Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Đánh giá thực trạng nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.34 KB, 55 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An đã có những nỗ lực nhất định
trong việc nghiên cứu, khảo sát thực trạng nghèo đói và thực hiện những chương trình,
mục tiêu cấp quốc gia về xóa đói giảm nghèo và cũng đã được một số kết quả nhất
định. Tuy nhiên những kết quả đó vẫn chưa đạt được một hiệu quả nhất định (về số
lượng, tính bền vững). Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn tương đối cao. Nguy cơ tái
nghèo, ranh giới giữa nghèo và cận nghèo rất mong manh trong điều kiện cụ thể của
xã và tất nhiên việc phát sinh hộ nghèo mới là điều “không khó”.
Hơn nữa, nghiên cứu đói nghèo đang trở thành một vấn đề cấp bách của đất nước và
của tỉnh Long An. Muốn thực hiện được mục tiêu phát triển xã hội bền vững thì bắt
buộc phải giải quyết triệt để vấn đề nghèo đói.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp bách phải có những nghiên cứu đầy đủ về thực trạng và
nguyên nhân nghèo đói ở xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An, nhằm giúp cho các cơ quan
quản lý có cơ sở để ra các biện pháp giảm nghèo trên địa bàn tỉnh hướng tới phát triển
bền vững.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tác giả đã chọn đề tài “Khảo sát thực trạng
nghèo và đánh giá công tác xóa đói giảm nghèo tại xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An
trong giai đoạn 2012 – 2014”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung:
Đề tài nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng và đánh giá công tác xoá đói giảm ngèo ở
xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ
giảm nghèo tại đây.
- Mục tiêu cụ thể:
Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về đói nghèo.
Nghiên cứu kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới.
Xác định những đặc điểm nguyên nhân dẫn đến đói nghèo tại xã Bình Hòa Tây tỉnh
Long An.
Đánh giá tình hình thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 2012 –
2014.


Đề xuất các giải pháp, các kiến nghị, khuyến nghị chủ yếu và phù hợp với điều kiện,
đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương, nhằm đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo tại
xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và nguồn lực nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm
vi hẹp.
- Về không gian : nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi địa bàn xã Bình Hòa
Tây tỉnh Long An.
- Về thời gian : nghiên cứu được tiến hành trong năm 2013.
3.2. Đối tượng nghiên cứu :
Thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở các hộ gia đình nằm trong
diện nghèo theo chính sách xã hội của xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác Leenin, quán triệt tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta về xóa đói giảm nghèo, tiếp
thu có chọn lọc các quan điểm và kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước trên
thế giới để xem xét vấn đề đói nghèo của xã Bình Hòa Tây tỉnh Long An.
Trong các vấn đề cụ thể, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh
tế học như dựa vào số liệu thống kê, phân tích các tài liệu đã công bố, quan sát, kinh
nghiệm…
5. Ý nghĩa của đề tài
Từ đặc thù về kinh tế, chính trị, xã hội ở tỉnh, tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng
nghèo đói ở xã Bình Hòa Tây và đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị chủ yếu nhằm góp
phần giải quyết đói nghèo của xã trong giai đoạn hiện nay.
Đây là tài liệu có thể được sử dụng để tham khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề xóa
đói giảm nghèo ở mức chuyên sâu hơn, hoặc những nội dung chưa được thực hiện tại
đề tài này.
6. Bố cục đề tài
Ngoài Lời Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,

Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về xóa đói giảm nghèo.
Chương 2: Phân tích thực trạng xóa đói giảm nghèo tại xã Bình Hòa Tây tỉnh Long
An giai đoạn 2012 – 2014.
Chương 3: Đề xuất các giải pháp xóa đói giảm nghèo tại xã Bình Hòa Tây tỉnh Long
An.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1/. Quan niệm về đói nghèo
1.1.1/ Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau về nghèo. Ngân hàng Thế giới đưa ra quan điểm:
Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo
không chỉ dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như:
dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn
và không có quyền lực.
Tại Hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á- Thái
Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9 năm 1993, các quốc
gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận
dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của
từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”.
Tuy vậy, cũng có quan niệm khác về nghèo đói mang tính kinh điển hơn, triết lý hơn
của chuyên gia hàng đầu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) – ông Abapia Sen,
người được giải Nôben về kinh tế năm 1998, cho rằng: “Nghèo đói là sự thiếu cơ hội
lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”.
1.1.2/ Phân loại nghèo
Tình trạng nghèo đói được đặt trong mối tương quan với mức chuẩn của xã hội ở thời
điểm đánh giá. Do đó một người có thể nghèo tương đối nhưng không nhất thiết phải
bị nghèo tuyệt đối và ngược lại. Do vậy cần phân biệt nghèo tương đối và nghèo tuyệt

đối. Nghèo sơ cấp và nghèo thứ cấp, nghèo tạm thời và nghèo thường xuyên.
1.1.2.1. Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối
Nghèo tuyệt đối : Để có cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát
triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới đã đưa ra khái niệm
nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng
của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn
trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức
tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta".
Nghèo tương đối: Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định
nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là
việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người
thuộc về một tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Như vậy, nghèo tuyệt đối là tình trạng mà những người nghèo không đạt được mức
sống tối thiểu theo quy định. Còn nghèo tương đối để chỉ mức nghèo trong mối quan
hệ so sánh giữa người nghèo với cư dân khác trong xã hội.
1.1.2.2. Nghèo sơ cấp và nghèo thứ cấp
Nghèo sơ cấp hay còn gọi là nghèo hữu hình là tình trạng mức sống của người được
nghiên cứu thấp đến mức họ không tự đảm bảo được sự tồn tại có tính hữu hình của
họ.
Nghèo thứ cấp là nghèo về tinh thần, là sự thiếu thốn trong lĩnh vực tâm lý xã hội.
1.2/. Phương pháp xác định và các chỉ tiêu đo lường nghèo
1.2.1/ Phương pháp xác định chuẩn nghèo và đối tượng nghèo
Không có một định nghĩa duy nhất về nghèo và do đó cũng không có một phương
pháp hoàn hảo để đo được nó. Trong "Báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2004 về
Nghèo" đã đưa ra các phương pháp sử dụng nhằm đo mức độ nghèo và xác định đối
tượng nghèo ở Việt Nam có thể được phân loại thành những nhóm sau:
- Chi tiêu của hộ
- Vẽ bản đồ nghèo
- Dựa vào thu nhập
- Phân loại

- của địa phương
- Xếp hạng giàu nghèo
1.2.1.1. Phương pháp dựa vào nhu cầu chi tiêu:
Đây là phương pháp do các chuyên gia Ngân hàng thế giới (WB) khởi xướng và cũng
là phương pháp được nhiều quốc gia cũng như các tổ chức quôc tế công nhận và sử
dụng trong việc xác định chuẩn nghèo ở cấp quốc gia Nội dung của phương pháp này
là dựa vào nhu cầu chi tiêu để đảm bảo các nhu cầu cơ bản của con người về ăn, ở,
mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Áp dụng theo phương pháp này
bao gồm 3 bước:
- Bước một là xác định nhu cầu chi tiêu cho lương thực thực phẩm (nhu cầu ăn
uống để tồn tại). Để xác định nhu cầu này người ta xác định rổ hàng hóa để bình quân
hàng ngày một người có được 2.100 Kcal, rổ hàng hóa này khoảng 40 mặt hàng và xếp
thành 16 nhóm hàng hóa.
- Bước hai là xác định nhu cầu chi tiêu phi lương thực (7 nhu cầu cơ bản còn
lại). Đối với nhóm giàu chi cho lương thực, thực phẩm là 50%, còn 50% chi cho nhu
cầu phi lương thực. Đối với người nghèo tỷ lệ tương ứng là 70% và 30%.
- Bước ba là xác định tổng nhu cầu chi tiêu cho lương thực thực phẩm và phi
lương thực thực phẩm. Tổng nhu cầu đó là chuẩn nghèo, người có thu nhập thấp hơn
chuẩn nghèo chung được xếp vào nhóm người nghèo, tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ
dân số có mức chi tiêu dưới chuẩn nghèo.
Ưu điểm của phương pháp này là có cơ sở khoa học tin cậy; độ chính xác cao; phản
ánh sát thực trạng cuộc sống, nhiều quốc gia công nhận và sử dụng, có cơ sở để so
sánh với các quốc gia khác.
Nhược điểm: việc thu thập thông tin các mặt hàng và chi tiêu thực tế của dân cư phức
tạp, tốn nhiều thời gian và chi phí tốn kém. Khi xác định mức độ nghèo theo phương
pháp này phải tổ chức điều tra chọn mẫu, mẫu điều tra phải lớn để tránh sai số và do
đó phương pháp này chỉ có độ đáng tin cậy khi xác định đối tượng nghèo từ cấp tỉnh
trở lên, không thể dùng được ở cấp huyện, chưa nói đến cấp xã hay cấp hộ.
1.2.1.2. Vẽ bản đồ nghèo:
Phương pháp này kết hợp giữa phỏng vấn sâu của điều tra hộ với phạm vi rộng của

của tổng điều tra dân số. Những cuộc điều tra hộ như ĐTMSHGĐ sẽ thu thập thông tin
không chỉ về chi tiêu của hộ mà còn cả về một loạt các biến khác, như quy mô và
thành phần của hộ, trình độ học vấn của các thành viên trong hộ, nghề nghiệp và tài
sản của hộ Còn tổng điều tra dân số không hỏi về chi tiêu, nhưng lại bao gồm những
thông tin về nhiều biến số kể trên. Phương pháp vẽ bản đồ nghèo là gắn hai công cụ
thống kê này thông qua ba bước chính:
- Bước thứ nhất là xác định một loạt các biến số chung giữa cuộc điều tra hộ chi
tiết và cuộc tổng điều tra dân số cùng kỳ.
- Bước thứ hai, tiến hành phân tích thống kê để đánh giá mối quan hệ giữa mức
chi tiêu bình quân đầu người với những biến số này.
- Bước thứ ba là sử dụng những kết quả từ phân tích này để dự báo chi tiêu của
những hộ có trong tổng điều tra dân số. Mức chi tiêu dự báo này sẽ được dùng để đánh
giá xem một hộ có nghèo không.
Về mặt này, vẽ bản đồ nghèo cho phép tính được tỷ lệ nghèo ở các cấp thấp, được đo
bằng tỷ lệ hộ nghèo trong tổng điều tra dân số của mỗi tỉnh, huyện, thậm chí cả xã.
Nhưng phương pháp này cũng không phải là thực sự hoàn hảo bởi lẽ chi tiêu "dự báo"
chỉ có thể ước tính với sai số.
1.2.1.3. Phương pháp dựa vào thu nhập:
Phương pháp cũng khoa học và tương đối đơn giản một số nước ở Châu Á và Mỹ đã
áp dụng, họ cho rằng người nghèo là những người có thu nhập không đủ để chi phí
cho lương thực, thực phẩm và các dịch vụ xã hội. Do vậy người ta xác định chuẩn
nghèo bằng khoảng 1/2 thu nhập bình quân đầu người.
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho rằng " theo quan niệm chung của nhiều
nước, hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 trung bình của xã hội"
Qua nghiên cứu việc lấy chuẩn nghèo bằng 1/2 hay 1/3 bình quân thu nhập đầu người
của các hộ gia đình là phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, song biên độ
dao động của chuẩn nghèo sẽ nằm trong 1/2 và 1/3 mức thu nhập bình quân; nước phát
triển thu nhập cao có thể lấy mức 1/2, nước chậm phát triển có thể lấy mức 1/3; nước
ta là nước đang phát triển nên lấy ở khoảng giữa của 1/2 và 1/3 mức thu nhập bình
quân đầu người.

Ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán, ít tốn kém kinh phí có thể sử dụng số liệu có sẵn,
các địa phương cũng cũng tự tính được chuẩn nghèo của mình.
Nhược điểm là sự điều chỉnh của chuẩn nghèo có khoảng dao động lớn (từ mức 1/2
đến 1/3 mức thu nhập) do đó dễ bị chi phối bởi ý muốn chủ quan của người tính và
việc so sánh giữa các quốc gia, giữa các vùng không trên một mặt bằng.
1.2.1.4. Phân loại của địa phương:
Ưu điểm chính trong cách làm của Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội ở địa phương
trên thực tế lại do các địa phương không tuân theo một cách cứng nhắc phương pháp
dựa vào thu nhập nêu trong tài liệu hướng dẫn. Điểm căn bản trong việc xác định đối
tượng nghèo và phân bổ các khoản trợ giúp trên thực tế ở cấp địa phương là có sự chi
phối của một thiết chế theo tập tục truyền thống, tức là thôn. Mỗi thôn sẽ lên danh sách
những hộ nghèo và hộ đói. Danh sách này được cập nhật một hai lần trong một năm,
khi mà những lợi ích như miễn học phí và thẻ khám chữa bệnh được cung cấp. Những
hộ được coi là không nghèo có thể không tham gia vào những hội đồng này, vì họ ít có
khả năng nhận được lợi ích gì. Nhiều khi số kinh phí có được không cho phép phân bổ
những khoản trợ giúp cho tất cả những hộ được xếp vào diện nghèo. Vấn đề là bàn
xem là ai sẽ nhận được những trợ giúp đó, cộng thêm những đánh giá chủ quan của
những hộ khác, ngoài những con số về thu nhập. Phương pháp dựa vào thu nhập của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thường chỉ xét đến khi không đạt sự nhất trí về
việc liệu hộ này hay hộ khác nên nhận được trợ giúp.
Nhược điểm của phương pháp này là thiếu một quy tắc chặt chẽ để xác định hộ nghèo.
Vì thảo luận ở cấp thôn có thực sự thành công trong việc xác định ai là người cần trợ
giúp nhất hay không vẫn là một câu cần bỏ ngỏ. Một nhược điểm nữa là nó hoàn toàn
loại bỏ một số hộ ra khỏi việc xem xét phân loại. Những hộ bị coi là không chịu chăm
chỉ lao động hoặc không có trách nhiệm xã hội hiếm khi được nhận trợ giúp và thậm
chí còn không được liệt vào danh sách các hộ nghèo. Trên thực tế việc không trợ cấp
cho những hộ này có thể gây thiệt thòi cho con cái của họ, là những người không hề có
lỗi chỉ vì cha mẹ chúng nghiện rượu hay không chịu làm việc.
1.2.1.5. Phương pháp tự đánh giá:
Trong trường hợp này, các hộ được yêu cầu tự đánh giá về hiện trạng nghèo của mình.

Không có hướng dẫn gì về những tiêu chí để dựa vào đó mà đánh giá, do đó cách làm
này là hoàn toàn mang tính chủ quan. Mặc dù người được đòi hỏi phải là người biết rõ
về thu nhập, chi tiêu hay nguy cơ tổn thương của mình hơn ai hết, nhưng câu trả lời
của họ ít khi dính dáng đến chuẩn nghèo hay ngưỡng nghèo chung. Trong số tất cả
những phương pháp được xem xét, đây là phương pháp phản ánh rõ nhất địa vị tương
đối của hộ trong xã. Trong hai hộ giống nhau, một ở xã nghèo và một ở xã giàu, thì hộ
ở xã giàu sẽ có xu hướng tự kê khai mình là người nghèo hơn là hộ ở xã nghèo.
Nhược điểm của phương pháp này là không thể tạo ra những tỷ lệ nghèo có thể so
sánh giữa các xã, các huyện hoặc các tỉnh. Một bất cập nghiêm trọng nữa là nó dễ bị
người trả lời làm cho sai lệch. Nếu trợ giúp sẽ được cung cấp cho những hộ nào tự
đánh giá mình là nghèo, thì ai ũng có động cơ làm như vậy. Do đó, tự đánh giá là một
phương pháp nghiên cứu có ích, nhưng không phải là một cơ chế tốt để đo nghèo hoặc
xác định đối tượng nghèo.
1.2.1.6. Xếp hạng giàu nghèo:
Phương pháp này thường được sử dụng nhiều nhất trong PPA, bao gồm một tập hợp
những nhận xét về hiện trạng của tất cả các hộ trong một cộng đồng. Ở Việt Nam cộng
đồng tiêu biểu chính là thôn. Một tỷ lệ đáng kể các hộ trong cộng đồng sẽ tập hợp
nhau lại để xếp thứ tự, hoặc thường là phân loại tất cả các hộ trong số đó. Trong những
PPA được thực hiện, những người tham dự được chọn sao cho có đủ nam, nữ, người
già, người trẻ, người nghèo và người không nghèo. Đại diện của chính quyền địa
phương, thường có cả trưởng thôn cũng tham gia. Những cán bộ xã hội từ những tổ
chức phi chính phủ, hoặc các tổ chức nghiên cứu trong nước đã làm quen với xã và
những vấn đề chính ảnh hưởng đến đời sống của các hộ trong đó, đứng ra làm đầu mối
liên hệ. Việc phân loại hộ thường được thực hiện thông qua phân loại nhóm nhằm chỉ
ra những đặc tính của người nghèo. Sau đó, những tờ phiếu có ghi tên tất cả các hộ
trong thôn được phân phát cho cho các đại biểu tham dự để họ tự phân loại các hộ vào
các nhóm. Cuối cùng, trường hợp những hộ được phân loại khác nhau bởi ít nhất hai
thành viên sẽ được đem ra thảo luận trong cả nhóm. Việc thảo luận nhằm tìm hiểu
nguyên nhân của sự khác nhau và tìm kiếm sự nhất trí liên quan đến phân loại phù hợp
cho mỗi trường hợp. Do vậy công tác xếp hạng giàu nghèo mang tính toàn diện hơn

những phương pháp chỉ dựa vào chi tiêu hay thu nhập không thôi và khách quan hơn
phương pháp tự đánh giá hay phân loại bởi chính quyền địa phương.
Nhược điểm chính của phương pháp xếp hạng giàu nghèo là chi phí cao.
1.2.2/Các chỉ tiêu đo lường nghèo
Chuẩn nghèo: là ranh giới để phân biệt người nghèo. Chuẩn nghèo là một khái niệm
động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không gian, nó biến đổi theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng hay từng quốc gia. Về thời gian,
chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế-
xã hội và nhu cầu của con người theo từng giai đoạn lịch sử, vì rằng kinh tế, xã hội
phát triển, đời sống con người được cải thiện tốt hơn, tất nhiên không phải tất cả các
nhóm dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau, thông thường thì nhóm không nghèo
có tốc độ tăng mức thu nhập, mức sống cao hơn nhóm nghèo.
Chuẩn nghèo của Thế giới:
Theo quan niệm trên, WB đưa ra khuyến nghị thang đo nghèo đói như sau:
- Đối với nước nghèo (theo Liên Hợp Quốc là nước có thu nhập bình quân đầu người
ít hơn 500 USD/năm, tính theo thu nhập quốc dân), các cá nhân bị coi
là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới 0,5 USD/ ngày.
- Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ ngày
- Các nước thuộc Châu Mỹ la tinh và Caribe là 2USD/ ngày
- Các nước Đông Âu là 4 USD/ ngày
- Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ ngày.
Tuy vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình, thông thường nó thấp hơn
thang nghèo đói mà WB đưa ra. Ví dụ: Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là 960 nhân
dân tệ một năm/ người tương đương 0,33 USD/ ngày/ người.
Chuẩn nghèo ở Việt Nam:
Theo phương pháp trên và căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội đã 4 lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình
quân đầu người cho các giai đoạn cụ thể khác nhau (giai đoạn 1993-1995, 1996-2000,
2001-2005, 2006-2010).
+ Trong giai đoạn 2001-2005 những người có thu nhập dưới mức quy định sau được

xếp vào nhóm hộ nghèo: vùng đô thị là 150 ngàn VNĐ/ tháng/ người, vùng nông thôn
đồng bằng là 100 ngàn VNĐ/tháng/người, vùng nông thôn miền núi là 80 ngàn
VNĐ/tháng/người
Ngoài tiêu chuẩn thu nhập bình quân, khi xác định hộ nghèo cần xem xét thêm về: nhà
ở, đồ dùng sinh hoạt…
+ Giai đoạn 2006-2010: vùng thành thị: 260.000 đồng/người/tháng, vùng nông thôn:
200.000đ/người/tháng.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế-xã hội và kết quả thực hiện Chương trình
XĐGN, các tỉnh, thành phố có thể nâng chuẩn hộ nghèo cao hơn so với quy định trên.
Giai đoạn 2006-2010 ở tỉnh Đồng Nai đã nâng chuẩn mực nghèo lên mức:
Vùng đô thị là 400 ngàn VNĐ/tháng/người, vùng nông thôn là 250 ngàn
VNĐ/tháng/người.
1.3. Quan niệm về xóa đói giảm nghèo
1.3.1. Khái niệm
- Xóa đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không
đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì mức sống, từng bước nâng cao mức sống
đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống.
- Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát
khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người
nghèo giảm xuống. Hay giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên
mức sống cao hơn. Sự thống nhất giữa hai mục tiêu này: Nếu giảm nghèo đạt được
mục tiêu thì đồng thời cũng xóa đói luôn. Do vậy thực chất giảm nghèo và xóa đói là
đồng nghĩa.
1.3.2. Nội dung của xóa đói giảm nghèo
1.3.2.1. Tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo:
Để làm căn cứ đánh giá mức nghèo đói người ta đều thống nhất dựa vào 2 loại tiêu chí
sau :
- Chỉ tiêu chính : thu nhập bình quân người/ tháng hoặc năm được đo bằng chỉ
tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi.

- Chỉ tiêu phụ : dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc, y tế, giáo dục và các điều kiện đi
lại.
Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm nhất đối
với công tác XĐGN.
Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao
động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ tiền lương hay từ những hình thức lao
động khác. Tình trạng thiếu việc làm và năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập
người lao động thấp lá khá phổ biến đối với người nghèo. Vì vậy để tăng thu nhập cho
người nghèo, phải có giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất…để hỗ trợ
tăng năng suất lao động và tạo việc làm cho người nghèo là cơ bản nhất.
1.3.2.2. Tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển đối với người nghèo,
vùng nghèo:
- Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường xa các trung tâm kinh tế và dịch vụ xã hội.
hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu thốn và yếu hơn hẳn so với những vùng khác. Phổ biến là
tình trạng thiếu điện, nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ đầu mối,
giao thông đi lại khó khăn…do đó, năng suất lao động thấp, trong khi đó giả cả của
sản phẩm do người sản xuất bán lại rẻ do vận chuyển khó khăn. Cơ hội tự vươn lên cỉa
người nghèo ở những vùng này lại càng khó khăn hơn. Vì vậy Nhà nước cần phải tích
cực đầu tư cơ sợ hạ tầng cho vùng nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận
hệ thống cơ sở hạ tầng tốt hơn là một nội dung quan trọng trong công tác XĐGN, nhất
là ở nước ta hiện nay.
- Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp, do nghèo mà không có điều kiện đầu tư cho
con cái học hành. Dân trí thấp thì không có khả năng để tiếp thu tiến bộ của khoa học
kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ văn
minh của nhân loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế, tình thần và chính trị). Vì
vậy nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người nghèo là giải pháp có
tính chiến lược lâu dài.
- Một nội dung quan trọng nữa đó là phải tạo điều kiện để giúp người nghèo tiếp cận
có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính, tính dụng và tiến bộ của khoa học,

kỹ thuật, công nghệ Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe
tốt hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là yếu
tố quan trọng để tăng trưởng phát triển.
1.3.2.3. Phải ưu tiên các đối tượng chính sách, vùng căn cứ kháng chiến
ở nước ta, trong những năm đổi mới, nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt
bậc, đời sống của đa số dân cư được cải thiện, công tác XĐGN đã thu được những
thành tựu đáng kể. tuy nhiên, mức sống của người dân vẫn còn thấp, phân hóa thu
nhập có xu hướng tăng lên, một bộ phận khá lớn dân cư vẫn còn sống trong nghèo đói.
Trong đó có vùng cách mạng, vùng dân tộc ít người và nhiều hộ gia đình có công cách
mạng vẫn chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận
những thành quả do công cuộc đổi mới mang lại. Những giải pháp XĐGN tập trung
cho đối tượng này vừa là yêu cầu cấp thiết đối với mục tiêu phát triển bền vững, vừa
mang tính nhân vân sâu sắc.
1.3.2.4. XĐGN phải mang tính bền vững
Trong thực tiễn XĐGN, một tình trạng khá phổ biến là có khá nhiều hộ gia đình sau
khi thoát nghèo một thời gian do nhiều nguyên nhân khác nhau như : gặp rủi ro trong
kinh doanh, ốm đau, do tác động của phân hóa giàu nghèo của quá trình phát triển…
lại trở thành những hộ nghèo. Vì vậy nhiệm vụ của XĐGN không chỉ hỗ trợ để người
nghèo sinh tồn và vượt qua ngưỡng nghèo một cách thụ động mà phải có những giải
pháp tích cực để bản thân người nghèo chủ động tự vươn lên thoát nghèo vững chắc
tiến tới trở thành hộ khá, hộ giàu.
1.4. Sự cần thiết của công tác xóa đói giảm nghèo đến sự phát triển của đất nước
Xét tình hình thực tế, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới thì sự phân hoà giàu nghèo
diễn ra rất nhanh nếu không tích cực xoá đói giảm nghèo và giải quyết tốt các vấn đề
xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật
chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp
thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ của thời đại.
Do đó trong chính sách phát triển kinh tế -xã hội thời kỳ 1996-2000 nhà nước đã xây
dựng được các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xoá đói giảm
nghèo quốc gia. Xoá đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó còn

là vấn đề kinh tế -xã hội quan trọng, do đó phải có sự chỉ đạo thống nhất giữa chính
sách kinh tế với chính sách xã hội.
Xuất phát từ điều kiện thực tế nước ta hiện nay, xoá đói giảm nghèo về kinh tế là điều
kiện tiên quyết để xoá đói giảm nghèo về văn hoá, xã hội .Vì vậy, phải tiến hànhthực
hiện xoá đói giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, hải đảo
và những vùng căn cứ kháng chiến cách mạng cũ, nhằm phá vỡ thế sản xuất tự cung,
tự cấp, độc canh, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế sản xuất nông nghiệp trên toàn
quốc theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, mở rộng thị
trường nông thôn, tạo việc làm tại chỗ, thu hút lao đông ở nông thôn vào sản xuát tiểu
thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ là con đường cơ bản để xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn phải được xem như là 1
giải pháp hữu hiệu, tạo bước ngoạt cho phát triển ở nông thôn, nhằm xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay.
Tiếp tục đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó là con đường để cho mọi người vượt qua đói
nghèo, để nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để chủ động xoá đói giảm nghèo. Đây
là sự thể hiện tư tưởng kinh tế của Hồ Chủ Tịch:" Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá
vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên giàu thêm".Thực hiện thành công chương trình xoá
đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế là tạo thêm thu nhập chính
đáng cho người nông dân ổn định cuộc sống lâu dài, mà xoá đói giảm nghèo, phát triển
kinh tế nông thôn còn là nền tảng, là cơ sở để cho sự tăng trưởng và phát triển 1 nền
kinh tế bền vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý
nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội. Xoá đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân
trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống,
sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành
mạnh, giảm được khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định
tinh thần, có niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ trương của
đảng và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ
môi trường sinh thái.
Ngoài ra còn có thể nói rằng không giải quyết thành công các nhiệm vụ và yêu cầu xoá

đói giảm nghèo thì sẽ không chủ động giải quyết được xu hướng gia tăng phân hoá
giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp với hậu quả là sự bần cùng hoá và do
vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị và xã hội làm chệch hướng XHCN của sự
phát triển kinh tế -xã hội. Không giải quyết thành công các chương ttrình xoá đói giảm
nghèo sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội nói
chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững sẽ không thể thực hiện
được. Không tập trung nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không
thể tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước nhằm đưa nước ta đạt tới ttrình độ phát triển tương đương
với quốc tế và khu vực, tháo khỏi nguy cơ lạc hậu và tụt hậu.
1.5/. Nạn nghèo ở Việt Nam và chương trình Xóa đói giảm nghèo
1.5.1/. Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
Nguyên nhân nghèo đói ở Việt Nam rất đa dạng nhưng nói chung do nguyên nhân
khách quan và chủ quan như sau:
1.5.1.1. Nguyên nhân lịch sử, khách quan:
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài
và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, nguồn nhân lực chính
của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương tật
- Chính sách nhà nước thất bại: sau chiến tranh việc áp dụng chính sách tập thể
hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại
kết quả xấu cho nền kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế kế hoạch, bao cấp đã cắt rời sản
xuất với thị trường, làm thui chột động lực sản xuất, hàng hóa bị thiếu trầm trọng trong
khi dân số tăng cao.
- Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn
vốn đầu tư thấp và thiếu hiệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước.
1.5.1.2. Nguyên nhân chủ quan:
• Sự cách biệt về địa lý, xã hội:
Đa số những người nghèo sống trong vùng điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt, địa lý
cách biệt như: vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt sự kém phát triển về cơ sở hạ
tầng của các vùng nghèo càng bị tách biệt với các vùng khác (Năm 2000: tình trạng hạ

tầng cơ sở của 1.870 xã đặc biệt khó khăn và xã biên giới :20-30% số xã chưa có
đường dân sinh đến trung tâm xã, 40% số xã nghèo chưa đủ phòng học , 5% số xã
chưa có trạm y tế, 40% số xã chưa đường điện đến trung tâm xã, 20% số xã chưa có
chợ xã hoặc cụm xã). Không có đường sá tốt nên chi phí vận tải thường cao, hàng đưa
đến thì khó, hàng nông sản chỉ tiêu thụ tại địa phương với giá rất thấp. Khó cung cấp
hoặc tận dụng các dịch vụ như khuyến nông, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, tiếp cận với
những kiến thức hiện đại, cuối cùng họ cũng không biết cách nào sống khác hơn để
thoát cảnh nghèo.
Chính sự cách biệt về mặt địa lý, xã hội cũng dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao
hơn thành thị, tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc cao hơn tỷ lệ nghèo của người Kinh.
• Nguyên nhân về nhân khẩu học:
Người nghèo phổ biến thuộc những hộ có quy mô gia đình lớn, mỗi hộ có rất nhiều
con và tuổi còn nhỏ. Theo nguồn TCTK năm 1998 hộ nghèo có nhân khẩu bình quân
là 5,6 người/hộ so với mức 4,1 người/hộ thuộc nhóm hộ rất giàu như vậy hộ nghèo có
số nhân khẩu bình quân thường cao hơn hộ giàu từ 1,5 người trở lên, nhân khẩu bình
quân/hộ vùng nông thôn thường cao hơn thành thị, cao nhất là vùng đồng bằng sông
Cửu Long: hộ nghèo nhiều hơn hộ giàu tới 2,4 người, Tây nguyên là 1,9 người, Bắc
Trung bộ là 1,8 người. Một trong những nguyên nhân tỷ lệ sinh cao trong các hộ
nghèo là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức
khỏe sinh sản. Mức độ hiểu biết của phụ nữ nghèo về an toàn tình dục, cũng như mối
liên hệ giữa tình trạng nghèo đói và sinh khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn
chế. Tình trạng phổ biến của cả nước là các hộ thuộc diện nghèo đói thường có nhiều
trẻ em, thiếu lao động. Số liệu của các cuộc điều tra mức sống dân cư của TCTK cho
thấy tỷ lệ trẻ em/người lao động ở nhóm hộ nghèo cao nhất và tỷ lệ này giảm dần khi
nhóm mức chi tiêu bình quân đầu người tăng lên.
Bảng 1.1. Số trẻ em dưới 15 tuổi theo hộ gia đình
Tóm lại, nhiều con và sinh con quá dầy có nghĩa là tỷ lệ phụ thuộc cao, nguồn lực về
lao động thiếu và là bạn đồng hành của tình trạng nghèo đói.
• Trình độ học vấn thấp:
Đặc điểm chung của các hộ nghèo đói là chủ hộ có học vấn thấp. Trong nhóm hộ

nghèo, số người chưa bao giờ đến trường học chiếm tỷ lệ cao nhất, đáng chú ý là trình
độ từ cấp 3 trở lên chiếm tỷ lệ rất ít. Người nghèo thường không được đào tạo nghề
nghiệp.
Theo nguồn ĐTMSDC 98 thì tỷ lệ nghèo giảm giảm xuống khi trình độ học vấn tăng
lên và gần 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Trong
tổng số người nghèo tỷ lệ người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học
chiếm 39%, phổ thông cơ sở chiếm 37%, 3% học nghề và không ai tốt nghiệp đại học.
Kết quả điều tra năm 1993 của Bộ NN và CNTP, đã chứng minh thực trạng sự chênh
lệch về học vấn giữa người nghèo và người giàu là khá rõ ràng,nhóm hộ nghèo có tới
24,3% chưa biết chữ, trên 53% chỉ có trình độ học vấn cấp I. Trong lúc đó, nhóm hộ
giàu phần lớn đạt trình độ học vấn cấp II, cấp III. Do trình độ học vấn thấp những
người nghèo ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ thấp
hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và không có điều kiện nâng cao
trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học
vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con
cái ảnh hưởng không những thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai.
• Nguồn lực hạn chế:
- Thiếu đất: Việt nam là nước nông nghiệp, đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân
sống ở nông thôn, trong khi các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất có
xu hướng tăng thêm đặc biệt là ở vùng Đông Nam bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long.
Dựa trên số liệu điều tra MSDC năm 2002 có 18,9% hộ nông nghiệp không có đất năm
2002 so với tỷ lệ 9,2% năm 1998 và 8,2% năm 1993. Ở Đồng bằng sông Cửu Long là
nơi tỷ lệ không có đất cao thứ hai trong cả nước, bốn năm trước đây 26% của nhóm
nghèo nhất không có đất so với tỷ lệ 39% năm 2002, PPA ở Đồng bằng sông Cửu
Long cho thấy cái vòng lẩn quẩn của nghèo đói: túng thiếu bán đất hoặc cầm cố đất do
tai họa trong gia đình và nợ nần, từ đó không có cơ hội tạo thu nhập.
- Thiếu vốn: Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng mặc
dù nhà nước đã hỗ trợ vốn vay cho người nghèo thông qua Ngân hàng Chính sách xã
hội, Ngân hàng Nông nghiệp và các tổ chức đoàn thể tuy nhiên còn khá nhiều người
nghèo chưa tiếp cận được nguồn vốn này do họ thường không có kế hoạch sản xuất cụ

thể, ngại tiếp xúc với giấy tờ hoặc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích do
vậy họ khó có khả năng tiếp cận các nguồn vốn. Điều này làm họ càng nghèo thêm.
Mặt khác, đa số người nghèo lựa chọn phương án tự cung tự cấp, giữ phương thức sản
xuất truyền thống với nên giá trị sản phẩm và năng suất thấp; bên cạnh đó đa số người
nghèo không có cơ hội tiếp cận các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, phòng dịch
bệnh, hệ thống thủy lợi, giống mới, thị trường các yếu tố làm tăng chi phí đầu vào và
làm giảm giá trị đầu ra của họ.
• Nguy cơ dễ bị tổn thương:
Người nghèo rất dễ bị tổn thương do họ còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản
xuất mà chưa có các thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai,
dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, bệnh tật, thất nghiệp, rủi ro về
giá sản phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực.
Với thu nhập cao hơn, các gia đình có thể dễ dàng khắc phục được các tai họa mất
mùa, đau ốm, các dịch bệnh và nếu trồng các loại cây phù hợp với khí hậu và đất đai
thì rủi ro thất bát cũng giảm đi. Mặt khác, nếu nông dân được tiếp cận được với các
phương pháp trồng trọt chăn nuôi đúng kỹ thuật, được tiếp cận với thị trường, với tri
thức thì giảm những rủi ro do giá cả thị trường lên xuống bất thường.
• Nghề nghiệp gắn liền với sản xuất nông nghiệp:
Xuất phát từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, với trên 60 triệu dân sống tập
trung ở nông thôn (số liệu năm 2004), đời sống nông dân ở nước ta còn chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp do đó họ phụ thuộc rất nhiều vào vào thiên nhiên như thiên
tai lũ lụt, hạn hán kéo dài, dịch bệnh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất nông
nghiệp, đến thu nhập của nông dân gây nhiều khó khăn cho đời sống nông dân, đặc
biệt là nông dân nghèo. Chính thu nhập thấp và không có tính ổn định trong sản xuất
nông nghiệp nên tỷ lệ hộ nghèo cao và những hộ thoát nghèo có khả năng tái nghèo
cao
• Ngoài những nguyên nhân trên, còn có một nguyên nhân khác dẫn đến nghèo
đó là tâm lý ỷ lại, thiếu ý thức vươn lên trong cuộc sống, họ cho rằng nhà nước luôn
phải có trách nhiệm đối với cái nghèo của họ, những chủ hộ này thường là đối tượng
nghiện rượu, bài bạc sống không có trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, những

khoản trợ cấp của xã hội hoặc vốn vay thường họ dùng vào rượu, bài bạc, ngay cả
những khoản hỗ trợ bằng hiện vật cho con cái họ: tập vở, cặp, sách học sinh cũng được
đem bán lấy tiền uống rượu Cái nghèo không chỉ thế hệ này mà còn kéo theo cả thế
hệ sau do con cái không được học hành, ảnh hưởng cách sống của bố mẹ cuộc đời
chúng cũng không thể khá hơn được. Đây là một trong những nguyên nhân nghèo rất
khó khắc phục.
1.5.2/. Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
Những kết quả đáng mừng sau 10 năm xóa đói giảm nghèo
Sau 10 năm thực hiện “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo”
(2002-2013) và 5 năm thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về
“Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo nhất
trong cả nước (2008-2013), Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng mừng trong
công tác xóa đói giảm nghèo.
Theo Báo cáo Đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012 mới công bố của Ngân hành thế
giới World Bank, hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói nghèo trong hai thập
kỷ qua. Nghèo đói ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng từ 60% hồi đầu những năm 1990
xuống 20,7% trong năm 2010. Việt Nam đã đạt được tỷ lệ nhập học tiểu học và trung
học cơ sở cao, lần lượt hơn 90% và 70%.
Theo đánh giá gần đây nhất của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc FAO, Việt Nam
là một trong những nước đạt được thành tích nổi bật trong việc giảm số người bị đói từ
46,9% (32,16 triệu người) giai đoạn 1990 – 1992 xuống còn 9% (8,01 triệu người)
trong giai đoạn 2010 – 2012, và đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 1
(MDG1) – hướng tới mục tiêu giảm một nửa số người bị đói vào năm 2015.
Những thách thức mới phải đối mặt
Tuy đạt được những thành tích đáng mừng nhưng công cuộc xóa đói giảm nghèo của
Việt Nam lại đang đối mặt với những thách thức mới. Phần lớn những người nghèo
còn lại sống ở vùng nông thôn xa xôi, hạn chế về tài sản, trình độ học vấn và điều kiện
sức khỏe kém. Nghèo trong các nhóm dân tộc thiểu số là một thách thức kéo dài. Tuy
chỉ chiếm 15% dân số cả nước nhưng chiếm tới 47% tổng số người nghèo vào năm
2010, so với 29% năm 1998. Hơn nữa, những người nghèo ngày càng khó tiếp cận với

các điều kiện giảm nghèo chung do không theo kịp tốc độ gia tăng của các điều kiện
giảm nghèo, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số.
Bên cạnh những thách thức giảm nghèo mang tính lâu dài thì công cuộc giảm nghèo ở
nước ta còn phải tính đến một số thách thức mới như: Bất ổn vĩ mô ngày càng tăng
khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại; nghèo tại khu vực thành thị gia
tăng do tốc độ đô thị hóa nhanh khiến người dân gặp khó khăn trong giai đoạn chuyển
đổi và nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển…
Hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói nghèo trong hai thập kỷ qua, nhưng
các thách thức mới cũng đang nổi lên. Những bài học kinh nghiệm từ quốc tế sẽ giúp
Việt Nam giải quyết những vấn đề này
1.6/ Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước trên thế giới
1.6.1. Hàn Quốc
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến việc phát
triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng đô thị, xây dựng
các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, thế nhưng 60% dân số Hàn Quốc
sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống nghèo đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất
tập trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ, nhân dân sống trong cảnh nghèo đói tột
cùng. Từ đó gây ra làn sóng di dân tự do từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm,
chính phủ không thể kiểm soát nổi, gây nên tình trạng mất ổn định chính trị - xã hội.
Để ổn định tình hình chính trị - xã hội, chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các
chính sách kinh tế - xã hội của mình, cuối cùng đã phải chú ý đến việc điều chỉnh các
chính sách về phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn và một chương trình phát
triển nông nghiệp nông thôn được ra đời gồm 4 nội dung cơ bản:
- Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ nông dân vay.
- Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao.
- Thay giống lúa mới có năng suất cao.
- Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn bằng việc thành lập các HTX
sản xuất và các đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung này, chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân dân có việc làm,
ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân các thành phố lớn để kiếm việc làm.

chính sách này đã được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu nông thôn
nhằm cải tiến cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp,
từng bước đưa nền kinh tế phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu
vực nông thôn.
Tóm lại, Hàn Quốc đã trở thành 1 nước công nghiệp phát triển nhưng chính phủ vẫn
coi trọng những chính sách có liên quan đến việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn nhằm xoá đói giảm nghèo cho dân chúng ở khu vực nông thôn, có như vậy mới
xoá đói giảm nghèo cho nhân dân tạo thế ổn định và bền vững cho nền kinh tế.
1.6.2. Trung Quốc
Ngay từ khi Đại Hội Đảng XII của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1984, chính phủ
Trung Quốc đã thực hiện cải cách trên nhiều lĩnh vực, nhung cái chính là cải cách cơ
cấu nông nghiệp nông thôn. Mục đích của nó là làm thay đổi các quan hệ chính trị,
kinh tế ở nông thôn, giảm nhẹ gánh nặng về tài chính đã đè quá nặng lên những người
nghèo khổ ở nông thôn trong nhiều năm qua, phục hồi ngành sản xuất nông nghiệp.
Năm 1985 ông Đặng Tiểu Bình đã nói: "Sự nghiệp của chúng ta sẽ không có ý nghĩa
gì nhiều nếu không có sự ổn định ở nông thôn ". Sau khi áp dụng một loạt các chính
sách cải cách kinh tế ở khu vực nông thôn, Trung Quốc đã thu được những thành tựu
đáng kể, đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong thể chế chính trị, thay đổi về căn
bản về cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển đổi phương thức quản lý, thay đổi căn bản
phương thức phân phối, phân phối theo lao động đóng vai trò chính, và Trung Quốc đã
thực hiện thành công việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết cuả
Nhà nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong những năm Trung Quốc thực hiện chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường thì
sự phân hoá giàu nghèo đã tăng lên rõ rệt trong xã hội. Do chính sách mở cửa nền kinh
tế, các thành phố lớn thì tập trung các nhà máy sản xuất công nghiệp, tuy có phát triển
một số nhà máy công nghiệp ở một số vùng nông thôn, song vùng giàu có thì ngày
càng giàu có, vùng nghèo đói thì vẫn nghèo đói, nhất là vùng sâu, vùng xa. Để khắc
phục tình trạng nghèo khổ cho khu vực nông thôn chính phủ đã đưa ra một loạt các
giải pháp cơ bản nhằm xoá đói giảm nghèo cho nhân dân, trong đó có các giải pháp về
tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, xây dựng các vùng định canh, định

cư, khu dân cư mới, chính sách này đã đem lại những thành công đáng kể cho nền kinh
tế - xã hội Trung Quốc trong những năm qua.
1.6.3. Đài Loan
Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIES), nhưng là 1 nước thành
công nhất về mô hình kết hợp chặt trẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển kinh
tế nông nghiệp nông thôn ( mặc dù Đài Loan không có các điều kiện thuận lợi như một
số nước trong khu vực) đó là chính phủ Đài Loan đã áp dụng thành công một số chính
sách về phát triển kinh tế -xã hội như:
- Đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia đình với
quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, mở
mang thêm những nghành sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp cũng được phát
triển nhanh chóng, số trang trại vừa sản xuất nông nghiệp, vừa kinh doanh ngoài nông
nghiệp chiếm 91% số trang trại, sản xuất thuần nông chiếm 90%. Việc tăng sản lượng
và tăng năng suất lao động, ttrong nông nghiệp đến lượt nó lại tạo điều kiện cho các
ngành công nghiệp phát triển .
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nông thôn. Đài
Loan rất coi trọng phát triển mạng lưới giao thông nông thôn cả về đường bộ, đường
sắt và đường thuỷ.
Trong nhiều thập kỷ qua, Đài Loan coi trọng việc phát triển giao thông nông thôn đều
khắp các miền, các vùng sâu vùng xa, công cuộc điện khí hoá nông thôn góp phần cải
thiện điều kiện sản xuất, điều kiện sinh hoạt ở nông thôn. Chính quyền Đài Loan cho
xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút những lao
đông nhàn rỗi của khu vực nông nghiệp, tăng thu nhập cho những người nông dân
nghèo, góp phần cho họ ổn định cuộc sống. Đài Loan áp dụng chế độ giáo dục bắt
buộc đối với những người trong độ tuổi, do đó trình độ học vấn của nhân dân nông
thôn được nâng lên đáng kể, cùng với trình độ dân trí được nâng lên và điều kiện sống
được cải thiện,Tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 3,2%/năm(1950) xuống còn
1,5%/năm(1985). Hệ thống y tế , chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân cũng được
quan tâm đầu tư thích đáng.

1.6.4. Braxin
Lập quỹ hỗ trợ cho các gia đình nghèo nhất: Ở Braxin, Quỹ gia đình (Bolsa Familia)
được chính phủ của tổng thống Luiz Inacio Lulu da Silva thiết lập vào năm 2003 nhằm
cung cấp một khoản lương cơ bản cho 7,5 triệu gia đình nghèo nhất của Braxin (tương
đương với 30 triệu dân). Mục đích của Quỹ là cung cấp một mức thu nhập hàng tháng
tính theo đầu người là dưới 100 reai/người/tháng cho 11,2 triệu gia đình (bằng một
phần tư dân số Braxin) cho đến cuối năm 2006. Đây là chương trình lớn nhất của một
thế hệ mới các chương trình xã hội ở châu Mỹ La tinh, được gọi là các kế hoạch trợ
cấp tiền mặt có điều kiện. Mục tiêu của các kế hoạch này là giảm tình trạng nghèo của
ngày hôm nay, trong trường hợp của Braxin là bằng cách trợ cấp tới mức 95 reai mỗi
tháng cho các gia đình nghèo (các chính quyền tiểu bang và địa phương có thể tăng
thêm mức lương trên tùy theo khả năng tài chính của các chính quyền này) và ngăn
chặn tình trạng tái nghèo trong tương lai bằng cách ràng buộc nhiều điều kiện cho việc
trợ cấp tiền mặt này: những người thụ hưởng phải cho con họ đi tiêm ngừa, đến bệnh
viện để theo dõi tình hình sức khoẻ của chúng, và cho chúng tiếp tục đi học.
Bộ máy hành chính hiệu quả: Sự thành công của các kế hoạch mới này nhờ có một bộ
máy hành chính điều hành có hiệu quả. Ở Braxin, cơ cấu liên bang bao gồm: 5.561
đơn vị quận huyện tự trị, việc thiết lập quĩ Bolsa Familia ở đây không đơn giản. Ban
đầu, tổng thống Lula gây rối rắm nhiều hơn là củng cố quĩ. Ông tạo ra hai bộ chống
nghèo đói và chương trình trợ cấp tiền mặt có điều kiện khác nữa. Bị chỉ trích nặng nề,
chính phủ Braxin phải suy nghĩ lại cách làm của mình ở bốn chương trình trợ cấp tiền
mặt có điều kiện, được họp lại thành ra quĩ Bolsa Familia. Bộ phát triển xã hội được
thiết lập để điều hành quĩ. Một quan chức của chính quyền đã cho biết là thời kỳ
chuyển tiếp của quĩ rất lộn xộn. Người ta quên đi việc kiểm tra chất lượng. Các kiểm
toán nhà nước và giới truyền thông đã phát hiện có sự gian lận trong phân phối các
khoản tiền và có sự chểnh mảng trong việc theo dõi các điều kiện ràng buộc. Với hàng
triệu người hưởng thụ ghi tên vào danh sách và quyền lợi tăng lên gấp 3 lần số tiền 65
reai, quĩ Bolsa Familia có vẻ như muốn được lòng dân hơn là một chính sách xã hội,
với một đội ngũ công chức chuyên nghiệp phụ trách và có sự cố vấn của Ngân hàng
Thế giới - nơi cho vay 572 triệu đôla để giúp mở rộng và cải thiện quĩ. Quĩ Bolsa

Familia tự điều chỉnh lại các hoạt động của mình. Theo đó, các cơ quan cấp liên bang,
cấp quận, huyện, các tổ chức phi chính phủ cùng chính những người thừa hưởng đều
tham gia vào việc điều hành quĩ. Nhiệm vụ của họ là bắt đầu hướng đến mục tiêu và
nhận diện chính xác người thụ hưởng. Nhưng Bộ Phát triển xã hội của Braxin mới là
cơ quan quyết định ai trong số họ xứng đáng được hưởng khoản tiền đó. Người thụ
hưởng đó sẽ rút tiền qua một thẻ điện tử tại chi nhánh ở địa phương của ngân hàng nhà
nước. Thông qua các danh sách duy nhất này, chính quyền có thể kiểm tra xem ai
xứng đáng nằm trong danh sách này. Những người được coi là không xứng đáng là vì
họ không thuộc diện gia đình nghèo đói hoặc họ được một số người có quyền thế ở địa
phương ban cho cái đặc ân là tên của họ được ghi danh vào danh sách này để đổi lấy lá
phiếu ủng hộ trong các kỳ bầu cử tới. Theo hợp đồng mới với chính phủ liên bang thì
các chính quyền địa phương phải thành lập các “hội đồng xã hội” gồm các quan chức
ở địa phương và đại diện của các tổ chức chính phủ để theo dõi việc thực thi quỹ. Các
chính quyền địa phương cũng được cấp ngân sách để cập nhật các danh sách duy nhất
tại địa phương. Qua chương trình chuyển giao tiền mặt có điều kiện này, chính phủ
Braxin cũng tranh thủ với các gia đình thụ hưởng, buộc họ phải tuân thủ các điều kiện
ràng buộc kèm theo để khỏi bị mất số tiền họ nhận được. Chẳng hạn như tất cả trẻ
trong gia đình đều phải được đi học, đến lớp đều đặn cho đến khi chúng được 15 tuổi,
bằng không gia đình sẽ bị phạt và mức phạt cao nhất là gia đình sẽ mất đi số tiền đã
được chuyển giao. Kết quả là số học sinh bỏ học nửa chừng giảm mạnh, và số học sinh
đăng ký theo học bậc trung học tăng lên khả quan.
1.7. Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với tỉnh Long An
Qua phân tích lý luận trên và một số kinh nghiệm, chính sách, mô hình giải quyết vấn
đề nghèo đói ở một số nước trên thế giới có thể rút ra cho tỉnh Long An một số bài học
sau :
- Phải tiến hành điều tra chu đáo, cặn kẽ để xây dựng được cơ sở dữ liệu đầy đủ,
chính xác, với những phân tích có căn cứ khoa học, thực tiễn của những vùng khác
nhau. Đây là cơ sở để đề ra những chính sách, biện phải giải quyết cụ thể và cũng là cơ
sở để đánh giá hiệu quả của công tác sau này.
- XĐGN phải luôn được coi là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược phát triển, là

một bọ phận quan trọng trong kế hoạch kinh tế - xã hội hằng năm.
- Phải tuyên truyền, quán triệt , nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và
người dân về XĐGN. Làm sao để cho công cuộc XĐGN huy động được tất cả các
cấp,ngành, toàn xã hội tham gia, không ai là người ngoài cuộc, trong đó ý chí và quyết
tâm của chính các hộ nghèo là nhân tố quyết định.
- Phải thấy được vấn đề XĐGN là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và lâu dài.
Nó liên quan đến nhiều mục tiêu cả kinh tế lẫn xã hội, liên quan đến hoạt động của
nhiều ngành và các cấp chính quyền khác nhau. Vì vậy, để đạt được hiệu quả của
XĐGN phải có sự phối hợp tích cực và đồng bộ củacác cấp, ngành chức năng, các tổ
chức đoàn hội, quần chúng, đồng thời phải có sự lồng ghép các hoạt động, các chương
trình, dự án đầu tư với mục tiêu XĐGN.
- Phải làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp,
nhất là cấp xã là một trong những yếu tố thành công trong quá trình thực hiện. kinh
nghiệm thực tế đã cho thấy, ở đâu có Ban XĐGN xã mạnh thì ở đó có hoạt động
XĐGN đạt kết quả tốt.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TẠI XÃ BÌNH HÒA TÂY TỈNH LONG AN
2.1.Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Long An
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nằm trong Vùng kinh tế
trọng điểm phía nam và là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long, nhất là có chung đường ranh giới với Thành phố Hồ Chí Minh, bằng
hệ thống giao thông đường bộ như tuyến quốc lộ 1A, quốc lộ 50, Tỉnh được xem là
thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản lớn nhất của Đồng bằng Sông Cửu Long.
Tỉnh Long An có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và
13 huyện.
2.1.1. Kinh tế
Nổi tiếng với nhiều sản phẩm nông nghiệp như gạo tài nguyên, gạo nàng thơm Chợ
Đào, Rượu Đế Gò Đen, dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức, đậu phộng Đức Hoà, mía Thủ
Thừ Đặc biệt, lúa gạo là sản phẩm nông nghiệp chủ lực chất lượng cao phục vụ xuất

khẩu, tuy nhiên sức cạnh tranh hàng nông sản với các nước trong khu vực nói chung
vẫn thấp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của công nghiệp chế biến.

×