Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo tại Huyện Nghi Xuân.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.97 KB, 26 trang )

Chuyên đề Xoá đói giảm
nghèo
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế của quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay hàng loạt vấn
đề kinh tế - xã hội nảy sinh. Bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái của nền
kinh tế thị trường đã tạo ra sự phân cực xã hội, phân hoá giàu nghèo ngày
càng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Hà Tĩnh là một trong 4 tỉnh nghèo nhất của cả nước, mức sống của
người dân còn thấp. Trong đó có Nghi Xuân là một huyện nằm ở địa bàn đầu
tiên của tỉnh với diện tích tương đối rộng và dân số khá đông. Nằm trong đặc
thù chung của cả tỉnh, với những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và trình độ
phát triển kinh tế - xã hội còn thấp đã gây nên hiện tượng đói nghèo của
người dân nơi đây.
Qua thời gian được tiếp xúc và tìm hiểu thực tế tại địa bàn em đã có
một số nhìn nhận về thực trạng đói nghèo và hiện trạng công tác xoá đói giảm
nghèo được triển khai trên địa bàn huyện. Trong phạm vi một chuyên đề nhỏ
này em xin đưa ra các giải pháp và một ý kiến đề xuất mong đóng góp một
phần vào công tác xoá đói giảm nghèo của huyện Nghi Xuân.
Do thời gian tìm hiểu và kinh nghiệm thực tế còn có hạn em chưa thể đi
sâu nghiên cứu hết mọi vấn đề nghèo đói trong chuyên đề này. Kính mong
được sự góp ý của thầy cô để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Lê Thị
Oanh
1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
A. Cơ sở lý luận của vấn đề xoá đói giảm nghèo
1. Khái niệm nghèo đói và các khái niệm có liên quan
* Khái niệm nghèo đói
- Đối với thế giới:
Tại Hội nghị Xoá đói giảm nghèo ở khu vực Châu Á - Thái Bình


Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 ở Bangkok đã đưa ra khái niệm
nghèo: "Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong
tục tập quán của địa phương…"
- Đối với Việt Nam:
+ Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn
một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức
sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
+ Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo, có mức sống dưới
mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
* Các khái niệm liên quan
- Nghèo tuyệt đối: là tình trạng của một bộ phận dân cư không có có
khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
- Nghèo tương đối: là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống
dưới trung bình của cộng đồng.
- Nhu cầu cơ bản: Nhu cầu cơ bản của con người gồm 8 yếu tố phân
thành 2 loại đó là 3 nhu cầu thiết yếu: ăn, mặc, ở và 5 nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày: văn hoá, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp.
- Ngưỡng nghèo đói: Ngưỡng nhu cầu tối thiểu được sử dụng làm ranh
giới để xác định nghèo đói hay không nghèo đói.
Nghèo đói là một khái niệm có tính thay đổi theo thời gian và không
gian.
2
Chuyên đề Xoá đói giảm
nghèo
2. Phương pháp tiếp cận và xác định chuẩn đói nghèo
2.1. Phương pháp tiếp cận:
Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói:
- Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá, bằng mức

chi tiêu về lương thực, thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt
lượng tiêu dùng từ 2100- 2300 Kcal/ngày/người.
- Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người tháng. Trong đó đặc
biệt quan tâm đến mức thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu
nhập thấp nhất (20% số hộ).
- Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia của từng địa phương đã
được cụ thể hoá bằng mục tiêu trong chương trình quốc gia xoá đói giảm
nghèo và chương trình của từng địa phương để thực hiện trong công tác xoá
đói giảm nghèo từ 1997-2000.
2.2. Chuẩn nghèo đói:
Từ 3 căn cứ trên ta có thể thấy rằng xác định chuẩn nghèo đói phụ
thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng
quốc gia, từng địa phương, song trong đó có một phần của yếu tố chủ quan
của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Khi nói đến nghèo đói là nói đến cá nhân con người. Nhưng khi xây
dựng chuẩn nghèo đói thì lại phải đặt con người trong khuôn khổ hộ gia đình
để xem xét, vì vậy chuẩn mực nghèo đói đưa ra là chuẩn nghèo cho hộ gia
đình, lấy hộ là đơn vị áp dụng chuẩn.
Tính từ năm 1993 đến nay Bộ LĐTBXH đã 5 lần đưa ra chuẩn nghèo
đói.
Chuẩn nghèo gần đây nhất là lần thứ 4 công bố vào năm 2000 như sau:
+ Vùng miền núi, hải đảo: 10.000đ/người/tháng
+ Nông thôn trung du: 100.000đ/người/tháng
+ Thành thị: 150.000đ/người/tháng.
Sinh viên thực hiện: Lê Thị
Oanh
3
Chuẩn nghèo gần đây nhất mới công bố vào năm 2006 là:
+ Thành thị: 260.000đ/người/tháng
+ Nông thôn: 200.000đ/người/tháng

B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội của huyện
- Nghi Xuân là huyện đầu tiên của tỉnh Hà Tĩnh. Phía Bắc giáp thành
phố Vinh, phía Nam giáp thị xã Hồng Lĩnh, phía Đông giáp Sông Lam (Nghệ
An), phía Tây giáp biển.
Huyện có 19 đơn vị hành chính bao gồm 2 thị trấn và 17 xã. Phần lớn
các xã nằm ven biển.
Với đặc điểm nổi bật là một huyện phụ cận giáp thành phố Vinh (thành
phố phát triển năng động của miền Trung). Có đường quốc lộ 1A chạy dọc
xuyên qua huyện. Đồng thời hội tụ đầy đủ các yếu tố về biển, đồng bằng,
trung du và miền núi. Như vậy nhìn tổng thể huyện Nghi Xuân có vị trí địa lý
thuận lợi cho việc giao thông đi lại, buôn bán, trao đổi hàng hoá, thương mại
dịch vụ với thành phố Vinh và các huyện lân cận, đặc biệt là thị xã Hồng
Lĩnh, một trung tâm lớn thứ 2 của tỉnh Hà Tĩnh.
- Về kinh tế - xã hội
Với đặc điểm tự nhiên như trên huyện Nghi Xuân có nền sản xuất chủ
yếu là nông nghiệp và đánh bắt cá ven biển.
Toàn huyện có 24171 hộ, tỉ lệ hộ nghèo chiếm 26,09% (theo số liệu
tổng hợp hộ nghèo cuối 2006 đầu 2007 của UBND huyện Nghi Xuân).
Tổng số lao động là 49867. Trong đó số lượng thiếu việc làm là 5810
người (chiếm tỉ lệ ……)
Là một huyện vừa giáp biển, vừa là đồng bằng, vừa có miền núi, nền
sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản chiếm phần lớn. Theo dự tính về các chỉ
tiêu giá trị sản xuất, TNHH của huyện Nghi Xuân năm 2006 ngành sản xuất
nông nghiệp chiếm 77,4%, ngành thuỷ sản chiếm 64,9%. Tổng sản lượng
lương thực quy thóc năm 2006 là 20.218,13 tấn. Bình quân lương
4
Chuyên đề Xoá đói giảm
nghèo
thực/người/năm đạt202,2kg/người/năm, thu nhập bình quân đạt

350.000đ/người/tháng. So với các huyện khác trong tỉnh và trong toàn quốc
những con số này là thấp.
Về giáo dục đào tạo cả huyện có 3 trường phổ thông trung học, 21
trường THCS, 23 trường tiểu học, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên.
Về Y tế toàn huyện có 1 trung tâm y tế là bệnh viện huyện ở thị trấn và
mỗi xã có 1 trạm xá. Tuy nhiên đội ngũ y bác sĩ tuyến xá thì thiếu trầm trọng.
- Đánh giá chung: Bên cạnh những thuận lợi mà điều kiện tự nhiên
mang lại huyện còn tồn tại nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, tỉ lệ đói nghèo
còn cao (26,09%). Các xã ven biển hay bị lũ lụt, thiên tai. Đặc biệt những
năm gần đây tệ nạn xã hội (đặc biệt là ma tuý tràn vào) gây nhiều khó khăn.
2. Sự cần thiết phải thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo
- Từ tình hình kinh tế - xã hội của huyện ở trên ta thấy tỉ lệ đói nghèo
trong huyện còn cao.
- Nghèo đói và bệnh tật luôn rình rập những người nghèo khổ khi mà
bản thân họ không đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu thì khả năng chống đõ
với rủi ro là rấtkhó.
Do vậy xoá đói giảm nghèo là một yêu cầu bức thiết.
- Thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo cũng chính là thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhằm nâng cao đời sống vật chất
tinh thần người dân đồng thời ổn định mọi mặt nền kinh tế - xã hội huyện nhà.
- Nghèo đói tăng nhanh sẽ cản trở đến sự phát triển của xã hội, sự an
ninh an toàn về cuộc sống người dân. Con người mất dần vị trí, vai trò trong
xã hội, trật tự an ninh xã hội cũng bị đe doạ.
- Từ những phân tích trên ta thấy thực hiện chính sách xoá đói giảm
nghèo là một yêu cầu của huyện nhà đồng thời là nguyện vọng là mong muốn
của người dân.
3. Quan điểm của Đảng và nhà nước về chính sách xoá đói giảm nghèo
Sinh viên thực hiện: Lê Thị
Oanh
5

Đảng và nhà nước ta ngay từ khi ra đời đã quan tâm chăm lo đến mọi
mặt đời sống người dân trong đó đặc biệt chú trọng tới mảng công tác xoá đói
giảm nghèo nhằm ổn định đời sống người dân, mang lại sự an ninh, an toàn
cho xã hội. Điều này được thể hiện trong hệ thống quan điểm và giải pháp
chính sách sau:
- Quan điểm có tính chất định hướng cho chiến lược xoá đói giảm
nghèo:
+ Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế, phải đảm bảo sự
thống nhất với xã hội, giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
+ Gắn xoá đói giảm nghèo với công bằng xã hội ưu tiên đầu tư phát
triển xã nghèo, vùng nghèo, nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo một cách
hợp lí.
+ Phát huy nội lực, nguồn lực tại chỗ là chủ yếu đồng thời tranh thủ sự
trợ giúp từ bên ngoài, quốc tế.
+ Xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo được
xác định là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội,
đoàn thể của cộng đồng và chính bản thân người nghèo.
- Các giải pháp chủ yếu để xoá đói giảm nghèo
+Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách: đầu tư chính sách hạ tầng, định
canh, định cư…
+ Nhóm giải pháp đầu tư hỗ trợ phát triển xoá đói giảm nghèo gồm có
các dự án đầu tư trực tiếp và lồng ghép các chương trình dự án liên quan…
+ Nhóm các giải pháp đảm bảo: điều tra, nghiên cứu, lập danh sách,
tuyên truyền nâng cao nhận thức, tổng kết, sơ kết, đánh giá.
4. Phương hướng chủ trương của huyện trong việc thực hiện công
tác xoá đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng, nhà nước là nhiệm vụ
chung của mọi cấp mọi ngành. Trên cơ sở tinh thần chung đó huyện Nghi
6
Chuyên đề Xoá đói giảm

nghèo
Xuân cũng đã có những phương hướng mục tiêu chung để thực hiện tốt công
tác này.
- Căn cứ vào HĐ 78/2002/NĐ - CP về "tín dụng đối với người nghèo và
các đối tượng cơ sở khác. Đồng thời xuất phát từ thực tiễn Nghi Xuân là một
huyện đồng bằng ven biển, xuất phát điểm của nền kinh tế, cơ sở vật chất kỹ
thuật hạ tầng còn thấp, nguồn lực phát triển của nền kinh tế còn hạn chế.Tỷ lệ
nghèo đói và tình trạng khiếm việc làm còn cao, việc thành lập NHCS của
huyện đã trở thành một kênh tín dụng quan trọng đối với người nghèo.
- Xác định rõ, đúng, đầy đủ hộ đói nghèo theo chuẩn mực mới và thực
hiện xoá đói giảm nghèo đồng bộ với các chương trình kinh tế - xã hội khác.
- Tranh thủ sự chỉ đạo của ban đại diện HĐQT, cấp uỷ chính quyền các
cấp để nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt hoạt động chỉ thị 09/2004/CT
-TTg của TTg chính phủ.
- Thực hiện triệt để phương thức uỷ thác bán phần cho vay hộ nghèo
qua các tổ chức chính trị - xã hội.
- Xây dựng kế hoạch tín dụng trên cơ sở số lượng hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác và nhu cầu thực tế của nhân dân, gắn với khả năng, lợi
thế của địa phương để trình cấp trên, đảm bảo nguyên tắc "vốn đón tay người
cần vốn" đúng chính sách, chế độ và hậu quả kinh tế - xã hội
- Theo tinh thần nghị quyết 16 của ban chấp hành huyện Đảng bộ Nghi
Xuân với mục tiêu giảm tỉ lệ hộ nghèo hàng năm từ 3-5% cần tập trung vào
các lĩnh vực chủ yếu tập trung cho xuất khẩu lao động.
+ Cho vay vốn để tạo việc làm mới cho 6500 lao động
+ Cho vay vốn để tập trung phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (khoảng
36 doanh nghiệp).
+ Kinh tế trang trại, phát triển chăn nuôi
+ Cho vay hỗ trợ làng nghề truyền thống.
II. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI
HUYỆN NGHI XUÂN

Sinh viên thực hiện: Lê Thị
Oanh
7
1. Thực trạng đói nghèo tại huyện Nghi Xuân
8
Chuyên đề Xoá đói giảm
nghèo
Bảng 1: Thực trạng nghèo đói trên địa bàn huyện Nghi Xuân
Năm Hộ nghèo Tỉ lệ %
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
9041
7624
4814
3352
3327
8386
8280
6424
38,8
32,3
20,2
13,9
13,6

34,7
34,33
26,09
(Theo số liệu của phòng Nội vụ lao động - thương binh xã hội huyện
Nghi Xuân).
Qua bảng số liệu trên ta thấy được diễn biến của thực trạng công tác
xoá đói giảm nghèo của huyện.
Tỉ lệ hộ nghèo giảm 6,5% giai đoạn 2000 - 2001, giảm 12,1% giai đoạn
2001 - 2002 giảm 6,3 (giai đoạn 2002 - 2003 giảm 0,3%, giai đoạn 2003 -
2004), giai đoạn 2004 - 2005 tỉ lệ nghèo có sự gia tăng đột biến từ 3327 lên
8386 hộ (tăng 5059 hộ) về mặt tỉ lệ tăng lên 21,1%. Theo sự phân tích của ban
chỉ đạo xoá đói giảm nghèo đây là sự gia tăng đột biến của thời kỳ này mà là
do ở các thời kỳ trước công tác kiểm tra rà soát hộ nghèo chưa được thực hiện
đầy đủ sát sao về nguyên nhân bỏ sót nhiều hộ nghèo không đưa vào danh
sách mà các nguyên nhân chủ yếu là
+ Do ấn định tỷ lệ % của xoá đói giảm nghèo huyện xuống cho xã nền
bắt buộc xã phải loại bỏ cho đúng tỉ lệ ấn định
+ Xây dựng làng, xã văn hoá hơn phải giảm bớt tỉ lệ hộ nghèo.
+ Một số gia đình chính sách có công với cách mạng có thu nhập thấp
nhưng vì lí do không có nhu cầu vay vốn, không có con em học hành… thì lại
bị loại ra khỏi danh sách hộ nghèo.
Sinh viên thực hiện: Lê Thị
Oanh
9
+ Phương pháp xác định hộ nghèo thiếu khoa học, không xem xét đầy
đủ và toàn diện các chỉ tiêu phân loại của nhà nước. Sự tuỳ tiện trong việc chỉ
đạo của các cấp thôn, xóm. Dẫn đến nhìn nhận sai lệch về tiêu chí nghèo của
nhà nước, ảnh hưởng đến chính sách xoá đói giảm nghèo.
Giai đoạn 2005 - 2006 giảm 0,37% giai đoạn 2006 - 2007 giảm 8,24%.
Như vậy ta thấy tỉ lệ đói nghèo trong huyện giai đoạn này vẫn còn

26,09% là khá cao.
Bảng 2: Tỉ lệ nghèo phân theo các địa bàn trong huyện
Địa bàn
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Số
hộ
tỉ lệ
Số
hộ
tỉ lệ
Số
hộ
tỉ lệ
Số
hộ
tỉ lệ
Số
hộ
tỉ lệ
Số
hộ
tỉ lệ
Thành thị
Nông thôn
Miền núi
958
5352
2731
35,4
43

33,5
857
4469
2298
29,9
36
27,7
508
2626
1680
17,4
21
20
351
1758
1143
11,8
14,7
13,5
386
1889
1052
12,7
14,8
12,3
837
4756
665
28,1
35,6

25,4
(Theo nguồn số liệu của phòng thống kê huyện Nghi Xuân)
- Qua bảng số liệu trên ta thấy số hộ nghèo tập trung chủ yếu ở vùng
nông thôn. Bởi Nghi Xuân có hầu hết địa bàn là nông thôn miền núi chiếm ít
hơn. Chênh lệch địa bàn nông thôn - thành thị là 7,6% nông thôn miền núi là
9,5% (chênh lệch tỉ lệ nghèo đói).
Năm 2000, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn là 43%, miền núi là 33,5%, thành
thị là 35,4%, năm 2001 tỉ lệ này giảm tương ứng là 7% - 5,8% - 5,5%. Các
giai đoạn 2001, 2002, 2003, 2004 tỉ lệ hộ nghèo đều giảm xuống. Đó là do có
sự quan tâm của UBND huyện và việc tiếp tục triển khai thực hiện công tác
xoá đói giảm nghèo nên số hộ nghèo đói đã giảm xuống.
- Từ sự nhìn nhận chung về tình trạng đói nghèo của toàn huyện, sự so
sánh tương quan giữa các địa bàn cho thấy tỉ lệ nghèo đói của huyện còn cao
đặcb iệt tập trung ở vùng nông thôn. Các xã nông thôn chiếm đến 16/19 đơn
vị hành chính huyện. Người dân ngoài thu nhập chính là sản xuất nông
nghiệp. Trừ một số xã ven biển như: Xuân Hội, Xuân Thành bàm nghề đánh
10

×