Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phát triển tư duy sáng tạo của HS qua việc giải bài tập hóa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.67 KB, 7 trang )

PHÁT TRIỂN TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
THÔNG QUA BÀI TẬP HÓA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Thực hiện công cuộc đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học bậc phổ thông của Bộ
giáo dục & đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đào tạo những con người năng động, sáng tạo
tiếp thu được những tri thức khoa học kĩ thuật hiện đại, biết vận dụng vào thực tế những vấn
đề trong cuộc sống của bản thân, cũng như của xã hội để góp phần thực hiện công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu có tác dụng to lớn trong công cuộc phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước ta chính vì thế việc đổi mới phương pháp dạy học trong
nhà trường phổ thông theo tinh thần nghị quyết IX của Đảng được chỉ rõ “phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh”.
Để đạt được những điều đó cùng với sự thay đổi về nội dung, hình thức tổ chức dạy
học, cần hình thành cho học sinh kỹ năng phân tích, tổng hợp, tạo cho học sinh năng lực tự
học, tự rèn luyện bồi bổ kiến thức cho mình là việc vô cùng quan trọng.
Đối với nhà trường THCS việc tự rèn cho mình khả năng phân tích tổng hợp là rất cần
thiết đối với tất cả các bộ môn trong đó có bộ môn hoá học, bởi hoá học là bộ môn khoa học
có rất nhiều ứng dụng đối với các ngành khoa học khác. Góp phần đẩy mạnh sự thay đổi của
đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đất nước đang đổi mới.
Trong chương trình hoá học phổ thông để nắm bắt đầy đủ các kiến thức của bộ môn thì
bài tập hoá học được đặc biệt quan tâm vì nó là phương tiện hữu hiệu trong giảng dạy bộ môn
hoá học. Bài tập hoá học góp phần nâng cao khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh trong quá
trình lĩnh hội kiến thức mà các em được học.
II: NỘI DUNG
1.Cơ sở lí luận:
Trong quá trình làm công tác giảng dạy hoá học ở trường phổ thông tôi nhận thấy bài
tập hoá học là phương tiện hữu hiệu trong giảng dạy hoá học.
-Bài tập hoá học là nguồn để hình thành, rèn luyện, củng cố, kiểm tra các phương thức,


kĩ năng cho học sinh.
-Bài tập hoá học có tác dụng mở rộng, nâng cao kiến thức cho học sinh.
-Bài tập hoá học giúp việc vận dụng kiến thức vào thực tế.
-Bài tập hoá học giúp giáo viên rèn luyện nhân cách cho học sinh: Tính chủ động sáng
tạo, tính cẩn thận kiên trì ý chí quyết tâm trong học tập.
-Đặc biệt bài tập hoá học còn giúp việc rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh.
2.Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn qua quá trình dạy học tôi nhận thấy:
-Nếu không chú trọng rèn luyện khả năng tư duy cho học sinh thì kiến thức học sinh
tiếp thu rất rộng và hời hợt.
-Độ bền và nhớ kiến thức không lâu.
-Việc tạo hứng thú và niềm tin cho học sinh trong quá trình học sẽ gặp nhiều khó khăn.
3. Thực Trạng :
Qua quá trình dạy học môn hóa học một số năm tôi nhận thấy việc học môn hóa học
của học sinh là rất khó khăn ,các em không biết nên bắt đầu từ đâu để làm được một bài tập
hóa học ,và trong quá trình làm bài nên vận dụng những kiến thức nào, nên trình bày lời giải
như thế nào cho đúng trình tự . . .Chính những khó khăn đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng môn học, dẫn đến các em lơ là trong việc học cũng như chuẩn bị bài
* Nguyên nhân :
- Do cách dạy của giáo viên chưa thực sự khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh.
- Do học sinh bị mất kiến thức căn bản.
- Do các em tiếp thu kiến thức một cách thụ động cho nên dẫn đến kiến thức thì có
nhưng không biết sử dụng sao cho đúng.
- Do các em chưa quan tâm đúng mức đến môn học
- Các em không tự tin khi giải một bài toán nên không giám phát biểu ,không giám đưa
ra ý kiến của bản thân.
- Trình bày lời giải không khoa học ,thiếu căn cứ và ngộ nhận
- Mang tư tưởng học để đối phó ,chưa thấy được lợi ích mà môn hình học mang lại cho
cuộc sống
III. GIẢI PHÁP :

Trên cơ sở thực tiễn và lý luận đã phân tích ở trên chúng tôi thấy việc rèn luyện tư duy
sáng tạo cho học sinh thông qua bài tập hoá học là cần thiết.
Bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh là một quá trình liên tục, phức tạp trải
qua nhiều giai đoạn, nhiều mức độ.
*Một mặt: Trong hoạt động học tập nhận thức cần nâng dần từng bước từ mức độ thấp
đến cao:
-Tích cực động não.
- Độc lập suy nghĩ.
-Tích cực sáng tạo.
* Mặt khác: Cần rèn luyện học sinh nâng dần các dạng hoạt động từ dễ đến khó.
-Vận dụng kiến thức cơ bản.
-Tổng hợp kiến thức.
-Phát hiện xây dựng kiến thức mới.
-Nâng cao kiến thức.
Theo tôi để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh trước hết phải:
1.Hình thành cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản vững vàng sâu sắc.
Đó là hình thành các khái niệm, các định luật, các tính chất, các quy luật về cấu tạo
chất và về phản ứng hoá học.
2. Rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy logic chính xác:
2
Học sinh thông qua các thao tác: Quan sát, Phân tích , tổng hợp và dựa vào bản chất
của vấn đề để tìm ra cách giải quyết ngắn gọn sáng tạo.
Thí dụ:
Cho hỗn hợp X Gồm FeO, Fe
2
O
3
và có khối lượng 30,4 g. Nung hỗn hợp này trong
một bình kín chứa 22,4 lít CO (đktc), khối lượng hỗn hợp khí thu được là 36 g. Xác định
thành phần hỗn hợp khí. Biết rằng X bị khử hoàn toàn tạo thành Fe.

*phương pháp giải:
+Gọi số mol FeO, Fe
2
O
3
tham gia phản ứng lần lượt là a,b
(a,b > 0)
+Viết 2 phương trình phản ứng.
+Tính số mol CO
2
sinh ra
+Lập phương trình bậc nhất 2 ẩn theo khối lượng 2 ô xít.
+ Lập phương trình bậc nhất 2 ẩn theo khối lượng khí tạo thành.
+Giải hệ phương trình tìm ra a = 0,2 mol; b = 0,1 mol
+Tính số mol CO dư ( n
CO(dư)
= 0,5 mol )
+Tính số mol CO
2
tạo thành ( n
CO2
= 0,5 mol )
*Cách khác: Học sinh đọc đề, phân tích đề, nhận xét:
Độ tăng khối lượng của khí = khối lượng ô xi lấy ra từ 2 ô xít.
+n
COban đầu
= 1mol

M
CO

= 28g
+Độ tăng khối lượng khí = 36 - 28 = 8g = m
O
+Số mol 0 n
O
=
16
8
= 0,5 mol
+Cứ 0,5 mol CO kết hợp với 0,5 mol O tạo thành 0,5 mol CO
2
+Thành phần hỗn hợp khí sau khi phản ứng gồm:
0,5 mol CO dư
0,5 mol CO
2
Phân tích: Nếu giáo viên hướng dẫn học sinh biết dùng nguyên lý bảo toàn nguyên tử,
ta có thể đơn giản cách tính mà không phải tính riêng lẻ cho từng phản ứng. Như vậy tư duy
logic, chính xác được phát triển, thể hiện học sinh đã biết dựa vào bản chất hoá học của bài
toán chứ không chỉ chú trọng nhiều tính toán để tìm ra đáp số của bài.
3.Rèn luyện năng lực tư duy khái quát hoá trong giải bài tập hoá học
Năng lực khái quát cao là khả năng phát hiện phát hiện những nét chung bản chất của
nhiều vấn đề, nhiều đối tượng để đưa vấn đề đó về một kiểu nhất định. Trong giải bài tập
hoá học khả năng khái quát thể hiện ở năng lực học sinh biết phân dạng bài tập hoá học, và
biết tìm phương pháp giải chung cho từng dạng bài.
4.Rèn khả năng độc lập suy nghĩ :
Là khả năng biết tự đặt ra vấn đề, giải quyết vấn đề, kiểm tra cách giải quyết vấn đề,
không thoả mãn với những cái có sẵn, luôn luôn tìm ra cách giải quuyết mới ngay cả trong
các bài tập quen thuộc.
Trong giảng dạy bài tập hoá học nếu giáo viên chú ý hướng dẫn các em thao tác so
sánh, khái quát hoá, chú ý đến bản chất phản ứng, thấy rõ mối quan hệ giữa các đại lượng thì

học sinh đã được rèn tốt tư duy sáng tạo.
3
5. Rèn luyện tư duy sáng tạo linh hoạt thông qua việc tìm các cách giải của một
bài tập.
Thí dụ: Cho 10,8 g một kim loại hoá trị III tác dụng với Clo có dư thu được 53,8 g
muối. Xác định kim loại theo phản ứng.
Cách 1: Tính theo phương trình hoá học
Gọi kim loại hoá trị III là A, nguyên tử khối là a ( a>0 )
PTHH : 2A + 3Cl
2
= 2ACl
3

2 mol : 3 mol : 2 mol

a
8,10
mol
35,35
4,53
xa +
mol ACl
3
Ta có:
5,106
4,538,10
+
=
aa
a = 27. Kim loại đó là Al

Cách 2:
Dựa vào định luật bảo toàn khối lượng. Vì kim loại phản ứng hết ta có:
m
Kim loại
+ m
clo tham gia phản ứng
= m
muối
mCl = 53,4 - 10,8 = 42,6 (g)
nCl =
71
6,42
= 0,6 mol
Từ phương trình

n
A
=
3
26,0 x
= 0,4 (mol)


a x 0,4 = 10,8
a = 27 Kim loại đó là Al
Cách 3:
Khối lượng nguyên tố Clo có trong 53,4 g muối
54,3 - 10,8 = 42,6 g
Số mol nguyên tố Clo có trong muối
n

cl
=
5,35
6,42
= 1,2 ( mol )
Số mol muối tạo thành =
3
2,1
= 0,4 ( mol )
Ta có: 0,4 x ( a + 35,5 x 3 ) = 53,4

a = 27 Kim loại đó là Al
Phân tích:
Thực hiện yêu cầu này tuy tốn nhiều thời gian nhưng cùng một lúc nó giúp ta đạt được
nhiều mục đích.
+Phát huy năng lực sáng tạo của học sinh.
+Tổng kết các phương pháp giải bài tập.
+So sánh và đánh giá các phương pháp giải.
6.Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua việc hướng dẫn học sinh ra
đề, tự giải và tự kiểm định kết quả.
4
Việc tự ra một đề bài tập đặt học sinh vào vị trí phải sử lý nhiều tình huống khác nhau,
theo các mức độ khác nhau.
Thí dụ:
Từ sơ đồ mối quan hệ giữa các loại chất vô cơ hoặc hữu cơ, tôi thường yêu cầu học
sinh:
+ Học sinh tự ra đề về một chuỗi biến hoá ( trong đó các chất đã biết CTHH ) sau đó tự
viết phương trình, rồi kiểm nghiệm đúng sai.
+ Tự ra đề về một chuỗi biến hoá ở mức độ cao hơn ( trong chuỗi biến hoá đó chỉ có
một hoặc vài chất đã biết CTHH )

+ ở mức độ cao hơn nữa: Học sinh tự ra đề về chuỗi biến hoá thể hiện bằng các chữ cái
yêu cầu học sinh xác định các chất ứng với các chữ đó trong dãy biến hoá, viết phương trình.
- Kiểm định đúng sai.
Phân tích: Nếu học sinh tự ra đề và tự giải thành công sẽ cuốn hút học sinh vào hoạt
động học, kích thích óc sáng tạo, sự phát triển tư duy của các em.
7. Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh gắn liền với việc rèn luyện phong cách
làm việc khoa học:
Giải bài tập hoá học là một hoạt động trí tuệ, kết quả hoạt đọng này phụ thuộc vào
năng lực tư duy và năng lực tổ chức hoạt động trí tuệ một cachs khoa học.
Giải bài tập hoá học gồm những bước chung:
Bước 1: Giai đoạn định hướng:
- Đọc kỹ đề bài nắm vững các dữ kiện của bài toán hoá học: Những điều đã biết, những
điều cần tìm.
- Tóm tắt đề bài : tóm tắt các dữ kiện đề bài bằng các kí hiệu hóa học
VD : số mol (n), nồng độ mol (M), thể tích (V) …
- Phân tích đề để tìm ra đâu là nội dung hoá học, đâu là nội dung toán học. Sau đó
liên hệ lại các công thức tính, đối chiếu với dữ kiện đề bài xem đã có những kiện gì,
dữ kiện nào còn thiếu.
Bước 2: Giai đoạn hành động:
Vận dụng tổng hợp các kiến thức và kỹ năng để lập và thực hiện chương trình, tìm ra
phương pháp giải.
Bước 3: Giai đoạn kiểm tra:
Kiểm tra và đánh giá việc giải, biện luận và khẳng định đáp án.
IV. KẾT QUẢ:
Phát triển tư duy cho học sinh thông qua bài tập hoá học đã góp phần nâng cao chất
lượng học tập, giúp học sinh yêu thích bộ môn đặc biệt tăng sự linh hoạt, sáng tạo trong toàn
bộ quá trình tư duy.
Hình thành kỹ năng phân tích giải các bài tập hoá học làm cho chất lượng giờ dạy được
nâng cao hơn, làm thoả mãn hứng thú của học sinh trong việc tiếp nhận kiến thức mới nâng
cao khả năng tự tìm tòi nghiên cứu của các em, tạo điều kiện cho các em chủ động chiếm lĩnh

tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo.
Rèn được kỹ năng này cho học sinh, một phần cũng giúp cho giáo viên năng động sáng
tạo, luôn trăn trở tìm ra cái mới đáp ứng được yêu cầu dạy học, nâng cao tay nghề, là một
phương pháp tự học, tự bồi dưỡng rất có hiệu quả.
5
Qua rèn luyện phát triển tư duy cho học sinh thông qua bài tập hoá học tôi thấy rõ chất
lượng được nâng lên cụ thể là:
Kết quả các lần K/S học sinh lớp 9 năm học 2008-2009
Sĩ số
Số lần
K/S
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
70
1 5 7.1 16 22.9 30 42.9 19 27.1
2 7 10 17 24.2 31 44.3 15 21.5
3 8 11.4 20 28.6 34 48.6 8 11.4
Nhìn vào số liệu giỏi, khá, trung bình, yếu của các lớp qua các lần khảo
sát từ đầu đến cuối năm học, khi chưa áp dụng và đã áp dụng phương pháp phát triển tư duy
sáng tạo cho học sinh thông qua bài tập hoá học ta thấy: Số học sinh khá, giỏi tăng, số học
sinh trung bình, yếu giảm đặc biệt nhiều học sinh yếu đã vươn lên trung bình, chứng tỏ
phương pháp đã có hiệu quả rõ rệt.
V. KẾT LUẬN CHUNG:
- Trong quá trình giảng dạy thực tế, tôi thấy rằng giờ học nào học sinh được luyện tập
nhiều thì giờ học đó học sinh sẽ tiếp thu kiến thức một cách vững vàng.
- Trong quá trình giảng dạy bài tập hoá học, nếu chú trọng rèn tốt tư duy cho sinh thì
các em sẽ hiểu, nhớ, vận dụng kiến thức tốt hơn, học sinh sẽ được củng cố hệ thống hoá, mở
rộng nâng cao kiến thức đồng thời các kỹ năng cũng được rèn tốt hơn.
Tóm lại: Rèn tốt tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua bài tập hoá học nói riêng và
thông qua các loại bài tập nói chung đều góp phần rất tích cực vào việc hình thành nhân cách

cho học sinh gồm: Tính chủ động, sáng tạo, niềm tin và ý chí quyết tâm
Đó cũng chính là mục tiêu giáo dục con người trong thời đại mới.
* Những kiến nghị đề xuất.
-Tổ chức nhiều chuyên đề có chất lượng, có giờ dạy minh hoạ hoặc bằng băng đĩa
hình.
- Tổ chức các buổi ngoại khoá để các em học sinh trao đổi về cách học tập của mình, phổ
biến cách học của mình cho các bạn khác tham khảo.
- Riêng sách tham khảo nên lưu hành những sách giải các bài tập tương tự để học
sinh mua và tham khảo, không nên lưu hành sách giải sẵn bài tập hoá học ở các khối lớp vì
học sinh sẽ ỉ lại, không chịu suy nghĩ và khám phá.
- Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị thí nghiệm hoá chất, đồ dùng dạy học cho giáo viên
và học sinh. Yêu cầu đồ dùng, thiết bị, hoá chất có chất lượng.
- Muốn được tham khảo những sáng kiến của đồng nghiệp để áp dụng cho bản thân.
Vĩnh Hậu, ngày 20 tháng 10 năm 2009
Người viết.
6
Lê Thùy Dương
7

×