LUẬN VĂN:
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa
tuổi vị thành niên trong nhà trường
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, và gần đây Đại hội Đảng IX của Đảng đã mở ra
bước ngoặt lịch sử, đưa nước ta tiến lên một thời kỳ phát triển hoàn toàn mới.
Một luận điểm quan trọng của Đảng ta về sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là "lấy
việc chăm sóc, đào tạo, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững". Vì vậy, xây dựng con người phát triển hài hòa, toàn diện là mục tiêu
hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay và lâu dài, chiến lược phát triển nhân cách văn hóa toàn
diện cho thế hệ trẻ được đặc biệt quan tâm.
NQTW 5 khóa VIII và NQTW 2 khóa VIII cho thấy văn hóa và giáo dục, giáo
dục và văn hóa trong thời đại ngày nay là cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng. Giáo
dục đưa dân trí đất nước phát triển, góp phần quan trọng phát triển nền văn hóa dân tộc,
tạo nên một sức mạnh nội lực. Văn hóa là nội dung và là mục đích của giáo dục. Giáo
dục là con đường chuyển tải và phát huy giá trị văn hóa. Trường học ngày nay được xem
không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh mà còn phải biến tri thức đó thành vốn văn hóa,
nhân cách văn hóa cho các em theo mục tiêu và nội dung của đổi mới giáo dục (tinh thần
NQ Trung ương 2 khóa VIII).
Học sinh ở độ tuổi vị thành niên từ 11 - 12 đến 17 - 18 là lứa tuổi
có những đột biến trong tâm sinh lý. Thời kỳ này được đặc trưng bởi sự
phát triển rất nhanh cả về trí lực, thể lực. Song đây cũng là giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi
thơ sang tuổi trưởng thành, một mặt các em có nhu cầu rất
lớn những kiến thức khoa học về bản thân (vấn đề giới, tình bạn, tình yêu, tình dục ),
mặt khác, là những nhu cầu về định hướng giá trị hành vi, kỹ năng sống.
Nhiều công trình nghiên cứu gần đây, và những thông tin trên báo chí, phát thanh,
truyền hình xung quanh vấn đề tuổi vị thành niên cho thấy, do sự thiếu hụt những kiến
thức cần thiết ở lứa tuổi này từ phía gia đình - nhà trường - xã hội, vị thành niên đang có
những biểu hiện đáng lo ngại về lối sống - đạo đức: sống buông thả, đua đòi, xa hoa, lười
biếng trong học tập, quay cóp trong thi cử, giải trí thiếu lành mạnh (VD: Trò chơi tiêu
cực, xem phim bạo lực, tình ái trên mạng Internet), từ đó dẫn đến phạm pháp, quan hệ yêu
đương sớm, thậm chí có những em quan hệ tình dục sớm, nạo phá thai trước tuổi trưởng
thành ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe, học tập, tâm lý và tương lai của các em. Một điều
không thể phủ nhận là những thành tựu cách mạng khoa học kỹ thuật của thời đại ngày
nay đã cho lớp trẻ có được trình độ học vấn và trình độ sống cao. Song những tồn tại trên
cũng cho thấy sự mất cân đối giữa giáo dục học vấn và giáo dục nhân cách văn hóa cho
học sinh.
Nhận thức được vấn đề này, một vài năm trở lại đây, giáo dục nhân cách cho học
sinh ở tuổi vị thành niên trong nhà trường đã bước đầu được nghiên cứu một cách hệ
thống và đưa vào thể nghiệm từ năm 2000; song cũng mới chỉ dừng lại thí điểm ở học
sinh một số trường phổ thông cơ sở với nội dung "giáo dục giá trị đạo đức nhân văn".
Cho đến nay, chưa có một công trình nào đi vào vấn đề "giáo dục giá trị truyền thống văn
hóa cho lứa tuổi vị thành niên trong trường phổ thông" một cách chuyên biệt. Với lý do
này, chúng tôi chọn đề tài "Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành
niên trong nhà trường" nhằm tích hợp với một số môn xã hội, đặc biệt với bộ môn giáo
dục công dân, và giáo dục hoạt động ngoài giờ lên lớp. Qua đó, hình thành và phát triển
nhân cách văn hóa cho lứa tuổi vị thành niên, đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của
Đảng, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định những giá trị truyền thống văn hóa phù hợp với lứa tuổi cấp học.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hình thành, phát triển những giá trị đó ở thế hệ
vị thành niên.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh ở tuổi cấp II, III.
- Đối tượng nghiên cứu: Nội dung giá trị truyền thống văn hóa và giải pháp giáo
dục để thực hiện mục tiêu trên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
- Nêu được thực trạng lối sống, nhân cách vị thành niên học sinh phổ thông hiện
nay.
- Nêu thực trạng những đánh giá của học sinh VTN, giáo viên, phụ huynh VTN
về truyền thống văn hóa và công tác giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi vị thành
niên trong nhà trường hiện nay. Những khó khăn, thuận lợi và nguyên nhân của thực
trạng này.
- Đề xuất những giải pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong nhà trường
phổ thông hiện nay.
4.2. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu giá trị truyền thống văn hóa với sự hình thành
nhân cách văn hóa ở tuổi VTN trong trường học (chủ yếu là học sinh dân tộc kinh các
trường ở thành phố và nông thôn).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Người viết sẽ đứng ở góc độ lý luận văn hóa để phân tích vấn đề, tuy nhiên đề
tài sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các ngành xã hội học văn hóa, nhân học văn
hóa, tâm lý học trẻ em, và các tài liệu khác xung quanh tuổi VTN.
- Phương pháp luận nghiên cứu, đề tài dựa vào phương pháp DVBC và DVLS -
Tư tưởng chỉ đạo của đề tài là dựa theo văn kiện của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói
về xây dựng con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
- Các phương pháp cụ thể là phương pháp lôgic, lịch sử thống kê, phân tích, đi
khảo sát thực tế, phỏng vấn sâu, lấy ý kiến chuyên gia, phát phiếu thăm dò.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Một trong những xu hướng nghiên cứu văn hóa học hiện đại là xu hướng "văn
hóa và nhân cách", đã xuất hiện từ nửa đầu thế kỷ XX, với nhiều tên tuổi nổi tiếng như
Herskovists (1948), Mead (1964), Bastide (1971), Xôcôlốp (1972) , và ở Việt Nam gần
đây tiêu biểu có GS Phan Ngọc. Đề tài nằm trong xu hướng trên đây nên nó mang tính lý
luận sâu sắc.
- Vận dụng lý luận trên vào hoạt động thực tiễn sẽ hình thành nên văn hóa con
người, trong đó có xây dựng nhân cách văn hóa ở tuổi VTN trong hệ thống giáo dục nhà
trường. Đây là ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và mục tài liệu tham khảo, đề tài chia làm
3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho
vị thành niên trong nhà trường
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi VTN trong nhà
trường.
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở
tuổi vị thành niên.
Chương 2: Thực trạng về giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi
VTN trong nhà trường hiện nay
2.1. Nhận thức của học sinh VTN, của giáo viên, phụ huynh VTN về giáo dục
truyền thống văn hóa
2.2. Vài nét về tình hình giáo dục giá trị truyền thống văn hóa trong trường phổ
thông hiện nay.
Chương 3: Những biện pháp giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi
vị thành niên trong nhà trường
3.1. Những biện pháp giáo dục lý thuyết ở phần chính khóa.
3.2. Những biện pháp giáo dục thực hành khuôn mẫu văn hóa ứng xử (ở phần
hoạt động ngoài giờ lên lớp).
3.3. Những biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh nhà trường.
3.4. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống tiếp cận vào lối sống, đạo đức, sức khỏe và
phòng chống tệ nạn xã hội cho học sinh vị thành niên trong nhà trường
Kết luận
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục
giá trị truyền thống văn hóa
cho vị thành niên trong nhà trường
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa, nếu xét về nguồn gốc của từ, được bắt nguồn từ tiếng La tinh Colere,
nghĩa là "gieo trồng". Đến thế kỷ 19, thuật ngữ văn hóa đi vào khoa học xuất sinh từ
phương Tây, tiếng Pháp và tiếng Anh đều viết là Culture.
Theo nghĩa rộng, văn hóa là phương thức tồn tại đặc hữu của con người, khác
biệt với phương thức tổ chức cuộc sống của các loài sinh thể khác trên trái đất.
Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen khi nói về "lực lượng bản chất người" đã
chứng minh tính chất xã hội chỉ có ở con người. Một trong các lực lượng bản chất ấy là
sức lao động, là tài năng sáng tạo của con người. Hai ông viết "căn cứ vào mức độ được
con người biến thành bản chất người, tức là mức độ tự nhiên được con người khai thác,
cải tạo, thì có thể xét được trình độ văn hóa chung của con người" [3, 287]. Như vậy lực
lượng bản chất người không phải là các lực lượng bẩm sinh xuất hiện một cách tự nhiên,
mà chúng được hình thành, biến đổi do tác động của quan hệ xã hội, do trình độ phát
triển của văn hóa, do hoạt động cải tạo thế giới của con người. Chính các hoạt động này
là phương thức tồn tại và tái sản xuất ra đời sống xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen thì lao động như một "hoạt động
sáng tạo". Nếu ở phương diện kinh tế lao động với chức năng sản xuất ra của cải vật chất,
thì ở phương diện văn hóa, lao động là sự sáng tạo. Hay nói cách khác, sản xuất của cải
vật chất là phương diện kinh tế của lao động còn sáng tạo khoa học kỹ thuật, phát triển
sản xuất là phương diện văn hóa của lao động. Như vậy, lao động đồng nghĩa với hoạt
động sáng tạo, nó là hoạt động thuộc về bản chất người, là biểu hiện của tư chất tinh thần
và thể chất người. Lao động sáng tạo chính là khởi điểm của văn hóa.
Nhà khoa học người Pháp Tây-ha Đơ Sác-đanh (Teihard de Chardin) cho rằng:
"Sự phát triển của vũ trụ bắt đầu từ khi xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển
(Biosphère). Tiếp đó là sự xuất hiện của tri quyển (Noosphère) chỉ có ở loài người. Tri
quyển đó là quyển về ý thức, tinh thần, về tư duy do loài người tạo ra. Tri quyển chính là
văn hóa, biểu hiện thành "thiên nhiên thứ hai" hoặc còn gọi là "thế giới nhân tạo" của con
người" [15, tr. 9].
Giải thích thuật ngữ văn hóa, các nhà nhân học phương Tây thường phân biệt ra
hai trường hợp: văn hóa viết hoa, số ít (Culture) và văn hóa không viết hoa, số nhiều
(cultures) [2, tr. 13].
Văn hóa viết hoa, số ít (Culture) là thuật ngữ dùng để chỉ thuộc tính chỉ có ở loài
người. Đó là khả năng học hỏi, thích ứng, sáng tạo ra những quan niệm, hành vi ứng xử
và hệ thống các biểu tượng, nhờ đó loài người có thể vận thông với nhau để tồn tại và
phát triển.
Văn hóa không viết hoa, số nhiều (cultures) là thuật ngữ dùng để chỉ các nền văn
hóa. Đó là những truyền thống, thể hiện thành những lối sống khác nhau của cộng đồng,
bao gồm các hệ thống ý niệm, hệ thống ứng xử liên quan đến giá trị, hệ thống biểu hiện
và hệ thống kỹ thuật, mà các cộng đồng ấy trong quá trình hoạt động thực tiễn đã sáng
tạo ra và học hỏi được. Hệ thống ý niệm (hệ tư tưởng) được xem là yếu tố cốt lõi của văn
hóa, đóng vai trò chi phối đối với các hệ thống khác.
Phù hợp với cách khu biệt trên đây, các nhà xã hội học cũng chia văn hóa ra: văn
hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng [8]. Văn hóa cá nhân là toàn bộ tri thức (vốn kinh
nghiệm), quan niệm được tích lũy vào mỗi cá nhân, quy định ứng xử của nó trong quá
trình hoạt động thực tiễn - lịch sử - xã hội. Văn hóa cộng đồng không phải là con số cộng
đơn giản của những văn hóa cá nhân sống trong cộng đồng xã hội ấy, mà là văn hóa của
một nhóm xã hội. Đó là toàn bộ những quan niệm và hành xử được cộng đồng chia sẻ và
chấp nhận, đã trở thành truyền thống của cộng đồng xã hội. Chính hệ thống những quan
niệm và hành xử này làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng xã hội ấy.
Trong đề tài này khi nói: "Tác động của văn hóa " - tức là nói đến tác động của
"văn hóa cộng đồng", đối với "nhân cách trẻ VTN" - Tức là nói đến sự phát triển "văn
hóa cá nhân" ở mỗi trẻ VTN. Như vậy, đề tài sử dụng cả hai nghĩa của từ văn hóa.
Để tiếp cận đối tượng nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích văn hóa dưới góc nhìn xã hội
học và với phương pháp liên ngành: tâm lý, văn hóa, xã hội học.
Phù hợp với cách tiếp cận trên đây, đề tài vận dụng định nghĩa văn hóa (cộng
đồng) của nhà xã hội học Ba Lan Giăng Sê-pan-xki. Ông viết: "Văn hóa là toàn bộ sản
phẩm vật chất tinh thần của hoạt động người, những hệ thống giá trị và khuôn mẫu ứng
xử được cộng đồng xã hội thừa nhận và truyền lại cho các cộng đồng người khác và cho
những thế hệ tương lai thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa của nó" [8].
Định nghĩa trên đây là xuất phát từ quan điểm mác-xít xem văn hóa là hoạt động
sáng tạo tích cực của con người, sống trong một cộng đồng xã hội nhất định. Hoạt động
sáng tạo ấy đã tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm đáp ứng các nhu cầu tồn
tại và phát triển, nó còn tạo ra những hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội đóng vai trò
nền tảng tinh thần, điều tiết và thúc đẩy xã hội đi lên theo hướng nhân bản. Toàn bộ
những thành quả sáng tạo ấy được tích lũy lại, thông qua các thiết chế xã hội - văn hóa
như: gia đình và trường học, truyền đạt cho các thế hệ tương lai và cho các cộng đồng
khác nữa. Như vậy, văn hóa chẳng những là chất keo liên kết làm cho xã hội bền vững
và phát triển, nó còn là cầu nối giữa các thế hệ và giữa các cộng đồng người, tạo nên sự
đa dạng và sự liên tục của đời sống xã hội.
Định nghĩa trên đây nhấn mạnh vào bốn yếu tố: những sản phẩm vật chất và tinh
thần, các hệ thống giá trị, các hệ thống khuôn mẫu ứng xử, các thiết chế xã hội - văn hóa.
Đó là những yếu tố cùng với những con người làm nên môi trường văn hóa, tác động đến
nhân cách tuổi vị thành niên.
Tổng giám đốc UNESCO F. May-ơ cũng nêu quan niệm về văn hóa: "Văn hóa là
tổng thể sống động của các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các
thế kỷ; hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và
thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" (Thập kỷ thế giới phát
triển văn hóa, Hà Nội, 1992, trang 23).
Qua những định nghĩa và quan niệm nêu trên cho ta thấy rõ hai vấn đề: Một, lao
động sáng tạo là cội nguồn khởi điểm của văn hóa. Mọi hoạt động sáng tạo chỉ trở thành
văn hóa đích thực khi nó hướng về các giá trị nhân bản, tiến bộ nhằm hoàn thiện con
người. Hai, văn hóa được con người tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội và
đúc kết thành hệ giá trị - chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa (bao
gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Hệ giá trị xã hội là một thành tố làm nên bản
sắc và truyền thống văn hóa của một cộng đồng xã hội. Hệ giá trị xã hội có khả năng chi
phối đời sống tâm lý và hệ ứng xử văn hóa của con người sống trong cộng đồng xã hội ấy
và nó được trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Như vậy, văn hóa có những đặc trưng cơ bản riêng được biểu hiện ở: 1- tính hệ
thống, với tư cách là một phức hợp bao gồm cả tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
phong tục, thói quen, luật pháp mà con người vừa là chủ thể sáng tạo vừa là khách thể
tiếp nhận văn hóa. 2- Văn hóa dưới góc độ giá trị nó là cái đẹp, chỉ chứa cái đẹp và các
giá trị văn hóa là thước đo mức độ nhân bản của con người. 3- Văn hóa đối lập với tự
nhiên. Văn hóa là tự nhiên có sự tác động của con người, do đó, nó mang tính nhân sinh.
4- Văn hóa được hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ tạo nên
bề dày văn hóa trong lịch sử. Do tính lịch sử, văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn
hóa. Truyền thống văn hóa là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian,
thời gian cho con người trong cộng đồng và xã hội. Truyền thống văn hóa được tồn tại
nhờ giáo dục, đồng thời giáo dục là chức năng cơ bản của văn hóa.
Xây dựng nội dung giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi VTN trong học đường chủ
yếu sẽ đi sâu phân tích lý giải phần đạo lý sống (lối sống) và khuôn mẫu ứng xử trong nếp
sống. Giá trị truyền thống văn hóa ở đây sẽ được xem xét cả góc độ động và tĩnh. Góc
động, xem xét truyền thống có sự tiếp nhận giá trị mới cho phù hợp với thời đại. Góc
tĩnh, truyền thống là những giá trị tích cực trường tồn trong phong tục tập quán, nếp sống
của dân tộc.
Giáo dục giá trị truyền thống văn hóa ở tuổi VTN trong nhà trường phổ thông là
giáo dục đạo lý sống, nếp ứng xử trong môi trường học đường. Ví dụ, dạy đạo lý trong
quan hệ Thày - Trò; quan hệ Trò - Trò; dạy những nghi lễ, nghi thức trong nhà trường,
trong gia đình và trong cộng đồng xã hội, mục đích tạo ra môi trường văn hóa trong đó
gồm cả cảnh quan văn hóa, lối sống văn hóa và những nhân cách văn hóa. Dậy đạo lý
trong học đường là dạy cá nhân ứng xử văn hóa trong các vai trò xã hội của mình, đó
cũng chính là quá trình VTN nhập thân văn hóa. Trong nhà trường, dạy học là dạy kiến
thức, tri thức, đạo đức cho học sinh bằng ngôn ngữ. Còn dạy văn hóa là dạy đạo lý (vừa
bằng ngôn ngữ, vừa bằng các hoạt động văn hóa) để tạo ra những nhân cách văn hóa, tạo ra
những tấm gương, tạo ra những ông tổ văn hóa trong giáo dục trở thành truyền thống của
ngành. Dạy học là cái hữu thức, còn dạy văn hóa là cái ngầm ẩn, đi từ cái vô thức đến
hữu thức.
Nhập thân văn hóa là một thuật ngữ được ra đời từ môn nhân học văn hóa mà
một trong các tác giả là M.JHerskovits (1948). Nhân học văn hóa là môn khoa học liên
ngành nghiên cứu văn hóa con người. Quan niệm văn hóa như một công cụ vận thông
đặc biệt giúp cho con người dễ dàng thích nghi với điều kiện sống đã khiến trường phái
nhân học đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề nhập thân văn hóa.
Nhập thân văn hóa, theo Từ điển dân tộc học tiếng Pháp, Michel Panoff và
Michel Perrin giải nghĩa: "Đó là quá trình hữu thức hoặc vô thức, nhờ đó một cá thể trong
suốt đời người đã hấp thụ các truyền thống - tức các mô hình ứng xử của nhóm, và hành xử
về mặt chức năng đối với các truyền thống ấy. Nhờ có thuật ngữ này, người ta đã xác lập
được mối liên hệ giữa sự kiện xã hội, được xem xét như bản thân sự vật, với hành vi của
cá nhân, thông qua đó mà văn hóa biểu lộ ra. Thuật ngữ này thường coi như đồng nghĩa
với thuật ngữ "xã hội hóa" hoặc "nhập tâm văn hóa" (Internalisation de la culture), tuy
nhiên một số tác giả đã có dụng ý xác định nghĩa riêng cho mỗi thuật ngữ. Một số nhà
nghiên cứu khác lại thâu gộp trong thuật ngữ "nhập thân văn hóa" cả quá trình trao truyền
văn hóa, cùng với các biểu tượng "đổi mới" (phát sinh) văn hóa (PGS. Từ Chi dịch). Còn
trong từ điển hiện đại về văn hóa (tiếng Nga), Min-Xcơ-1999 giải nghĩa "nhập thân văn
hóa là quá trình, trong đó chủ thể cần phải học tập để nắm vững, hiểu thấu các mối liên
hệ trong nhóm, nắm được những nét, sắc thái và những chi tiết văn hóa cần và đủ của xã
hội hay của dân tộc mình, làu thông những hệ chuẩn tâm thức, những chuẩn mẫu văn
hóa, những khuôn mẫu đa dạng mang tính cấu trúc của văn hóa Bằng khái niệm "nhập
thân văn hóa", có thể diễn đạt trình bày sự lĩnh hội của trẻ em đối với các chuẩn mực văn
hóa, khuôn mẫu văn hóa, giá trị văn hóa trong quá trình hoạt động, chủ động tiếp cận với
xã hội và với những cá thể khác".
Như vậy, văn hóa bên cạnh sự vận hành tự thân trong thời gian, nó còn thâm
nhập vào mọi hành vi ứng xử của con người những giá trị mà mỗi thế hệ đi qua để lại.
Nhập thân văn hóa do đó, vừa là một cách thức để con người thích ứng với điều kiện
sống, vừa là cách thức để văn hóa tồn tại và phát triển.
Theo các nhà nhân học, quá trình nhập thân văn hóa kéo dài suốt cả đời người,
chỉ đến chết mới thôi (M.J. Herskovits), song giai đoạn ấu thơ kéo đến đầu tuổi VTN là
giai đoạn quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hóa của một cá thể. Đặc biệt ở, giai
đoạn đầu bước vào tuổi VTN, những xuất hiện thay đổi đột biến (tâm, sinh lý) từ bên
trong khiến các em có những hành vi bất thường thậm chí đi ngược lại truyền thống. Tuy
nhiên, để đảm bảo quá trình nhập thân văn hóa của cá nhân diễn ra hài hòa toàn vẹn ở lứa
tuổi này chúng ta cần có những giải pháp văn hóa để trở thành nhân tố tự điều chỉnh từ
bên trong mỗi cá nhân.
Mặt khác, những nhân tố bảo đảm quá trình nhập thân văn hóa phụ thuộc vào hai
yếu tố: áp lực xã hội và áp lực tín niệm.
áp lực xã hội có thể từ gia đình, nhóm xã hội áp lực xã hội tỷ lệ nghịch với quy
mô xã hội. Nếu áp lực xã hội lớn, quy mô xã hội nhỏ (đó là gia đình). áp lực xã hội giảm,
quy mô xã hội lớn (cộng đồng xã hội). ý nghĩa vấn đề ở chỗ giáo dục gia đình (quy mô
nhỏ) áp lực tác động tới hành vi ứng xử cá nhân sẽ lớn hơn, chặt chẽ hơn, vào khuôn khổ
hơn. Giáo dục cộng đồng - xã hội (quy mô lớn) áp lực xã hội giảm do tính chất không ép
buộc khuyến khích sự tự nguyện và hướng cá nhân tới hành vi lựa chọn.
áp lực tín niệm là sự hướng tới ý niệm cao cả như một nhu cầu, có thể từ tôn
giáo, từ hệ giá trị Chân - Thiện - Mĩ hay từ quan niệm về đạo đức. Con người - ngoài
quan hệ tác động và phụ thuộc vào nhau còn có quan hệ và sống với những giá trị thiêng
liêng, những tín niệm mà họ tôn thờ. Trong hành vi văn hóa của mình họ luôn đối diện
với những giá trị đó.
Tìm hiểu hệ thống những áp lực này sẽ cho ta hiểu được giá trị đặc thù của từng
loại hành vi. Cơ bản hơn, nó là sự hướng đạo thầm lặng cho cá nhân trong quá trình tiếp
nhận và nhập thân văn hóa truyền thống.
1.1.2. Khái niệm nhân cách và nhân cách văn hóa
Thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách - Trong Đại bách khoa toàn
thư Liên Xô đã nêu lên định nghĩa: "Nhân cách là một hệ thống bền vững các đặc điểm
có ý nghĩa xã hội đặc trưng cho các cá nhân với tư cách là một thành viên của một xã hội
hay một cộng đồng nào đó".
Trong cuốn Tâm lý học - H, Nxb Giáo dục 1988 định nghĩa "Nhân cách là toàn
bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi xã
hội của họ".
Đứng ở góc độ "nhân học tâm lý" J.Honig man định nghĩa "Nhân cách là văn
hóa được phản ánh vào hành vi cá nhân".
Xuất phát từ sự lý giải Văn hóa và Nhân cách J.Honig man cho rằng "vấn đề cá
nhân nắm được những khuôn mẫu văn hóa của hành vi là quá trình mô hình hóa, hình
thành các khuôn mẫu hành vi trong tiến trình gia nhập văn hóa, phù hợp với định hướng
giá trị của mỗi nền văn hóa".
Nhân cách, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm: đức và tài, lấy
đức làm gốc.
Như vậy khi nói đến khái niệm nhân cách (phiên dịch từ các thuật ngữ:
personality (Anh), personnalité (Pháp)), trước hết có sự phân biệt khác nhau về nội dung
giữa các thuật ngữ có liên quan, mà các nhà tâm lý học hay dùng, như: cá nhân, chủ thể,
cá tính, nhân cách, tính cách, v.v
"Cá nhân" (hay cá thể người) - bất kỳ người nào, từ đứa trẻ mới sinh cho tới
người trưởng thành, dù khỏe mạnh hay tật bệnh, dù có các phẩm chất và đặc điểm thế
nào, thì đều được coi là một "cá nhân" (cá thể người).
Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định, có mục đích, có ý nghĩa nhằm
nhận thức hay cải biến hiện thực khách quan - thì nó được coi là "chủ thể".
Mỗi cá nhân có những đặc điểm thể tạng và tâm lý độc đáo, không lặp lại ở
người khác - đó là "cá tính". Cá tính của mỗi người thường được hình thành trên cơ sở
các tố chất di chuyền chịu ảnh hưởng của điều kiện giáo dục nào đó, do hoàn cảnh sống
và hoạt động cá nhân.
Còn khi xem xét con người với tư cách là thành viên của một xã hội nhất định, là
chủ thể của các quan hệ xã hội, của các hoạt động có ý thức - đó là nói tới: "nhân cách"
của người đó.
VD: Nhân cách người cha, nhân cách người lãnh đạo, nhân cách người thầy,
nhân cách quân nhân, nhân cách người học sinh, sinh viên v.v (một đứa trẻ mới sinh chỉ
là một cá nhân, cá thể người - khi đạt tới một độ tuổi nào đó và có được một trình độ xã
hội hóa nhất định, nó mới trở thành nhân cách. Quá trình hình thành nhân cách thường
bắt đầu từ lúc 2 - 3 tuổi - kéo dài tới khoảng 17 - 18 tuổi).
ở đây nhân cách được xem là một cá nhân (cá thể con người) chủ động và có ý
thức tham gia vào các quan hệ xã hội và tác động tích cực tới các quan hệ đó. Đồng thời
nhân cách được thể hiện (một biểu tượng cá nhân con người) trong hoạt động sống của
nhiều người khác.
Giữa con người - nhân cách cho thấy: "con người" (homme) và "nhân cách"
(personnalite) đều có chung bản chất là sinh vật - xã hội. Nhưng nó có sự phân biệt rạch
ròi:
- "Con người" là một khái niệm sinh vật - xã hội, còn "nhân cách" có ý nói về
phương diện xã hội của con người.
- "Con người" là người mang vác vật chất của nhân cách, còn "nhân cách" chỉ
diễn tả mặt phẩm chất của con người.
Trên đây đã giới thiệu những định nghĩa phổ biến về nhân cách và trình bày phân
tích khái niệm nhân cách. Cần tìm hiểu thêm về cấu trúc tâm lý của nhân cách, có ý nghĩa
là, nghiên cứu xem nhân cách gồm những yếu tố nào cấu thành. Về điều này, cũng có
nhiều cách phân tích khác nhau.
- Có quan niệm cho rằng, cấu trúc của nhân cách chủ yếu gồm ba lĩnh vực hợp
thành; cảm xúc (rung cảm); ý chí, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen.
- Lại cũng có quan niệm cho rằng, cấu trúc nhân cách là gồm ba yếu tố chủ đạo
hợp thành: Trí tuệ (nhận thức); tình cảm (xúc cảm, rung cảm); thể chất.
- Trong quan niệm thông thường ở nước ta, "nhân cách" con người gồm có: "đức
và tài" hoặc phải "vừa Hồng vừa Chuyên", và thêm nữa là phải có "sức khỏe".
- Theo sách giáo khoa của Liên Xô và các tài liệu phổ biến hiện nay ở nước ta,
thì cấu trúc nhân cách chủ yếu gồm có 4 thuộc tính tâm lý cá nhân điển hình là: xu
hướng; năng lực; tính cách (thái độ); tính khí. Cụ thể:
+ Xu hướng của cá nhân
Đây là một đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của cá nhân. Nó xác định mục tiêu ý
muốn, động cơ, lợi ích, mà con người ấy đặt ra và cần tuân theo; nó biểu lộ những thái
độ nhất định với thế giới xung quanh; v.v Nhìn chung, xu hướng của con người thường
được xuất hiện trên các phương diện cụ thể như: nhu cầu, hứng thú, sở thích, lý tưởng,
thế giới quan, v.v
+ Tính khí của con người
Đây là những thuộc tính tâm lý thể hiện trong sắc thái hành vi, cử chỉ của con
người. Tính khí thường là sự biểu thị ra bề ngoài của hành vi. Trong đời sống con người,
thường phân loại ra mấy kiểu tính khí chủ yếu, như: tính nóng nảy, tính lạnh (bình thản),
tính hoạt (linh hoạt), tính ưu tư;
+ Tính cách của con người
Tính cách là tổng thể những đặc tính tâm lý vững bền, thuộc bản chất của con
người với tư cách một thành viên của xã hội, thể hiện thái độ đối với thực tế và in dấu
vào tư cách, hành động của người đó. (Tính cách được gọi là một phẩm chất rất quan
trọng, một phẩm chất chủ đạo, bản chất của "nhân cách". Đã có nhà khoa học đem đồng
nhất "nhân cách" với "tính cách" rằng: nhân cách, ấy là tính cách cá nhân).
Tóm lại, có thể hiểu: "Nhân cách là một con người khi đã phát triển ổn định bền
vững toàn diện các tố chất người theo những chuẩn mực xã hội của một cộng đồng (dân
tộc - quốc gia) để trở thành là con người mẫu mực của xã hội.
Nhân cách văn hóa được quan niệm như một quá trình diễn ra từ việc hình thành
nhân cách đến việc hoàn thiện nhân cách ngày một toàn diện và cao hơn. Đó là một quá
trình nhằm phát triển hết các tố chất của cá nhân về mọi mặt để mỗi cá nhân có đủ điều
kiện đảm nhận những hoạt động lao động, học tập, hoạt động xã hội đang đòi hỏi. Với ý
nghĩa này, có thể quan niệm, "nhân cách văn hóa" cũng có nghĩa là "phát triển toàn diện
con người".
Tuy nhiên, nhân cách văn hóa được quyết định bởi những điều kiện chủ quan tích
cực, thông qua nhiều con đường và biện pháp hữu hiệu. Điều kiện đầu tiên và cũng quan
trọng nhất là bằng con đường giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng và đầy đủ của nó, bao gồm
cả những biện pháp trong hệ thống giáo dục nhà trường, giáo dục ngoài nhà trường (giáo
dục văn hóa), giáo dục tập thể, cộng đồng, giáo dục gia đình, theo hướng giáo dục tích
cực, toàn diện. Thứ nữa, sự phát triển nhân cách còn đòi hỏi thực hiện bằng con đường là
con người phải tích cực chủ động tham gia vào đời sống lao động để rèn luyện, thử thách,
nâng mình lên. Và một điều kiện khác nữa không kém phần quan trọng, là để hình thành
nhân cách văn hóa, con người phải tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động văn hóa
- xã hội, thông qua các phương tiện sách, báo, thông tin đại chúng, di tích, danh thắng,
v.v những hoạt động nhóm, tập thể, tổ, đội, v.v ở đây, có những câu nói dân gian chứa
đầy ý nghĩa: "đi một ngày đàng học một sàng khôn", "học thầy không tầy học bạn", v.v
Khi nói đến giáo dục phát triển nhân cách toàn diện, ở Trung Quốc có nêu lên
một khái niệm gọi là "Giáo dục tố chất". ở đây, "giáo dục tố chất" cũng mang ý nghĩa là
giáo dục để phát triển con người cả về thể chất và tâm hồn. Có thể nói, giáo dục tố chất
và giáo dục toàn diện, không khác nhau về nội hàm. Theo quan điểm giáo dục học mác-
xít, sự phát triển toàn diện mỗi cá nhân là điều kiện góp phần khai thác toàn diện nguồn
lực người của xã hội và ngược lại. Giáo dục tố chất cũng như quan niệm giáo dục con
người phát triển toàn diện là một quá trình cá thể hóa yêu cầu của xã hội và xã hội hóa
mỗi cá thể để mỗi con người thực sự là một chủ thể của sự phát triển cá nhân.
Nhân cách văn hóa là một khái niệm mới và rất khó, cho nên ở đây chúng tôi
muốn dựa theo quan niệm của GS.TSKH Tâm lý học Phạm Minh Hạc để trình bày rõ hơn
về các khái niệm này [21].
Theo ông, để hiểu nhân cách văn hóa là gì, trước hết cần phân biệt mấy khái
niệm như: con người, cá thể, cá nhân, nhân cách. Đây là những khái niệm mà trong đời
sống thông thường người ta hay dùng lẫn lộn.
Trong khoa học, người ta xem con người là tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên, là
một vũ trụ nhỏ theo quan niệm "nhân thân - tiểu vũ trụ". Con người là kẻ sáng tạo ra lịch
sử, văn hóa, đồng thời là sản phẩm của lịch sử văn hóa, văn minh nhân loại. Khi là đại
diện cho loài, con người được gọi là cá thể (cá thể/loài). Khi là thành viên của một xã hội,
nó được gọi là cá nhân (cá nhân/xã hội). Khi là chủ thể của hoạt động sáng tạo, con người
được gọi là nhân cách (nhân cách/chủ thể của hoạt động).
Khi con người hoạt động, nó phải vận dụng tâm lý của bản thân, (nhận thức, tình
cảm, ghi nhớ và chú ý, tính khí và tâm trạng, lời nói và việc làm ). Chừng nào những
hiện tượng tâm lý ấy có thái độ riêng, và các thái độ riêng này bền vững, ổn định như các
thuộc tính của chủ thể, khi đó các thái độ ấy trở thành diện mạo tâm lý của con người
này. Như vậy, nhân cách là tổ hợp các thái độ - thuộc tính riêng trong quan hệ với hành vi
ứng xử (nói năng, đi đứng, cư xử ), hành động, hoạt động với thiên nhiên với đồ vật,
người khác, cộng đồng, xã hội và bản thân. Đó chính là hệ thống thái độ làm nên diện
mạo tâm lý, tức nhân cách của con người.
Và, khi nào hệ thống thái độ ấy phản ánh và chứa đựng các giá trị văn hóa của
các cộng đồng (mà cá nhân ấy sở thuộc vào), chủ yếu là cộng đồng dân tộc - quốc gia,
khi ấy ta có nhân cách văn hóa.
Từ góc độ văn hóa, nhân cách văn hóa có thể hình dung như là diện mạo tâm lý
người lao động sáng tạo, người đại biểu mang vác hệ giá trị và chuẩn mực xã hội của một
cộng đồng xã hội nhất định (ở đây là cộng đồng dân tộc - quốc gia). Đặc điểm ưu trội của
nhân cách văn hóa có thể biểu hiện ở năng lực sáng tạo của nó. Lao động sáng tạo trong
văn hóa như là hình thức tự khẳng định, tự bộc lộ và phát huy "các lực lượng bản chất
người" (K.Marx) của nhân cách văn hóa.
Vấn đề xây dựng văn hóa suy cho cùng, là vấn đề con người văn hóa, nhân cách
văn hóa. Hồ Chí Minh là Một nhà văn hóa - một nhân cách văn hóa tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam. ở con người Bác, nhân cách văn hóa được thể hiện trước hết là các giá trị văn
hóa mang đậm bản sắc dân tộc, và điều quan trọng, nó luôn tỏa sáng, ảnh hưởng tới trong
cuộc sống mọi con người Việt Nam nói riêng và làm rung động không ít tâm hồn con
người các dân tộc trên thế giới.
Để phát triển toàn diện con người, hình thành nhân cách văn hóa ở con người,
đặc biệt ở lứa tuổi VTN, vai trò của Văn hóa và Giáo dục là cực kỳ to lớn và có ý nghĩa
then chốt trong thời kỳ phát triển CNH, HĐH của đất nước. Đưa các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc - hiện đại vào giáo dục gia đình, nhà trường nhằm phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và văn hóa văn minh nhân loại, hình thành nhân cách văn hóa cho thế hệ
trẻ là đã đưa Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) của Đảng vào cuộc sống.
1.1.3 Khái niệm giáo dục
V.I. Lênin coi giáo dục là phạm trù tất yếu và vĩnh hằng liên quan chặt chẽ với sự
phát triển xã hội loài người. Điều đó có nghĩa là giáo dục xuất hiện khi bắt đầu có xã hội,
đồng thời giáo dục cũng được quy định bởi nhu cầu xã hội. Giáo dục gắn liền với sự phát
triển xã hội, do đó nó mang tính lịch sử - cụ thể và tính kế thừa - phát triển.
Giáo dục, theo nghĩa rộng nhất là sự tác động của xã hội toàn bộ đến con người.
Giáo dục được bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và tự
giáo dục. Giáo dục là quá trình chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống xã hội. Trong
quá trình này thế hệ trẻ phải tiếp nhận những gì mà xã hội tích lũy được (tri thức, kỹ năng
sống, kỹ năng lao động, những chuẩn mực hành vi trong gia đình xã hội và thiên
nhiên ). Thế hệ trẻ phải có những phẩm chất cần thiết để giải quyết những nhiệm vụ mới
của thời đại mình đặt ra.
Như vậy, có thể nói rằng, giáo dục là quá trình các thế hệ đi trước truyền đạt cho
thế hệ mới những kinh nghiệm lịch sử - xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ mới cuộc sống
lao động và kỹ năng sống đảm bảo cho xã hội tiếp tục phát triển.
Nói về vai trò quan trọng của giáo dục, trong tuyên bố của AIA (Năm quốc tế
chống mù chữ) có nêu "Giáo dục là quan trọng, nó là một sinh lực tác động lên mọi mặt
của đời sống. Giáo dục là điều kiện hết sức thiết yếu, thậm chí chính là động lực của tiến
bộ Giáo dục, tóm lại, vừa là thước đo, biện pháp và ý nghĩa của sự phát triển".
ở nước ta, vai trò của giáo dục được tinh thần Đại hội IX của Đảng đề cập nhằm
"phát huy nguồn lực con người" - một yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển "nguồn lực con người" (hoặc nguồn nhân lực, hoặc nguồn tài nguyên
con người (Human Resourees Development - HRD), về cơ bản, cần được hiểu là sự gia
tăng giá trị cho con người về mọi mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất, kỹ năng, tâm hồn để
hình thành nhân cách văn hóa. Đó chính là những năng lực, phẩm chất mới của con
người mà giáo dục phải đảm nhận nhằm đáp ứng những yêu cầu to lớn của đất nước và
thời đại.
Thời đại ngày nay, trên toàn cầu, cũng như ở nước ta, không ai không thấy rõ vai
trò hết sức quan trọng của giáo dục. Theo GS.TS Phạm Minh Hạc trong báo cáo tổng kết
sau ba năm làm việc của ủy ban chuẩn bị giáo dục đi vào thế kỷ XXI của tổ chức giáo
dục, khoa học, văn hóa của liên hiệp quốc (UNESCO) nêu ra 4 mục tiêu (nguyên lý) của
nền giáo dục tương lai của nhân loại là: 1) Học để biết; 2) Học để làm; 3) Học để chung
sống; 4) Học để làm người, để tự khẳng định mình [21, tr. 52].
Dưới góc độ văn hóa, giáo dục chính là nơi gìn giữ, truyền thụ và phát huy hệ
thống giá trị truyền thống dân tộc và nhân loại. Giáo dục đào tạo ra các thế hệ tiếp nối và
sáng tạo các giá trị. Hơn nữa, giáo dục ngày nay đang phát triển theo xu hướng Học đi
đôi với Hành. Trên cơ sở tri thức tiếp nhận được (ở trường lớp, tự học) con người phải
hình thành được các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, để có một khả năng thực hành trong
cuộc sống, sáng tạo ra các giá trị trong cuộc sống. Hay nói khác đi, chức năng của nhà
trường ngày nay không thể chỉ dừng lại ở việc chuyển giao tri thức cho thế hệ trẻ mà mục
tiêu đặt ra là con người biết làm cho tri thức mang lại hiệu quả xã hội. Vì vậy, nếu trước
đây kết luận của khoa học giáo dục về bản tính người là sản phẩm của quá trình hoạt
động liên tục nhằm có được tri thức, kỹ năng và thái độ thì lý luận giáo dục ngày nay xếp
giáo dục thái độ lên hàng đầu, rồi mới đến tri thức và kỹ năng. Có nghĩa là con người
ngày nay cần có những năng lực, trí lực lựa chọn những giá trị đồng thời cũng sáng tạo ra
những giá trị mới thông qua những phương thức giáo dục mang tính lý luận thay vì
những phương thức giáo dục truyền thống mang tính trao truyền bằng kinh nghiệm. Bởi
xã hội khoa học công nghệ và thông tin phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy như ngày nay
thì việc giáo dục bằng trao truyền kinh nghiệm là khó đáp ứng yêu cầu thời đại. Như vậy,
lý luận giáo dục ngày nay đưa nhân cách văn hóa lên nhiệm vụ hàng đầu, biến học vấn
thành văn hóa. ở cấp ấu thơ và cấp "cơ sở" giai đoạn khởi đầu hình thành nhân cách con
người lấy phương thức giáo dục "Tiên học lễ - Hậu học văn". ở cấp phổ thông trung học,
giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách lấy phương thức giáo dục liên thông kết hợp
giáo dục học vấn với giáo dục hướng nghiệp, định nghiệp, lập nghiệp. Đó là "phương
thức giáo dục trực tiếp phục vụ phát triển bền vững, phát triển nguồn lực người, qua đó
trực tiếp phục vụ phát triển xã hội - kinh tế. Hoạt động học tập gắn liền với hoạt động lao
động, sáng tạo ra mọi giá trị cuộc sống" [21, tr. 52].
1.1.4. Khái niệm giá trị
Trước khi đi vào khái niệm giá trị, chúng tôi xin lưu ý tới các định nghĩa văn hóa
đã được nêu ở trên đều nhắc đến một khái niệm cốt lõi là giá trị, hệ giá trị. Điều đó
chứng tỏ rằng, nói văn hóa là đề cập đến giá trị, chí ít cũng từ góc nhìn xã hội học mà đề
tài tiếp cận. Hệ giá trị chính là nội dung, là yếu tố thực thể của văn hóa. Nhưng giá trị là gì?
nội hàm của giá trị là thế nào?
Cho đến nay, đã có không ít những định nghĩa, những quan niệm khác nhau về
giá trị được xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác nhau: toán học, kinh tế học, ngôn
ngữ học ở góc độ văn hóa học, đối tượng nghiên cứu là nội dung giáo dục giá trị truyền
thống văn hóa thì giá trị phải là những giá trị xã hội. Giá trị xã hội là những cái có ý
nghĩa tích cực, tiến bộ, hữu ích được đa số người trong xã hội mong ước và cùng chia sẻ.
Hay nói khác là, giá trị mà cộng đồng xã hội chấp nhận là dựa trên sự đánh giá của đa số
các thành viên trong cộng đồng ấy về những cái mà họ khát khao như cái đẹp, cái tốt, cái
đúng, cái có ích, ngược lại, những cái họ không mong muốn như cái xấu, cái tồi tệ, cái có
hại bị coi là những phản giá trị. Như vậy giá trị ở đây là sự biểu thị của tình cảm cộng
đồng, sự đánh giá của cộng đồng, chứ không phải dựa vào sự đánh giá của cá nhân. Vì
vậy, về nguyên tắc, giá trị là cái mang tính xã hội.
Một yếu tố nữa của giá trị được thừa nhận khá phổ biến coi giá trị như những
quan niệm về cái đang mong muốn có ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Vì vậy, để tìm
hiểu giá trị người ta thường gắn nó với nhu cầu. Chính nhu cầu tạo nên động cơ hành
động và hành động được biểu thị như là sự lựa chọn giá trị ở mỗi con người. Đến đây có
thể hiểu nội hàm của khái niệm giá trị "Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị,
dù nó là vật thể hay phi vật thể, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó
như một nhu cầu trong đời sống của cộng đồng, của đời sống con người".
Giá trị có tính lịch sử khách quan. Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố, nhận
thức, tình cảm, sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể. Giá trị phản ánh khách quan lợi ích
xã hội của mỗi nhóm, cộng đồng hay giai cấp, vì thế nó gắn liền với ý thức xã hội. Trong
mỗi chế độ, mỗi giai đoạn lịch sử xã hội có một hệ thống và thang giá trị khác nhau, nó
được tạo bởi hoàn cảnh xã hội và những đặc điểm riêng của xã hội đó
Giá trị xã hội có mối quan hệ mật thiết với chuẩn mực xã hội. Nếu giá trị là cái
ngầm ẩn (các nhu cầu) thì chuẩn mực là cái hiện thực hóa giá trị trong hiện thực. Chuẩn
mực xã hội (CMXH) là những yêu cầu mang tính tiêu chuẩn của xã hội đối với hành
động của cá nhân, đòi hỏi mỗi cá nhân trong xã hội phải tuân theo. CMXH được thể hiện
thành những quy tắc, tiêu chuẩn, phương hướng khuôn mẫu ứng xử của con người.
CMXH là sự kết tinh cao của các khuôn mẫu mà con người phải theo.
Hệ thống chuẩn mực xã hội là hệ quy chiếu để cho xã hội hoạt động và duy trì
trạng thái ổn định của nó. Bởi thế CMXH thể hiện rõ tính quy định của khuôn mẫu của
tính thể chế và pháp lý. Nó điều tiết hành động con người, xác lập những nguyên tắc
hành động của con người trong từng lĩnh vực hoạt động khác nhau: chuẩn mực đạo đức,
chuẩn mực giáo dục, chuẩn mực pháp chế
Trong thang giá trị của CMXH lại chia cấp độ có cái chính, có cái phụ và cái
phái sinh. Giá trị chính là giá trị chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động xã hội, đồng thời là
giá trị định hướng, lý tưởng chung của toàn xã hội.
Định hướng giá trị là một trong những biến đổi rõ của đặc trưng xu hướng nhân
cách và có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động của con người. Định hướng giá trị mang đậm
tính lịch sử - xã hội của cả cộng đồng, nét riêng của mỗi dân tộc và những nét đặc thù của
các nhóm xã hội, các nhóm tuổi, giới, nghề nghiệp, tôn giáo, địa phương khác nhau.
Bất cứ một xã hội nào, một thời kỳ lịch sử nào cũng có những chuẩn giá trị xã
hội và định hướng xã hội nhằm duy trì sự ổn định xã hội và cũng để quản lý xã hội.
1.1.5. Khái niệm truyền thống văn hóa và giá trị truyền thống văn hóa
- Khái niệm truyền thống
Truyền thống vốn là một từ Hán - Việt. Trong cuốn Từ điển Hán - Việt của Đào
Duy Anh "Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia". Trong từ điển tiếng Việt phổ
thông truyền thống được định nghĩa là "thói quen hình thành từ lâu đời trong lối sống và
nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác".
Theo quan niệm của các nước phương Tây, Truyền thống (tradition) có nghĩa là
"giao", "chuyển giao". Bách khoa thư Pháp định nghĩa "Truyền thống là tất cả những gì
người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế hệ này đến thế hệ khác, thường là
truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi theo những tập quán, những cách ứng xử, những
mẫu hình và tấm gương".
Như vậy, có thể hiểu "truyền thống" như là một hệ thống các tính cách, các thế
ứng xử của một cộng đồng, được hình thành trong lịch sử, trong môi trường sinh thái và
nhân văn nhất định, trở nên ổn định, trường tồn nhưng không vĩnh cửu, có thể được định
chế hóa bằng luật hay bằng lệ (phong tục tập quán) và được trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Có thể gọi là sự di truyền văn hóa bên cạnh sự di truyền sinh vật về thể
xác - để đảm bảo tính thống nhất của một cộng đồng trong lịch sử. Mọi sự phát triển đều
xuất phát từ truyền thống, con người từ khi sinh ra trong một gia đình, một xã hội đã bị
chi phối bởi truyền thống và các hiện tượng văn hóa cũng vậy. Tuy nhiên mọi vấn đề đều
có tính hai mặt, truyền thống cũng vậy Truyền thống nào cũng có truyền thống phù hợp
và truyền thống không phù hợp. Truyền thống có thể thúc đẩy sự phát triển nhưng mặt
khác nó cũng có thể cản trở sự phát triển. Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền
thống được chuyên chở, lưu giữ trong ký ức và từ đó điều khiển hành động của cá nhân.
Nhiều khi nó trở thành vô thức, con người cứ hành động theo các quy định. Truyền thống
có thể thay đổi, nhưng trong sự ổn định.
- Khái niệm giá trị truyền thống văn hóa
Giá trị truyền thống là sự tuyển chọn những truyền thống tốt đẹp mang ý nghĩa
tích cực và tiêu biểu cho bản sắc văn hóa dân tộc. Trong các giá trị truyền thống có cái
biến đổi nhanh, có cái bị đứt gẫy, và cũng có cái bền vững trường tồn.
VD: Trong hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam, tinh thần yêu nước là một giá trị
truyền thống bền vững và trường tồn, tuy nhiên nội dung của nó cũng có quá trình hình
thành, phát triển và biến đổi, nâng cao qua các quá trình lịch sử.
Việt Nam là một nước giàu truyền thống văn hóa với 54 tộc người cùng chung
sống. Tính đa dạng về văn hóa tộc người thể hiện trên bình diện văn hóa các nhóm ngôn
ngữ - tộc người, và văn hóa các nhóm địa phương của mỗi tộc người. Như Việt - Mường,
Tày - Thái, Môn - Khơme, Nam Đảo, Mông - Dao, Tạng - Miến, Hoa Mỗi tộc người lại
gồm nhiều nhóm địa phương với sắc thái văn hóa phong phú. Cái sắc thái văn hóa tộc
người ấy đan kết, thâm nhập, tiếp biến giữa nhân tố bản địa và ngoại lai, tạo nên bức
tranh đa sắc của văn hóa Việt Nam.
Truyền thống văn hóa và nội dung của truyền thống văn hóa rất đa dạng và
phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề đưa giáo dục giá trị văn hóa truyền thống ở
tuổi VTN trong nhà trường phổ thông, chỉ tập trung vào những giá trị truyền thống văn
hóa tinh thần tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Việt (kinh), phù hợp với lứa tuổi, cấp học của
các em, đồng thời nhằm phát huy vai trò của truyền thống đối với xây dựng nhân cách
văn hóa vị thành niên trong cuộc sống và yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay.
Trong xã hội hiện thời, khi quan niệm về giá trị truyền thống văn hóa người ta
thường dùng cách phân chia văn hóa ra thành văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại.
Song, theo chúng tôi nghĩ cách phân địch tách bạch truyền thống - hiện đại chỉ có thể có
phần đúng đối với những loại giá trị văn hóa vật chất.
Còn đối với những giá trị văn hóa tinh thần, ví dụ như: tinh thần yêu nước, ý thức
dân tộc, uống nước nhớ nguồn khó có thể phân định tách bạch truyền thống với hiện
đại. Không thể có tình yêu nước truyền thống khác biệt với tình yêu nước hiện đại, hay ý
thức độc lập tự cường dân tộc truyền thống khác ý thức độc lập tự cường dân tộc thời
hiện đại mà những giá trị truyền thống văn hóa đó vẫn tồn tại được phát huy, phát triển
lên một trình độ mới phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển của thời đại. Bởi vì, cái
được gọi là hiện đại hiện thời thực chất là những cái giá trị văn hóa cốt lõi được bảo tồn,
lưu truyền từ trong truyền thống (quá khứ đã qua) được phát triển nâng lên ngang tầm với
trình độ văn hóa thời nay (tạm gọi là hiện đại), trải qua dòng chảy của lịch sử lại được trở
thành giá trị văn hóa truyền thống của quá khứ, để cho những thời sau, sau nữa kế tục,
phát triển nâng lên, cứ thế cứ thế mãi
Từ những lý giải trên, có thể đi đến một quan niệm về giá trị truyền thống văn
hóa Việt Nam trên lĩnh vực văn hóa tinh thần là "biết cách định hướng, lựa chọn, kế
thừa, thu nạp và phát triển các giá trị văn hóa, dù nội sinh hay ngoại sinh, của quá khứ
hay hiện tại, để làm giàu và phát triển vốn di sản văn hóa tinh thần dân tộc và theo kịp
thời đại tiến bộ". Vốn di sản văn hóa ấy là tài sản văn hóa chung thể hiện truyền thống
văn hóa Việt Nam, đồng thời thể hiện sức mạnh của bản lĩnh, bản sắc văn hóa Việt Nam
trong lịch sử văn hóa dân tộc.
Nhờ có vốn di sản văn hóa dân tộc rất phong phú, đa dạng và đặc sắc mà giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam thật to lớn, bởi nó đã hình thành nên một
bảng giá trị tinh thần khả dĩ làm "nền tảng sức mạnh tinh thần" và là động lực cho công
cuộc xây dựng phát triển đất nước hiện thời.
Như vậy, truyền thống văn hóa Việt Nam tự tồn với những giá trị bắt nguồn từ
tinh thần nhân bản khoan dung Việt Nam, đó là dòng sữa nuôi dưỡng tinh thần Việt
Nam, tôi luyện bản lĩnh, xây dựng nhân cách văn hóa con người Việt Nam qua các thế hệ
cho tới hôm nay.
1.1.6. Khái niệm vị thành niên
Trong cuộc đời một con người, có một giai đoạn được gọi là tuổi "Vị thành
niên".
Theo từ điển tiếng Việt thì "Vị thành niên là những người chưa đến tuổi trưởng
thành để chịu trách nhiệm về những hành động của mình". Trong các văn bản pháp luật
hiện hành ở nước ta (như Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động ) có dùng thuật ngữ "người
chưa thành niên" và có quy định cụ thể về độ tuổi và mức độ mà người chưa thành niên
phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Về mặt thuật ngữ, tuy chưa hoàn toàn thống nhất, song có sự thừa nhận chung là:
Vị thành niên là một giai đoạn trong quá trình phát triển của con người với đặc điểm lớn
nhất là quá trình dạy thì - cơ thể tăng trưởng nhanh chóng để đạt tới sự trưởng thành, tâm
lý có sự "bùng nổ sâu sắc. Có thể hiểu đây là giai đoạn "sau trẻ con và trước lớn".
Theo tổ chức y tế thế giới, độ tuổi vị thành niên là từ 10 đến 19 tuổi.
ở Việt Nam, vị thành niên là lứa tuổi từ 11 - 12 tuổi đến 17 - 18 tuổi, chiếm gần
1/4 dân số nước ta (khoảng 22,5%).
Đây là lứa tuổi đang phát triển nhân cách, đặc biệt là quan điểm sống, thế giới
quan chưa rõ ràng, sự phát triển về mặt xã hội cũng chưa được xác định. Hầu hết vị thành
niên còn phải sống phụ thuộc vào cha mẹ, chưa có vị trí kinh tế độc lập, chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của người công dân về mặt pháp luật.
1.2. Nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa cho lứa tuổi vị thành
niên trong nhà trường
1.2.1. Cơ sở xác định nội dung giáo dục giá trị truyền thống văn hóa
a) Nội dung cốt lõi của một nền văn hóa, theo đó là một truyền thống văn hóa của
một dân tộc, như mọi người đã biết, đó là hệ thống giá trị văn hóa của chính dân tộc đó.
Truyền thống văn hóa không phải là bất biến. Nó được hình thành và phát triển trong quá
trình vận động, qua nhiều thử thách và tuyển chọn, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dù xuất
phát từ nguồn nội sinh hay nguồn ngoại sinh, dù do tự nguyện hay có thể là do cưỡng bức
áp đặt, nhưng tất cả đều trải qua một quá trình thử thách, tuyển chọn, đánh giá tích cực
của những con người đương thời, họ muốn chiếm dụng và truyền lưu; để rồi những con
người hiện nay coi đấy là những di sản văn hóa của dân tộc mình, tiếp nối tuyển chọn, tôi
luyện, chiếm dụng và muốn truyền lưu tới thế hệ kế tiếp. Do vậy, việc giáo dục giá trị