Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

luận văn đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xdcb

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.9 KB, 106 trang )








LUẬN VĂN:
Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây
dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư XDCB






Lời nói đầu

Lĩnh vực Đầu tư xây dựng cơ bản đã và đang khẳng định vai trò quan trọng, có
tính quyết định đối với quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước thông qua
quá trình tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội. Chúng ta quản lý hoạt
động này thông qua việc hình thành và liên tục hoàn thiện một cơ chế quản lý- cơ chế
quản lý đầu tư và xây dựng.
Là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi phải hy sinh một lượng rất lớn nguồn lực và chi
phí xã hội, đồng thời do ảnh hưởng và tầm quan hệ rộng lớn cũng như tính chất phức
tạp trong quản lý, cho nên không phảI lúc nào việc hy sinh những nguồn lực, những
chi phí này cũng đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế-xã hội. Thực tế đang đặt ra
bàI toán phảI giảI quyết, đó là bàI toán về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB.
Nói cách khác, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng của chúng ta đang đặt ra yêu
cầu phảI hoàn thiện. Và việc hoàn thiện này là một quá trình liên tục. Mỗi cơ chế quản


lý được hoàn thiện, nhưng ngay sau đó việc áp dụng vào thực tế lại phát sinh những
mâu thuẫn mới. GiảI quyết những mâu thuẫn này sẽ đưa cơ chế hoàn thiện thêm một
bước nữa, cứ như vậy, cơ chế luôn vận động, đổi mới, góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển. Trong lĩnh vực đầu tư XDCB, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB chính là mục
tiêu mà cơ chế quản lý đầu tư xây dựng hướng tới, cũng như là tiêu thức quan trọng
đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế này.
Hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau. Việc giả quyết vấn đề này là hết
sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Với lý do như vậy, em đã
chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư XDCB”.









Chương I:
Lý luận chung về đầu tư và đầu tư
xây dựng cơ bản-cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng.
=======*=======
I. đầu tư phát triển:
1. Đầu tư-khái niệm và vai trò:
Đầu tư, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó, nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư, là một định nghĩa, một phạm trù, một hành động, nó thể hiện các mối
quan hệ nhân quả tồn tại phổ biến trong hiện thực. Những mối quan hệ này là tất yếu

do bản chất hoạt động đầu tư, do mối quan hệ tất yếu giữa tính mục đích và sự hy sinh
các nguồn lực, do bản thân quá trình thu hút các nguồn lực cũng như thực hiện để đạt
được mục đích. Mối quan hệ này là tất yếu trong tính toàn diện, phổ quát của hoạt
động đầu tư.
Định nghĩa đầu tư trên, như vậy, là định nghĩa có nội hàm hẹp nhất mà ở nhiều
giác độ, nhiều tiêu thức khác nhau, bằng cách làm phong phú thêm nội hàm, ta có thể
xác định được nhiều hoạt động khác nhau mang bản chất là hoạt động đầu tư, ví dụ
như: đầu tư tăng trưởng, đầu tư phát triển, đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư
mở rộng, đầu tư chiều sâu Các hoạt động đầu tư cần thiết phải hy sinh các nguồn lực,
và các kết quả nhất định sẽ được tạo ra.
Nguồn lực dùng để tiến hành hoạt động đầu tư có thể là những tài sản hữu hình
như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng
chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết
thương mại Các doanh nghiệp còn có thể đầu tư bằng cổ phần, trái phiếu, các quyền
sở hữu tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt kinh


tế như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên các nguồn lực này được kết
hợp với nhau trong quá trình đầu tư nhằm tạo ra các tài sản, những giá trị, những kết
quả mong đợi, tức là mục tiêu đầu tư nói chung.
Những kết quả, những giá trị này có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính
(tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật ) và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất chất lượng cao hơn trong nền sản xuất
xã hội. Những kết quả đó, và do đó là cách thức tiến hành hoạt động đầu tư đáp ứng
được các mục tiêu của chủ thể đầu tư và xã hội đến đâu là tiêu chí quan trọng đánh giá
tính hiệu quả, hợp lý và đúng đắn của quyết định đầu tư và quá trình đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế quan trọng ở cấp độ vi mô các cá nhân, tổ chức
và doanh nghiệp cũng như ở cấp độ vĩ mô, ở phạm vi nền kinh tế-xã hội.
Đối với một doanh nghiệp, hoạt động đầu tư là công việc khởi đầu quan trọng
nhất và cũng là khó khăn nhất của quá trình sản xuất, kinh doanh. Những quyết định

của ngày hôm nay về lĩnh vực, quy mô, hình thức, thời điểm đầu tư sẽ chi phối quá
trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, chất lượng của
các quyết định đầu tư sẽ quyết định sự thịnh vượng hay xuống dốc của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ
nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế,
tạo ra sản phẩm, dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp ứng các nhu cầu của nền
kinh tế-xã hội thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ
quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ và chất lượng của tăng trưởng và phát triển
kinh tế-xã hội cũng như mức độ cải thiện đời sống trong tương lai. Vai trò này của đầu
tư hay mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng có thể được biểu hiện qua mô hình tăng
trưởng nền kinh tế đơn giản sau đây (mô hình Harrod-Domar):

I
ICOR=
ΔGDP
(1)
Trong đó: ICOR là tỉ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế;


I là vốn đầu tư;


GDP là mức tăng tổng sản phẩm quốc gia.
Từ (1) có thể viết:

I=ICOR×
ΔGDP
(2)

I

ΔGDP
=ICOR×
GDP GDP
(3)
Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi thì tỉ lệ vốn đầu tư so với GDP sẽ quyết
định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tỉ lệ đầu tư càng cao thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế càng cao và ngược lại.
2. Đầu tư phát triển:
2.1/ Khái niệm:
Hoạt động đầu tư phát triển (còn gọi là đầu tư phát triển) là quá trình sử dụng
vốn đầu tư để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm
tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu
để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội.
2.2/ Đặc điểm:
 Đầu tư phát triển thường đòi hỏi lượng vốn lớn và vốn này nằm khê đọng
không vận động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Do đặc điểm này, cần phải tính toán kỹ khi tiến hành công cuộc đầu tư, tránh
những thiệt hại hay tổn thất mà công cuộc đầu tư có thể gặp phải và cần phải bổ vốn
theo tiến độ phù hợp đảm bảo tính liên tục và giảm lượng vốn khê đọng.
 Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, thể hiện:
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó
phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Trong
quá trình đó những tác động của môi trường đầu tư có thể làm những dự đoán của chủ


thể đầu tư bị sai lệch do vậy cần phải quản lý một cách nghiêm ngặt và có sự điều
chỉnh kịp thời quá trình đầu tư.
- Thời gian để vận hành các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn hoặc cho đến khi
thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra thường cũng kéo dài nhiều năm tháng, có dự án
thời gian tồn tại các kết quả mà đầu tư tạo ra là vĩnh viễn (như các công trình văn hoá,

kiến trúc lớn ở nước ta cũng như trên thế giới ).
 Quá trình đầu tư, cũng như kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố bất định theo thời gian và của điều kiện không gian tự nhiên,
kinh tế-xã hội.
 Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
sẽ hoạt động ở ngay nơi mà chúng được tạo dựng nên do đó các điều kiện về địa lý, địa
hình sẽ ảnh hưởng không chỉ tới quá trình thực hiện đầu tư mà còn ảnh hưởng tới sự
hoạt động và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư sau này.
 Đầu tư phát triển, do bản chất của nó, là hoạt động chịu tác động của nhiều
yếu tố rủi ro: do đó cần có các biện pháp để hạn chế cũng như ngăn ngừa rủi ro, như
nhận diện các yếu tố của rủi ro có thể ảnh hưởng tới dự án, phân tán rủi ro đó bằng các
hình thức như bảo hiểm, và quản lý chặt chẽ các rủi ro, hạn chế rủi ro ở mức thấp
nhất.
2.3/. Vai trò của đầu tư phát triển:
2.3.1/ Đối với nền kinh tế.
 Đầu tư vừa tác dụng đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền
kinh tế:
Về mặt cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền
kinh tế (thường chiếm khoảng từ 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước
trên thế giới-số liệu của WB). Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, khi
tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo


sản lượng cân bằng tăng theo và dẫn đến giá và các đầu vào của đầu tư cũng tăng theo.
Điểm cân bằng cung-cầu dịch chuyển đi lên.
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi
vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng
tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép
tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa.
Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng

thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
 Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:
Sự tác động không đông thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và
đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay
giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định
của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi đầu tư tăng sẽ tăng công ăn việc làm dẫn đến giảm thất nghiệp,
nâng cao đời sống của nhân dân, do đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội Nhưng bên
cạnh đó thì do tăng đầu tư đến mức nào đó sẽ dẫn đến lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực
đến xã hội.
Giảm đầu tư: hạn chế được lạm phát, đời sống nhân dân ổn định, nhưng việc
giảm đầu tư, ngược lại cũng làm giảm công ăn việc làm, tình trạng thất nghiệp tăng,
làm ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.
Vì vậy trong quản lý cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách
nhằm hạn chế tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ
nền kinh tế.
 Đầu tư tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở
mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với GDP, tuỳ thuộc vào hệ
số ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay


đổi theo trình độ phát triển kinh tế, phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế, vào hiệu quả
đầu tư trong các nghành, các vùng lãnh thổ cũng như hiệu quả của cơ chế chính sách
kinh tế của nước đó nói chung. Như công thức (3) ở trên thì, nếu ICOR không đổi,
mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
 Đầu tư ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với qui luật phát triển, với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Từ đó đạt được tốc độ tăng
trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.

- Tạo ra được sự cân đối trong phát triển kinh tế-xã hội giữa các ngành các
vùng, các lĩnh vực.
- Phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng ngành.
 Đầu tư tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước:
Công nghệ về nội dung gồm 4 yếu tố: trang thiết bị, kỹ năng của con người,
thông tin, tổ chức thể chế. Do đó xét về nội dung thì để tăng cường khả năng khoa học
và công nghệ của đất nước cần phải đầu tư mua sắm trang thiết bị, thu thập thông tin,
đào tạo nguồn nhân lực
Xét về phương thức để có công nghệ chúng ta cũng thấy có hai cách đó là tự
nghiên cứu triển khai hoặc đi mua, cả hai cách đều phải yêu cầu có vốn để đầu tư.
Như vậy, đầu tư có quan hệ chặt chẽ đối với quá trình cải tạo, đổi mới, tăng
cường khả năng khoa học và công nghệ của lực lượng sản xuất xã hội, của đất nước.
2.3.2/ Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tư, trước
hết có vai trò tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào-vị lợi
hay vô vị lợi. Trong quá trình hoạt động các cơ sở vật chất-kỹ thuật này bị hao mòn, hư
hỏng và phải đổi mới để duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thường, đồng thời phải
luôn đổi mới cho thích ứng với sự tiến bộ của khoa học-kỹ thuật, chống lại những hao


mòn vô hình, đáp ứng lại những nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội. Câu trả
lời là tiến hành đầu tư.
Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ là một công cụ cạnh tranh
và hơn thế nữa quyết định sự thành bại của cơ sở. Đầu tư làm tăng hiệu quả sản xuất,
hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận cho đơn vị.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động công ích, không vì mục tiêu lợi nhuận),
việc tiến hành đầu tư là tất yếu để duy trì và tăng cường các cơ sở vật chất-kỹ thuật
phục vụ cho mục tiêu hoạt động bình thường của mình.
II. đầu tư xây dựng cơ bản:
1. Khái niệm và vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản:

1.1/ Khái niệm:
Đầu tư xây dựng cơ bản ( XDCB ) là hoạt động sử dụng vốn đầu tư để tiến hành
thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh
tế thông qua các hình thức: xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá và khôi phục
các tài sản cố định.
Đầu tư XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển
nói riêng. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản (từ việc khảo
sát, quy hoạch đầu tư, thiết kế và xây dựng cho đến khi lắp đặt thiết bị để hoàn thiện
việc tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
các tài sản cố định cho nền kinh tế.
Như vậy, đầu tư XDCB không phải là hoạt động sản xuất vật chất mà là phạm
trù kinh tế tài chính xuất hiện trong quá trình tái sản xuất các tài sản cố định. Nhưng,
XDCB là một nghành sản xuất vật chất, tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho xã hội, nó
quyết định đến sự phát triển đất nước và quy mô sản xuất của các nghành có liên quan.
1.2/ Vai trò: Đối với bất kỳ một phương thức sản xuất xã hội nào, ở mọi thời
kỳ phát triển đều tương ứng với một cơ sở vật chất-kỹ thuật nhất định và dựa trên cơ


sở vật chất-kỹ thuật ấy. Sự hiện đại hoá liên tục cơ sở vật chất-kỹ thuật là điều kiện
ban đầu, là cơ sở của mọi biến chuyển kinh tế-xã hội. Quá trình hiện đại hoá cơ sở vật
chất-kỹ thuật của nền sản xuất xã hội có được nhờ việc tiến hành các hoạt động đầu tư
XDCB.
Đầu tư XDCB dù ở lĩnh vực nào, ở nước ta hay trên thế giới, tốc độ và tỷ lệ đầu
tư XDCB ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong đầu tư. Quá trình đầu tư XDCB vô cùng
phức tạp, liên nghành, do đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các
cơ quan chức năng, ban nghành và của nhiều lĩnh vực.
Sản phẩm đầu tư XDCB và quá trình đầu tư, do bản chất là hoạt động đầu tư
phát triển nên có tác dụng làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường đổi
mới công nghệ, tạo ra và liên tục hiện đại hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất
xã hội. Những thành quả của đầu tư XDCB làm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện

áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật và công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng
các nguồn lực, tạo công ăn việc làm, đáp ứng các yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước; tạo
điều kiện tăng cường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đầu tư XDCB còn là điều kiện để tạo ra một sự đổi mới trong cơ chế quản lý
nền kinh tế-xã hội thích hợp với từng giai đoạn phát triển, và nói chung, đầu tư XDCB
còn là một trong những nhân tố quan trọng nhất của quá trình chuyển biến phương
thức sản xuất cũng như hình thái kinh tế-xã hội của xã hội.
2. Quá trình hình thành công trình xây dựng và các lực lượng tham gia có
liên quan:
2.1/ Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa rộng, quá trình hình thành công trình xây dựng được bắt đầu từ giai
đoạn lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ
đến giai đoạn đưa công trình vào vận hành, sử dụng. Quá trình này bao gồm các giai
đoạn sau:


 Nhà nước tiến hành lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch
tổng thể sử dụng lãnh thổ cho các mục đích sản xuất-kinh doanh, dịch vụ và các mục
đích sinh hoạt xã hội khác.

 Trên cơ sở quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ, Nhà nước tiến hành quy
hoạch tổng thể về mặt xây dựng các công trình trên toàn lãnh thổ, bao gồm các khu
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, các cụm đô thị và nông thôn, các công trình cơ sở
hạ tầng kinh tế và văn hoá-xã hội…

 Dựa trên chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch tổng thể sử dụng
lãnh thổ, quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng, nhu cầu thị trường và khả năng, thực
lực của Nhà nước, của các doanh nghiệp cũng như của các tầng lớp dân cư sẽ hình
thành nên các dự án đầu tư xây dựng của Nhà nước, của các doanh nghiệp và dân cư.


Như vậy, theo nghĩa rộng, quá trình hình thành công trình xây dựng có thể
được mô tả như sau:






Sơ đồ: Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa rộng.





2.2/ Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa hẹp:
Theo nghĩa hẹp, quá trình hình thành công trình xây dựng bắt đầu từ giai đoạn
chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư xây dựng và đưa công trình vào vận
hành, sử dụng. Theo ” Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” hiện hành thì quá trình
đầu tư xây dựng gồm các giai đoạn sau: ( trình tự, thủ tục đầu tư và xây dựng)
2.2.1/ Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, các nhiệm vụ phải thực hiện như sau:
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
Kết thúc xây
dựng đưa công
trình vào
s
ử dụng

Thực hiện đầu
tư (xây dựng

công trình)
Chuẩn bị
đầu tư
Nhà nước lập quy hoạch tổng
thể về mặt xây dựng
Nhà nước lập chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội và quy
hoạch tổng thể sử dụng lãnh
th
ổ.

Hình thành các
dự án đầu tư
và xây dựng cơ
bản
Khả năng đầu tư
của Nhà nước,
các doanh nghiệp
và xã hội
Nhu cầu của
thị trường,
Nhà nước và xã
hội


- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước hoặc ngoài nước để tìm
nguồn cung ứng vật tư, thiết bị, nơi tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh, xem xét
các khả năng có thể huy động các nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
- Lập dự án đầu tư.

- Thẩm đinh dự án để quyết định đầu tư.
- Gửi hồ sơ dự án đến nơi quy định.
2.2.2/ Giai đoạn thực hiện đầu tư, bao gồm các nhiệm vụ:
- Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước (đối với các dự án có
sử dụng đất).
- Xin giấy phép xây dựng (nếu cần phải có giấy phép xây dựng) và giấy phép
khai thác tàI nguyên (nếu có).
- Tổ chức đền bù giảI phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch di dân, phục hồi và
chuẩn bị mặt bằng xây dựng (nếu có).
- Mua sắm thiết bị và công nghệ.
- Thực hiện khảo sát, thiết kế xây dựng.
- Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình.
- Tiến hành thi công, xây lắp công trình.
- Theo dõi, kiểm tra và thực hiện các hợp đồng.
- Quản lý kĩ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng.
- Vận hành thử nghiệm, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực
hiện bảo hành sản phẩm.
2.2.3/ Giai đoạn kết thúc xây dựng và đưa dự án vào khai thác, sử dụng:


- Nghiệm thu, bàn giao công trình.
- Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình.
- Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình.
- Bảo hành công trình.
- Quyết toán vốn đầu tư.
- Phê duyệt quyết toán. Đối với dự án xây dựng các khu tập trung, dự án BOT,
BT, BTO, ngoàI các bước trên thì chủ đầu tư còn phảI làm thủ tục `chuyển giao sau
khi kết thúc xây dựng hoặc sau khi hết thời gian khai thác sử dụng theo hợp đồng kinh
doanh.
2.3/ Các lực lượng tham gia vào quá trình hình thành công trình xây

dựng:
Có các lực lượng sau đây tham gia vào quá trình hình thành công trình xây
dựng:
- Chủ đầu tư (đóng vai trò chính).
- Các doanh nghiệp tư vấn.
- Các doanh nghiệp xây lắp.
- Các doanh nghiệp cung ứng thiết bị và vật tư cho dự án.
- Các tổ chức tài trợ, ngân hàng.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng.
- Các tổ chức khác
3. Phân biệt một số kháI niệm về các lĩnh vực và các nghành có liên quan
đến đầu tư và xây dựng:


Để thuận tiện cho việc nghiên cứu các vấn đề kinh tế và quản lý xây dựng cơ
bản, cần phảI phân biệt một số kháI niệm về các lĩnh vực và các nghành có liên quan
đến đầu tư và xây dựng sau đây:
3.1/ Lĩnh vực đầu tư và xây dựng:
Lĩnh vực đầu tư xây dựng là một lĩnh vực hoạt động liên nghành, bao gồm tất
cả các bộ phận có liên quan đến việc lập và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, trong
đó bao gồm các lực lượng tham gia chủ yếu như: chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn đầu tư
xây dựng, các nhà thầu xây dựng, các tổ chức cung ứng vật tư, thiết bị cho dự án, các
tổ chức ngân hàng và tài trợ cho dự án, các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây
dựng.
3.2/ Nghành công nghiệp xây dựng:
Nghành công nghiệp xây dựng bao gồm các doanh nghiệp xây dựng chuyên
nhận thầu thi công xây dựng cho các chủ đầu tư xây dựng ở mọi lĩnh vực. ở Việt Nam
hiện nay nghành công nghiệp xây dựng bị phân tán và do nhiều nghành và Bộ sản xuất
quản lý, trong đó Bộ Xây dựng được Nhà nước giao cho nhiệm vụ quản lý chủ yếu.
3.3/ Nghành tư vấn đầu tư và xây dựng:

Nghành tư vấn đầu tư và xây dựng chuyên nhận thầu thực hiện các công việc
của chủ đầu tư giao như lập dự án đầu tư xây dựng, khảo sát, thiết kế, giám sát công
việc xây dựng Đây cũng là một lĩnh vực đòi hỏi những kiến thức chuyên nghành tổng
hợp.
3.4/ Các nghành sản xuất cung cấp đầu vào cho dự án đầu tư xây
dựng:
Các nghành sản xuất cung cấp đầu vào cho dự án đầu tư xây dựng bao gồm các
nghành chủ yếu sau:
3.4.1/ Nghành công nghiệp vật liệu xây dựng: Có nhiệm vụ chuyên sản xuất các
loại vật liệu xây dựng, bán thành phẩm và cấu kiện xây dựng để bán cho nghành công


nghiệp xây dựng. Về bản chất nghành này phải được coi là một nghành sản xuất riêng
biệt. ở Việt Nam, nghành này hiện còn được quan lý chung với nghành công nghiệp
xây dựng.
3.4.2/ Nghành cơ khí xây dựng: Có nhiệm vụ sản xuất các máy móc và thiết bị
xây dựng (bao gồm cả công việc sủa chữa máy móc xây dựng) để cung cấp cho nghành
công nghiệp xây dựng.
3.4.3/ Các nghành cung ứng vật tư, thiết bị cho dự án đầu tư xây dựng: ở đây
phải kể đến các nghành tài chính, ngân hàng, thông tin, đào tạo phục vụ đầu tư xây
dựng.
4. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và sản xuất xây dựng:
4.1/ Đặc điểm của sản phẩm xây dựng:
Trước hết ta phân biệt các kháI niệm có liên quan sau đây đến sản phẩm xây
dựng:
4.1.1/ Sản phẩm đầu tư xây dựng: Sản phẩm đầu tư xây dựng là các công trình
đã hào chỉnh (bao gồm cả việc lắp đặt thiết bị, công nghệ ở bên trong). Sản phẩm đầu
tư xây dựng là kết tinh của các thành quả khoa học-công nghệ và tổ chức sản xuất của
xã hội ở một thời kỳ nhất định. Nó là một sản phẩm có tính chất liên nghành, trong đó
có những lực lượng tham gia tạo thành sản phẩm chủ yếu: chủ đầu tư; các doanh

nghiệp nhận thầu xây lắp; các doanh nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng; các doanh nghiệp
sản xuất các yếu tố đầu vào cho dự án như thiết bị công nghệ, vật tư thiết bị xây dựng;
các tổ chức tổ chức dịch vụ ngân hàng và tàI chính; các cơ quan quản lý Nhà nước có
liên quan.
4.1.2/ Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng:
Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần kiến tạo
các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che, nâng đỡ và phần lắp đặt các thiết bị, máy
móc cần thiết của công trình để đưa chúng vào hoạt động.


Trong khi đơn vị đo của sản phẩm đầu tư xây dựng là tổng vốn đầu tư thực hiện
(nếu tính theo giá trị) hoặc là công suất sản xuất hay năng lực dịch vụ hoặc phục vụ đã
đưa vào sử dụng (nếu tính theo hiện vật), thì đơn vị đo của sản phẩm xây dựng của
doanh nghiệp xây dựng là giá trị dự toán xây lắp đã hoàn thành bàn giao (nếu tính theo
giá trị) hoặc là số
2
m
hay
3
m
khối tích xây dựng (nếu tính theo hiện vật) đã hoàn thành
và bàn giao.
Vì các công trình xây dựng thường rất lớn và phảI xây dựng trong nhiều năm,
nên để phù hợp với công việc thanh, quyết toán và cấp vốn người ta phân ra sản phẩm
xây dựng trung gian và sản phẩm xây dựng cuối cùng. Sản phẩm xây dựng trung gian
có thể là các gói công việc xây dựng, các giai đoạn hay đợt xây dựng đã hoàn thành, đã
bàn giao thanh toán. Sản phẩm xây dựng cuối cùng là các công trình xây dựng hay
hạng mục công trình xây dựng đã hoàn thành và có thể bàn giao đưa vào sử dụng.
Để phản ánh thực chất và nỗ lực đóng góp của bản thân các doanh nghiệp xây
dựng, sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng còn được tính theo chỉ tiêu

giá trị sản phẩm thuần tuý của các doanh nghiệp này, tức là đem giá trị dự toán xây lắp
trừ đI chi phí vật liệu, năng lượng và khấu hao ở tất cả các khoản mục của giá trị dự
toán xây lắp.
4.1.3/ Công trình xây dựng:
Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp, được tạo thành bởi
vật liệu xây dựng, thiết bị công nghệ, lao động và gắn liền với đất, khoảng không, mặt
nước, mặt biển hay thềm lục địa.
4.1.4/ Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng:
Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng lớn đến phương thức tổ
chức sản xuất và quản lý kinh tế trong nghành xây dựng, làm cho các công việc này có
nhiều đặc điểm khác biệt so với các nghành khác. Sản phẩm xây dựng với tư cách là
các công trình xây dựng hàon chỉnh thường có các đặc điểm sau:


 Sản phẩm xây dựng là những công trình, nhà cửa được xây dựng và sử
dụng tại chỗ và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ. Điều này làm cho sản xuất
xây dựng có tính lưu động cao và thiếu ổn định.
 Sản phẩm xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương nơI đặt
công trình xây dựng. Do đó, nó có tính đa dạng và cá biệt cao về công dụng, cách cấu
tạo và cách chế tạo.
 Sản phẩm xây dựng thường có kích thước và chi phí lớn, có thời gian kiến
tạo và thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, những sai lầm về xây dựng có thể gây nên các
lãng phí lớn, tồn tại lâu dàI và khó sửa chữa.
 Sản phẩm xây dựng thuộc phần kết cấu xây dựng chủ yếu đóng vai trò
nâng đỡ và bao che, không tác động trực tiếp lên đối tượng lao động trong quá trình
sản xuất, trừ một số loại công trình đặc biệt như đường ống, công trình thuỷ lực, lò
luyện gang thép…
 Sản phẩm xây dựng liên quan đến nhiều nghành cả về phương diện cung
cấp các yếu tố đầu vào, thiết kế và chế tạo sản phẩm, cả về phương diện sử dụng sản
phẩm của xây dựng làm ra.

 Sản phẩm xây dựng có liên quan nhiều đến cảnh quan và môI trường tự
nhiên, do đó liên quan nhiều đến lợi ích của cộng đồng, nhất là đến dân cư địa phương
nơI dặt công trình.
 Sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội,
văn hoá nghệ thuật và quốc phòng. Tuy nhiên lại mang tính cá biệt về ý tưởng thiết kế,
giá thành…
4.2/ Đặc điểm của sản xuất xây dựng:
 Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo vùng lãnh
thổ: vì trong xây dựng, khác với nhiều nghành khác, con người và công cụ lao động
luôn phảI di chuyển theo các công trường, còn sản phẩm xây dựng thì cố định một nơi.


 Vì sản phẩm xây dựng có tính đa dạng, cá biệt cao, có chi phí lớn, nên sản
xuất xây dựng phảI tiến hành theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu thầu
hoặc chỉ định thầu cho từng công trình một.
 Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường dài.
 Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp đòi hỏi phảI có nhiều lực lượng
hợp tác tham gia thực hiện. Khác với nhiều nghành khác, trong nghành xây dựng, các
đơn vị tham gia xây dựng công trình phảI cùng nhau đến công trường với một diện tích
làm việc thường là bị hạn chế để thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất
định về thời gian và không gian.
 Sản xuất xây dựng phảI tiến hành ngoàI trời và chịu nhiều ảnh hưởng của
thời tiết và các điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội nơI diễn ra quá trình thi công xây
dựng.
 Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do địa điểm
xây dựng đem lại. Cùng một công trình xây dựng nhưng nếu tiến hành xây dựng ở
những nơI có sẵn nguồn vật liệu xây dựng, nhân công và các cơ sở cho thuê may xây
dựng thì nhà thầu trong trường hợp này có cơ hội cao hơn để thu được lợi nhuận so với
các địa điểm xây dựng khác.
 Công nghệ xây lắp chủ yếu là quá trình áp dụng các quá trình cơ học để

giảI quyết vấn đề vận chuyển ngang và vận chuyển lên cao, hoặc để xâm nhạp vào
trong lòng đất. Việc áp dụng tự động hoá qúa trình xây lắp phát triển chậm, tỷ lệ lao
động thủ công chiếm cao.
 Những đặc điểm của sản xuất xây dựng trong điều kiện tự nhiên và xã hội
của Việt Nam:
- Về điều kiện tự nhiên: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong
điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, điều kiện địa chất, thuỷ văn phức tạp, đất nước dàI, hẹp
và còn nhiều nơI chưa được khai phá, có một số nguồn vật liệu xây dựng phong phú.
Do đó, các giảI pháp xây dựng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của các yếu tố này.


- Về điều kiện kinh tế: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong
điều kiện của một nền kinh tế đang phát triển, còn nhiều mặt yếu kém so với các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế hiện nay, nghành xây dựng của Việt Nam
đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có nhiều nguy cơ và thách thức.
- Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang
quyết định phương hướng và tiến độ phát triển của nghành xây dựng Việt Nam.
III. vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
1. Khái niệm vốn đầu tư XDCB :
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao
gồm: Chi phí cho việc khảo sát, qui hoạch xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí
cho thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt máy móc, thiết bị và các chi phí
khác được ghi trong tổng dự toán.
Vốn đầu tư XDCB được vật hoá để hình thành nên cơ sở vật chất-kỹ thuật cho
nền kinh tế, là điều kiện của tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản
cố định cho nền kinh tế, có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã
hội. Nhưng cần lưu ý rằng, có một số công tác mà xét về tính chất lẫn nội dung kinh tế
thì thuộc về hoạt động XDCB, nhưng chi phí của chúng thì lại không được tính vào
vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đó là các hoạt động sau đây:

 Hoạt động sửa chữa lớn nhà cửa, vật chất kiến trúc.
 Các chi phí khảo sát thăm dò tài nguyên, địa chất nói chung trong nền kinh
tế mà không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng công trình cụ thể nào cả.
Mặt khác có một số khoản mục, tuy không làm tăng giá trị tài sản cố định
nhưng chi phí của chúng vẫn được tính vào vốn đầu tư XDCB:
 Chi phí cho việc mua sắm công cụ, dụng cụ không đủ tiêu chuẩn là TSCĐ.
 Chi phí đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân.


2. Bản chất và nội dung kinh tế của vốn đầu tư XDCB:
2.1/ Bản chất và vai trò của vốn đầu tư XDCB:
Tích luỹ là nguồn chủ yếu của tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ là sử dụng có kế
hoạch một phần thu nhập quốc dân để mở rộng sản xuất, để xây dựng xí nghiệp mới,
cải tạo, trang bị lại kỹ thuật các xí nghiệp hiện có, để tăng các tài sản cố định không
sản xuất và tạo lập các dự trữ vật tư, tài chính. Phần thu nhập quốc dân dùng để tích
luỹ được tạo nên bằng sản phẩm thặng dư, được hình thành một cách có kế hoạch và
nhịp độ tăng của nó trước hết phụ thuộc vào nhịp độ tăng tuyệt đối khối lượng thu
nhập quốc dân. Trong những điều kiện như nhau, mức tích luỹ sản xuất phụ thuộc
không chỉ vào khối lượng thu nhập quốc dân, mà còn phụ thuộc vào sự phân phối thu
nhập quốc dân thành tích và tiêu dùng.
Quá trình tích luỹ có tác dụng to lớn đến việc hình thành cơ sở vật chất-kỹ thuật
của nền kinh tế. Để nâng cao không ngừng mức tiêu dùng của nhân dân, xã hội cần
phải thường xuyên mở rộng sản xuất và do đó cần phải tăng tích luỹ. Tích luỹ không
chỉ kéo theo những sự thay đổi về số lượng trong các yếu tố vật chất của lực luợng sản
xuất, mà còn có tác động đến tất cả moi lĩnh vực hoạt động của con người, tạo điều
kiện để giảm nhẹ lao động, nâng cao nhận thức và trình độ nghề nghiệp của mọi người
lao động.
Tích luỹ trước hết được thực hiện thông qua đầu tư XDCB. Theo nội dụng kinh
tế, đầu tư XDCB là sử dụng một phần tổng sản phẩm xã hội, mà trước hết là quỹ tích
luỹ để tái sản xuất tài sản xuất tài sản cố định. Vốn đầu tư đầu tư XDCB như đã nói ở

trên là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: Chi phí cho việc khảo
sát, qui hoạch xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí cho thiết kế và xây dựng, chi
phí mua sắm và lắp đặt máy móc, thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự
toán. Vốn đầu tư đầu tư XDCB và vốn cố định là những khía niệm không giống nhau
cả về nội dung kinh tế lẫn trong sự biểu hiện giá trị. Sự khác nhau cơ bản giữa chúng
thể hiện ở chỗ, vốn đầu tư đầu tư XDCB là vốn cố định dưới dạng tiềm tàng, còn vốn
cố định là vốn đầu tư XDCB đã được khai thác, sử dụng. Biểu hiện vật chất của vốn cố


định là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, dụng cụ điều
chỉnh, đo lường, dụng cụ sản xuất và kinh doanh có giá trị và thời gian sử dụng ở mức
quy định.
Như vậy, ngoài phần vốn đầu tư XDCB huy động từ nước ngoài, thì vốn đầu tư
XDCB ở nước ta được hình thành từ việc phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân. Phần lớn thu nhập quốc dân được sử dụng để tích luỹ, điều đó làm tăng khả
năng đầu tư XDCB vào nền kinh tế và tăng năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. ở
Việt Nam cơ sở vật chất-kỹ thuật đã được xây dựng ngay từ những năm kháng chiến
chống Pháp, Mĩ. Trong khu vực sản xuất vật chất, chúng ta đã tập trung đầu tư XDCB
và hình thành nên cơ sở vật chất-kỹ thuật của 2 nghành là nông nghiệp và công nghiệp,
trong khu vực phi sản xuất vật chất, vốn đầu tư được tập trung nhiều vào các nghành
giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, khoa học. Những cơ sở công nghiệp quan trọng như
điện, than, cơ khí, luyện kim, hoá chất, dệt, may mặc, các công trình thuỷ lợi, hệ thống
đường giao thông, các trường học, bệnh viện. Sau ngày thống nhất, việc xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh, nguồn vốn đầu tư XDCB
đã được huy động cả ở những khu vực không phải là kinh tế Nhà nước, đặc biệt là vốn
đầu tư thu hút từ đầu tư nước ngoài đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Đầu tư tập trung, đúng hướng đã làm
tăng năng lực sản xuất của nhiều nghành kinh tế quốc dân. Đó là các cơ sở của nghành
điện ( thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, và hiện nay là nhà máy thuỷ
điện có tầm cỡ thế giới-thuỷ điện Sơn La đang được xây dựng), mạng lưới điện đã

được phủ hầu hết trên phạm vi cả nước. Đó là cơ sở của nghành vật liệu xây dựng (xi
măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, ); giấy BãI Bằng, Tân mai…các công trình giao thông
với hệ thống các cầu (Thăng Long, Chương Dương, cầu Mỹ Thuận, Hoàng
Long, đường Hồ Chí Minh xuyên quốc gia đang được tiến hành xây dựng sẽ đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước); các nhà
máy sợi, máy dệt, hàng vạn hecta cao su, cà phê, và đặc biệt là các dàn khoan đã cho
hàng triệu tấn dầu thô, các trung tâm viễn thông, hệ thống truyền hình, phát thanh, các
trung tâm nghiên cứu khoa học cùng với cơ sở vật chất-kỹ thuật của nghành dịch vụ:


ngân hàng, tài chính, viễn thông, thương mại, du lịch, hàng không, các khu công
nghiệp, khu đô thị, nhiều vùng kinh tế mới được hình thành đã tạo nên sức phát triển
lớn mạnh của nền kinh tế nước ta, đẩy lùi khoảng cách trong phát triển kinh tế-xã hội
của nước ta so với thế giới.
2.2/ Nội dung kinh tế của vốn đầu tư XDCB:
Như ta biết, để tiếp tục quá trình sản xuất, khi phân phối tổng sản phẩm xã hội,
người sản xuất phải tính toán khôi phục các tư liệu sản xuất (bao gồm cả tư liệu lao
động và đối tượng lao động) đã tiêu hao trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động
(nguyên, nhiên vật liệu) có đặc tính tham gia một lần, toàn bộ vào một chu kỳ một chu
kỳ sản xuất và sau quá trình sản xuất nó hoàn toàn thay đổi hình thái vật chất của mình
để trở thành sản phẩm, khi sản phẩm được tiêu thụ, toàn bộ giá trị của đối tượng lao
động trở lại dưới hình thái tiền tệ. Nhằm khôi phục đối tượng lao động, người ta phải
tích và trích ra một lượng tiền từ doanh số bán hàng-ngang bằng với giá trị của đôi
tượng lao động đã di chuyển vào sản phẩm để mua sắm, dự trữ nguyên liệu cho quá
trình sản xuất tiếp theo. Tư liệu lao động (chủ yếu là tài sản cố định), có đặc tính tham
gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi về mặt hình thái hiện vật ban đầu.
Cuối mỗi chu kỳ sản xuất, tài sản cố định bị hao mòn và phần giá trị tương đương với
mức hao mòn đó được chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Khi sản phẩm được
tiêu thụ, phần giá trị tài sản cố định hao mòn đó lại trở về hình thái tiền tệ, gọi là vốn
khấu hao tài sản cố định. Vốn khấu hao được tích luỹ theo thời gian sử dụng của tài

sản cố định hình thành quỹ khâu hao. Quỹ khấu hao được chia ra hai phần: Quỹ khâu
hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Quỹ khấu hao sửa chữa lớn tài sản cố định
được dùng sửa chữa lớn nhằm phục hồi và duy trì tính năng, công dụng của tài sản cố
định. Quỹ khấu hao cơ bản được dùng để tái tạo lại toàn bộ giá trị của tài sản cố định
qua con đường đầu tư XDCB, có nghĩa là tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Quỹ
khấu hao TSCĐ chỉ ngang bằng giá trị TSCĐ khi nào TSCĐ đó hết thời hạn sử dụng.
Trong điều kiện tập trung quỹ khấu hao của nhiều TSCĐ, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học-kỹ thuật và năng suất lao động xã hội ngày càng được nâng cao thì


quỹ khấu hao cơ bản không những được dùng tái sản xuất giản đơn mà còn có thể
được dùng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
Nguồn vốn đầu tư XDCB hình thành từ quỹ khấu hao TSCĐ có các tính chất
sau:
 Hình thành dần dần, tương đối ổn định và được tích luỹ theo mức độ hao
mòn TSCĐ.
 Nguồn vốn này có giới hạn bởi giá trị ban đầu của TSCĐ.
 Chủ yếu được dùng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ.
Tống sản phẩm xã hội sau khi bù đắp các tư liệu sản xuất đã tiêu hao được gọi
là thu nhập quốc dân. Thu nhập quốc dân được chia ra thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu
dùng. Quỹ tích luỹ là nguồn vốn để tái sản xuất mở rộng, trong đó chủ yếu là tái sản
xuất mở rộng TSCĐ. ở các đơn vị, xí nghiệp thu nhập quốc được tạo ra dưới hình thức
quỹ tiền lương và thu nhập thuần tuý. Một phần thu nhập thuần tuý được để lại xí
nghiệp, một phần được tập trung vào ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế. Một
phần thu nhập thuần tuý của xí nghiệp và một phần trong số chi của ngân sách Nhà
nước được dùng làm nguồn vốn đầu tư đầu tư XDCB, để tạo ra TSCĐ trong nền kinh
tế quốc dân. Giữa TSCĐ và thu nhập quốc dân có mối quan hệ biện chứng phụ thuộc
lẫn nhau: Tăng TSCĐ sản xuất sẽ dẫn tới tăng thu nhâp quốc dân. Tăng thu nhập quốc
dân sẽ có điều kiện để tái sản xuất mơ rộng TSCĐ. TSCĐ tăng thêm trên cơ sở tăng
thêm vốn đầu tư XDCB. Khối lượng vốn đầu tư XDCB tăng lên khi thu nhập quốc dân

tăng lên và tăng phần tích luỹ trong thu nhập quốc dân.
Nguồn vốn đầu tư XDCB được hình thành từ quỹ tích luỹ có các tính chất cơ
bản sau:
 Được hình thành từ việc phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh.
 Mức tăng của nguồn vốn này phụ thuộc mức tăng thu nhập quốc dân, chính
sách đầu tư phát triển sản xuất của Đảng, Nhà nước và việc hiải quyết mối quan hệ
giữa tích luỹ và tiêu dùng.


 Chủ yếu được dùng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
Trong điều kiện quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế một bộ phận thu nhập quốc
dân nước ngoài được di chuyển vào nước ta dưới hình thức viện trợ, cho vay và trực
tiếp đầu tư của chính phủ và các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư này
có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế nước ta là không thể phủ nhận,
tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất-
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta luôn coi nguồn vốn đầu tư trong
nước (khấu hao cơ bản và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân) là nhân tố chủ yếu,
có tính chất quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của
mình.
3. Phân loại vốn đầu tư XDCB:
Vốn đầu tư XDCB chủ yếu được phân loại theo một số tiêu thức sau: theo
nguồn hình thành, theo cơ cấu nghành, cơ cấu công nghệ và cơ cấu tái sản xuất.
3.1/ Vốn đầu tư XDCB phân theo nguồn hình thành: Bao gồm vốn ngân sách
Nhà nước cấp, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (hai nguồn này đã bao gồm
nguồn ODA), vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, vốn đầu tư của tư nhân và dân
cư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2/ Vốn đầu tư XDCB phân theo cơ cấu nghành: Thể hiện sự phân phối vốn
đầu tư XDCB giữa các nghành của nền kinh tế quốc dân.
3.3/ Vốn đầu tư XDCB phân theo cơ cấu công nghệ: Cơ cấu công nghệ thể hiện
mối tương quan của vốn đầu tư XDCB theo công dụng. Tức là thể hiện mối tương

quan giữa các phần chi phí cho các công tác xây dựng cơ bản, đó là: vốn cho công tác
xây dựng và lắp đặt, cho công tác mua sắm máy móc và thiết bị và vốn đầu tư XDCB
cho các công tác kiến thiết cơ bản khác.
Hoàn thiện cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư có nghĩa là tăng tương đối phần
chi mua thiết bị, công cụ. Sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo hướng tăng chi
phí mua thiết bị phản ánh tiến bộ kỹ thuật của sản xuất và có ý nghĩa kinh tế quan

×