa,
(2) Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba,
(3) “Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với
các khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng, và các chi phí hành chính khác
như đóng gói.
“Giá trị tính toán” được coi là giá trị thông thường để tính biên phá giá
khi giá bán ở thị trường nội địa hoặc giá bán sang nước thứ ba thấp hơn chi
phí sản xuất hoặc hàng hóa đang bị điều tra không bán ở thị trường nội địa
hoặc không được bán sang nước thứ ba.
Nếu từ hai nước trở nên bị kiện bán phá giá hoặc trợ giá, luật yêu cầu
USITC đánh giá lũy tích số lượng và ảnh hưởng của các hàng nhập khẩu
tương tự từ các nước bị kiện nếu chúng cạnh tranh với nhau và với sản phẩm
tương tự của Hoa Kỳ trên thị trường Hoa Kỳ. Nếu hàng nhập khẩu từ một
nước đang bị điều tra được coi là không đáng kể (thường được xác định là
nhỏ hơn 3% tổng giá trị nhập khẩu của sản phẩm bị điều tra), việc điều tra


22
nước đó sẽ được dừng lại. Cũng có những quy định miễn trừ áp dụng những
quy tắc lũy tích ví dụ như việc áp dụng đối với các nước được hưởng ưu đãi
của Sáng kiến Lòng chảo Caribê (CBI) và đối với Ixaren.

1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI VƯỢT QUA CÁC RÀO CẢN THƯƠNG
MẠI.
Hiện nay thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ, sự giao lưu trao đổi
khinh tế đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia tạo nên sự phát triển kinh tế của
các quốc gia cung với đó là sự phát triển của nền kinh tế thế giới .Có rất
nhiều lý do để chính phủ một nước can thiệp thương mại là bảo vệ ngành
công nghiệp non trẻ hoặc theo đuổi chính sách thương mại chiến lược.
Để thực sự thành công trên thị trường nước ngoài thì vượt qua các rào
cản thương mại là một vấn đề tất yếu khách quan.Rào cản thương mại cũng là
một công cụ để hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi nền kinh tế của một quốc gia đã trở thành một bộ phận của nền kinh
tế thế giới ,khi quốc gia đó thực sự muốn phát triển hợp tác với các quốc gia
khác thì không còn cach nào khác là phải có những biện pháp thích hợp để
vượt qua nó.
Vượt qua rào cản thương mại không chỉ giúp cho nền kinh tế của mỗi
quốc gia tự khẳng định được mình trong bước đường hội nhập mà nó còn là
động lực để mỗi doanh nghiệp tự nâng cao chất lượng sản phẩm của mình cho
phù hợp với xu thế và đặc điểm đòi hỏi của thị trường xuất khẩu,nâng cao uy
tín với bạn hàng ,tránh được những rủi ro cho doanh nghiệp ở thị trường quốc
tế .Điều đó cũng chính là mỗi doanh nghiệp tự rèn cho mình tính chuyên
nghiệp trong kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.




23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC LOẠI RÀO CẢN
THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HÀNG THUỶ SẢN CỦA VIỆT
NAM XUẤT KHẨU SANG THỊ TRƯỜNG MỸ.


2.1.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM.
2.1.1. TIỀM NĂNG CỦA NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM.
2.1.1.1.Vị trí địa lý
Việt Nam là dải đất cong hình chữ S, chạy dọc phía Đông bán đảo Đông
Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Phía Đông, Nam và Tây Nam giáp biển
Thái Bình Dương; phía Tây và phía Bắc gắn liền với lục địa châu Á. Phần đất
liền của Việt Nam trải dài từ 23
o
23' đến 08
o
02' vĩ độ Bắc và chiều ngang từ
102
o
08' đến 109
o
28' kinh độ Đông. Chiều dài tính theo đường thẳng trong đất
liền từ Bắc xuống Nam khoảng 1.650 km. Chiều ngang từ Đông sang Tây nơi
rộng nhất trên đất liền là 600 km, nơi hẹp nhất 50 km.
Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730 km. Phía Bắc giáp nước Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150 km. Phía Tây giáp
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650 km và giáp
Vương quốc Cămpuchia - 930 km.
Qua biển Đông và vịnh Thái Lan là Cộng hoà Philippin, Cộng hoà
Inđônêxia, Cộng hoà Singapo, Cộng hoà Brunây và Liên bang Malaixia
2.1.1.2.Lĩnh vực khai thác thuỷ sản
 Khai thác hải sản
Là việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên trên biển và vùng nước lợ.
Hoạt động khai thác hải sản ở Việt Nam được tiến hành tập trung trong
khu vực ngư trường số 71, khu vực Trung - Tây Thái Bình Dương, theo bản
đồ ngư trường thế giới của FAO.



24
Nhìn chung, nghề khai thác hải sản Việt Nam là nghề cá nhỏ, hoạt động
ven bờ là chủ yếu. Do sự tăng trưởng quá lớn cường lực khai thác nên trữ
lượng nguồn lợi ở vùng biển ven bờ đã có dấu hiệu bị đe doạ, một số loài hải
sản có giá trị kinh tế cao đã bị khai thác quá mức. Vì vậy ngành Thuỷ sản
Việt Nam chủ trương cơ cấu lại nghề khai thác để giảm áp lực đối với nguồn
lợi trong vùng biển này, bằng cách phát triển khai thác các nguồn lợi còn chưa
bị khai thác ở vùng biển xa bờ (khai thác hải sản xa bờ), đồng thời chuyển
một bộ phận ngư dân sang những lĩnh vực hoạt động kinh tế khác như nuôi
trồng, kinh doanh, cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá, tham gia hoạt động
phục vụ du lịch, giải trí, v.v
Khai thác hải sản xa bờ:
Là hoạt động khai thác hải sản tiến hành ở vùng biển có độ sâu từ 30m
trở lên (đối với vùng biển Bắc Bộ, Đông - Tây Nam Bộ, Vịnh Thái Lan), từ
50m trở lên (đối với vùng biển miền Trung).
Từ năm 1991 đến năm 2001, tổng sản lượng khai thác hải sản liên tục
tăng với tốc độ bình quân là 9%/năm. Tỷ trọng sản phẩm khai thác xa bờ
trong tổng sản lượng hải sản khai thác năm 2001 là 33,87% và tiếp tục tăng
trong những năm sau.
 Khai thác thuỷ sản nội địa
Là hoạt động khai thác nguồn lợi thuỷ sản trong các sông, hồ, đầm phá
và các vùng nước ngọt tự nhiên khác.
Tổng sản lượng thuỷ sản khai thác nội địa hằng năm dao động từ 200 đến
250 nghìn tấn. Đây là nguồn cung cấp thực phẩm tại chỗ quan trọng cho dân
cư, đồng thời cũng có nhiều sản phẩm quý.
 Khai thác ở hồ
Việt Nam có trên 200 nghìn ha hồ, gồm khoảng 10% là diện tích hồ tự
nhiên và 90% là diện tích hồ chứa. Tổng sản lượng khai thác cá tự nhiên ở hồ



25
hằng năm khoảng 9.000 tấn, trong đó 4.000 tấn khai thác ở hồ tự nhiên, 5.000
tấn khai thác ở hồ chứa. Ngoài cá, ao hồ còn cung cấp giáp xác, nhuyễn thể,
rong, làm thực phẩm cho người và làm dược liệu, thức ăn chăn nuôi.
 Khai thác ở vùng trũng ngập lũ
Miền Bắc và miền Trung không có vùng trũng ngập lũ lớn và kéo dài,
nhưng ở đồng bằng sông Cửu Long có những vùng trũng ngập rất lớn như
Đồng Tháp Mười - 140 nghìn ha, Tứ giác Long Xuyên - 218 nghìn ha, thời
gian ngập lũ hằng năm từ 2 - 4 tháng. Đây là nơi lý tưởng để khai thác các
loài cá di cư từ hệ thống sông Cửu Long vào mùa mưa. Sản lượng cá khai
thác tự nhiên ở riêng hai vùng trũng ngập lũ này đạt khoảng trên 20.000 tấn
mỗi năm.
 Khai thác cá sông
Nguồn lợi cá sông ở miền Bắc và miền Trung do không được bảo vệ nên
đã gần như cạn kiệt. Hệ thống kênh rạch chằng chịt ở Nam Bộ hằng năm cung
cấp một lượng thuỷ sản nước ngọt đáng kể. Ngư dân ven sông Cửu Long vẫn
duy trì được nghề khai thác cá sông với sản lượng khoảng 30.000 tấn/năm.

×