Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

BẮT SẤU RỪNG U MINH HẠ - SƠN NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.29 KB, 9 trang )

BẮT SẤU RỪNG U MINH HẠ - SƠN NAM
I. TÁC GIẢ:
Hơn nửa thế kỉ nay, từ thập niên 1950, Sơn Nam được giới văn học
cả nước biết đến như một tài năng của văn chương Nam bộ. Ông
không những là một nhà văn, mà còn được đánh giá cao như môt
nhà nam bộ học, một nhà văn hoá. Những năm gần đây, tác phẩm
của ông liên tục được xuất bản và tái bản.
Sơn Nam tên khai sinh là Phạm Minh Tài. Ông sinh ngày 11 -12
-1926 tại làng Ðông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá ( nay là
tỉnh Kiên Giang )
Hồi đầu thế kỉ, ông nội của nhà văn đã đưa cả gia đình từ Cù lao
Ông Chưởng ở Long Xuyên đến lập nghiệp ở ven rừng U Minh Cà
Mau, nơi phần lớn người Khơ-me sinh sống. Tuổi thơ của ông được
tắm mình trong hương sắc của rừng U Minh với muôn vàn cỏ cây,
hoa lá, chim muông. Ðó cũng chính là vốn sống và nguồn cảm hứng
sáng tác được ông thể hiện trên các trang viết sau này.
Những năm kháng chiến chống pháp, Sơn Nam làm công tác văn
nghệ tại khu 9 Nam Bộ do đó có điều kiện hiểu biết kĩ về thiên
nhiên, lịch sử, con người của vùng Cà Mau – đất mũi. Hai truyện
vừa “ Bến rừng Cù lao Dung” và “ Tây đầu đỏ ” của ông được giải
thưởng văn nghệ Cửu Long của Ủy ban kháng chiến hành chính
Nam Bộ năm 1952.
Sau Hiệp định Giơnevơ, Sơn Nam được phân công ở lại Sài Gòn.
Hoạt động trên lĩnh vực báo chí và văn chương, ông có nhiều tác
phẩm đặc sắc như “Bà chúa Hòn” ( truyện ) , “ truyện xưa tích cũ”
( truyện ) , “ Hương rừng Cà Mau” ( tập truyện ) , “ Lịch sử khẩn
hoang miền Nam” ( biên khảo ), “ Tìm hiểu đất Hậu Giang” ( biên
khảo ) .
Sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, Sơn Nam tiếp tục có
những tập biên khảo có giá trị : Bến nghé xưa, Ðất Gia Ðịnh xưa,
Ðồng bằng sông Cửu Long – nét sinh hoạt xưa, v.v…


Sơn Nam là nhà văn và nhà biên khảo đầy tâm huyết về Nam Bộ.
Tất cả các tác phẩm của ông đều tập trung về đề tài này.
Vốn là nhà văn sống dưới chế độ cũ, để tồn tại cùng sự nghiệp văn
chương, nhà văn Sơn Nam đã chọn cách viết văn theo kiểu dã sử
hiện đại và khảo cứu lịch sử vùng đất khẩn hoang Nam Bộ. Ông nói
cách viết này được nhiều đọc giả quan tâm, lại không khiêu khích
chính quyền đương thời cũ. Tuy nhiên, người đọc tinh tế cũng dễ
nhận ra sự đồng cảm tinh thần yêu nước, tưởng nhớ cội nguồn tiên
tổ trong những trang viết.
Tác phẩm đầu tay của nhà văn Sơn Nam là một tập thơ mang tựa đề
Lúa reo, do Hội Văn Hoá kháng chiến Kiên Giang xuất bản năm
1948. Năm 1951-1952. ngoài truyện dã sử, truyện ngắn, nhá văn
Sơn Nam còn thành công cả ở những công trình biên khảo có hệ
thống như Lịch sử khẩn hoang miền Nam,Văn minh miệt vườn Gia
Ðịnh xưa, Bến Nghé xưa…và đây cũng là những đề tài mà ông theo
đuổi suốt sự nghiệp.
Ngày nay, cho dù trong thế giớivăn chương muôn màu vẻ, nhưng
trong trong lòng bạn đọc yêu văn chương vẫn giữ lại nét chân dung
về Sơn Nam – đó là một nhà văn Nam Bộ với tính cách đặc biệt
Nam Bộ. Ông không giống ai, đi theo con đường mà mình đã chọn :
quay về cội nguồn văn hoá dân tộc, mà chính xác là văn hoá Nam
Bộ bằng lối văn mộc mạc, bằng chữ nghĩa giản dị gần gũi với đời
sống thực tế.
¬ Những nhận định về nhà văn SƠN NAM :
Nhà văn Nguyễn Trọng Tín, vốn là bạn văn, và là người ngưỡng
mộ tài năng của Sơn Nam, ông nhận xét : “ Nhà văn Sơn Nam là
một trong hai người còn lại hiểu biết nhiều về Nam Bộ. Ông có
nhiều cống hiến cho văn chương và là người đứng đầu trong số các
nhà văn Nam bộ. Bên cạnh sự nghiệp sáng tác, ông còn rất nhiều
công trình khảo cứu và sưư tập về văn hoá Nam Bộ. Ðặc biệt, ông

là người hiểu biết quá trìng hình thành dài đất Nam bộ. Từ hiểu biết
uyên bác đó ông lại thể hiện bằng những trang viết rất giản dị khiến
nhiều tầng lớp đọc giả đều đọc và dễ hiểu tác phẩm của ông”.
Còn theo Nguyễn Mạnh Trinh – Tạp ghi văn nghệ - : Tôi cũng
thích thú khi đọc Sơn Nam, cũng như đọc Bình Nguyên Lộc. Bây
giờ, một trong hai người, Bình Nguyên Lộc đã mất. Còn nhà văn
Sơn Nam, đang sống ở trong nước với tuổi 81. Từ trước tới nay, ông
vẫn là người cầm bút thiên tảvà những hào quang Việt Minh của
thời khàng chiến chống Pháp vẫn chưa tắt đối với ông. Viết về thời
kì hai mươi năm văn học miền Nam, ông vẫn cho là vùng tạm chiếm
và tỏ ra rất ác cảm với chính quyền quốc gia. Trong lối viết ngầm
chứa sự chống đối.
Sau năm 1975, ông được trọng dụng, có nhiều sách xuất bản và
được coi như là một nhân vật văn học hàng đầu của Sài Gò. Nhưng
nghe đâu, cũng không giàu có gì lắm, mặc dù có tiền bản quyền
sách, có trợ cấp của hội nhà văn, làm cố vấn về phong tục Nam Bộ
cho các hãng phim ảnh ngoại quốc như phim “The lover”, làm cố
vấn cho những chương trình văn hpá nhân dịp kỉ niệm 300 năm Sài
gòn
Năm nay, ông bị tai nạn xe cộ, vẫn nằm chờ trong nhà thương để
được giải phẩu, nhưng vì chưa có tiền nên chưa mổ được. Ðoàn
Thạcn Hãn trong báo Thanh niên ở trong nước đã phải kêu lên:
“… thế mà đã 7 tháng và cho đến ngày hôm nay, đang nằm trên
giường bệnh chờ ca mổ nhưng vẫn chưa thấy có một cơ quan chức
năng nào đến với ông dành cho ông một lời an ủi động viên, nói chi
đến việc chia sẻ khó khăn với một tên tuổi lớn đã cống hiến cho nền
cho nền văn hoá nước nhà những công trình không nhỏ… chúng tôi
nghĩ, với tuổi tác và tình trạng sức khoẻhiện nay, theo quy luật kiếp
người, một ngày nào đó không xa nhà văn Sơn Nam cũng phải ra đi.
Và sẽ là một cuộc tiễn đưa rình rang với đầy hoa tươi và những lời

ai điếu tiếc thương. Ðiều đó cũng sẽ vô cùng ý nghĩ và xứng đáng
với một chân dung lớn trong văn học nước nhà như ông. Nhưng giá
như những ngày tháng ngắn ngủi còn lại trên thế gian này, ông đã
được đãi ngộ xứng đáng như những gì đã được tôn vinh để không
như hoàn cảnh hiện tại cần 15 triệu đồng chữa bệnh mà chỉ còn biết
nhờ báo chí kêu gọi các mạnh thường quântiếp sức trong khi có
những quan chức nhà nước dám bỏ ra hàng chục tỉ đồng trong cuộc
đỏ đen. Ðó không chỉ là nỗi buồn cho Sơn Nam mà còn là niềm tủi
cho tất cả chúng ta!!!”
Với tôi, tôi nhìn Sơn Nam dưới con mắt của một đọc giả. Khi còn
trẻ, hay lúc đã già, đọc ông vẫn thấy có cảm giác được nói chuyện
vớu một ông già “Ba Tri” có lúc chát phác nhưng nhiều khi sắc sảo.
Vì thời cuộc, ông phải lên sống ở đô thành nhưng trong tâm, ông
vẫn hướng về những nơi thôn dã hay những sơn cùng thủy tận cuối
trời đất nước. Như sau này khi trả lời một câu phỏng vấn :”Tôi
quan niệm : viết văn để viết văn, để yêu nước chứ không nhằm mục
đích nào khác. Văn nghệ khác với văn hóa thông tin. Muốn viết văn
tốt, cần phải khảo cứu. Miền Nam chưa có lịch sửcho nên tôi phải
khảo cứu về con người và vùng đất Nam Bộ thì mới có thể viết về
con người và vùng đất đó…Tôi sống và làm việc có định hướng. Tôi
tập trung tất cả sức lực và thời gian cho công việc mình theo đuổi,
đến mức không làm tròn trách nhiệm của người cha với con cái. Cả
đời tôi đọc sách, các loại sách về phong tục tập quán và văn học
tiếng Pháp. Tôi tiếp cận và thâm nhập thực tế cuộc sống của người
dân Nam bộ…”
Hình như, Sơn Nam đã viết toàn bộ tác phẩm của mình trong chiều
hướng ấy. Những tác phẩm chính, đều là những dụng công để phác
thảo lại một cuộc sống tuy thời gian chưa lâu lắm nhưng hầu như bị
lãng quên.
II. TÁC PHẨM

Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn đăng trên tuần báo
Nhân loại (1957), sau in trong tập truyện Hương rừng Cà Mau
(NXB Phù Sa, Sái Gòn, 1962). Toàn tập gồm 18 truyện, thể hiện
sinh động cảnh quan, đời sống, truyền thống lịch sử và phẩm chất
tính cách con người ở mảnh đất cực nam của chúng ta. Tác giả
giúp người đọc hiểu và yêu Hòn Cổ Tron, sông Gành Hào, đàn
ong mật, những đêm hát bội giữa rừng, cuộc đua ghe ngo,v.v…
nổi bật trên bức tranh dân dã quê hương đó là những người nông
dân đôn hậu, chất phác, chân thật, dũng cảm ; những người đổ
mồ hôi và đổ máu để khai phá và giữ gìn từng tấc đất cho gia
đình và cho Tổ Quốc.
Những nhân vật của Hương rừng cà mau cũng có những nét khác
thường độc đáo. Họ là những dị nhân sống trong một thời buổi
giao thời, đơn giản bình dị nhưng nhiều khi cũng có trí phán đoán
sâu sắc. Nghe ông già nam xay lúa bàn chuyện thời tiết đất
trờitrong chuyện “ông già xay lúa” hay nghe ông mù Vân Tiên
bàn về chuyện cá ăn câu trong”người mù giăng câu”, chúng ta
mới thấy được cái học trong đời sống không phải chỉ ở học
đườngmà còn là kinh nghiệm từ hàng ngàythu lượm được. Và ,
trong từng ngôn ngữ, từng cử chỉ, vẫn bàng bạc một lòng yêu
nước, yêu tự nhiên.
¬ Về tác phẩm “bắt sấu rừng U Minh hạ”
- Những nét đặc sắc về nội dung:
Câu truyện như tái hiện lại toàn cảnh thiên nhiên vùng U Minh hạ
cũng như cảnh sinh hoạt, mưu sinh của người dân nơi đây.
Thiên nhiên hiểm trở với bao nhiêu mối đe dọa tới cuộc sống của
con người.
“…nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già, bà lão
chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết đâu trên bước
đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh, có thân nhân

của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó nhang đang cháy kia có
giải oan được cái chết của họ không chớ? ”
Hơn thế nữa, rừng rậm U Minh không chỉ nổi tiếng với vẻ hoang
xơ của mình, mà còn được biết đến với nguồn động vật phong
phú. Trong đó phải kể đến là loài cá sấu.
“ nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhất. Có điều đáng
chú ý là chúng không thích những chốn sông nước chảy, có sóng
gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên tịnh, chật hẹp. Vùng U
Minh hạ, sấu thường đi ngược sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào
giữa rừng tràm…”
Nói đến đàn sấu ở rừng U Minh, trước hết ta phải nói đến số
lượng.
“ – Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng !
So sánh như vậy, không phải quá đáng ! Dân làng xúm nhau lên
rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công đất, bên bờ, dưới
nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu nổi lên, chen vào bức
tranh màu xanh ấy những vệt đen chi chít …”
Không chỉ nhiều mà đàn sấu nơi đây còn to lớn , khôn lanh.
“…con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng hai
chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như họng súng
thần công đại bác. Biết có loài người đến quan sát, chúng vẫn
điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá.Duy có con sấu già trợn mắt hướng
về lũ người rồi bò thối lui. Nghi ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm
đỏ ngay giữa tam tinh. Nó là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều
phen kịch chiến với loài người. Khi ở trên cạn, sấu khôn nguy
hiểm bàng nột con rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toàn dụ địch
thủ vào hang của no ù nơi nước sâu.”
Tuy vậy, thiên nhiên nơi đây vẫn là chỗ ở, là nơi để người dân
kiếm kế sinh nhai. Cho nên, họ vẫn tiếp tục ở lại , bám giữ mảnh
đất của tổ tiên và ra sức cải tạo nơi đây ngày một tốt đẹp hơn .

“… , cứ như vậy cho đến khi người Việt Nam ta đổ tràn xuống
rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng sấu chỉ ở
dưới sông, sau khi câu được chừng năm mươi con sấu ở ngọn
rạch, họ dinh ninh cho là sấu đã giảm bớt…mười phần chết bảy
còn ba…”
Bằng chính nghị lực của bản thân, họ đang cố tìm cách chiến đấu
lại với thiên nhiên, chiến đấu với những thế lực đàn áp mình.
“Trong số những người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo mác
thông, lao , ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí giới ấy chỉ có
hiệu lực đối với cọp, heo rừng, đằng này, sấu lại là loài ở nước,
ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì quá cạn còn đi bộ xuống thì lún
ngập gối.”
Cuối cùng, nhờ sự kiên trì, lòng quyết tâm, dũng cảm và tài trí
của mình, con người đã tháng được thiên nhiên và hơn thế nữa,
họ đã thắng được chính mình.
“ Dưới sông, Tư Hoạch ngối trên xuồng, bơi nhè nhẹ như đi dạo
mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi con
kia, đen ngòn như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau
thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng
như tiếp sức với Tư hoạch để đẩy chiếc bè quái dị kia đi nhẹ
nhàng…”
+ Nhân vật ông Năm Hên:
Ông Năm Hên là nhân vật được tác gia xây dựng nhằm nói lên sự
dũng cảm và tài trí của con người Nam Bộ.
Hoàn cảnh của ông thật éo le.
“… Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh em
tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy hồi mười
hai n8m về trước. Sau được tin cho hay : ảnh bị sấu ở ngã ba
Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho anh…”

Với chút mưu mẹo của mình, ông Năm đã giúp bà con bắt được
lũ sấu và được bà con quý trọng như “một bậc thánh nhân”
“-thực là bậc thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thật quá cao
cường. Oång đâu rồi ? sao không thấy ổng về? Xóm mình nhất
định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho tới già, ở xóm này, bà
con tính sao? “
Và khi công việc đã hoàn thành, ông vẫn không quên những
người đã khuất và thắp cho họ một nén nhang. Ðiều đó cho thấy
ông Năm là một người rất trọng tình nghĩa, sống với nộ tâm
“Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên, ngày
một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn hỡi ! Hồn hỡi !
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc !
Ta thương ta tiếc
Lập đàn giải oan…
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn
nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi,
mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.”
+ Cảnh bắt sấu :
Ðây là một trong những cao trào của câu truyện mà chúng ta
không thể bỏ qua. Nó thể hiện đầy đủ những kinh nghiệm, vốn
sống, tài trí cũng như lòng dũng cảm của ông Năm Hên.

“tới ao sấu, ông Năm hên đi vòng quanh dòn địa thế rồi ngồi
xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy xuổng đào
một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên rừng chừng mười
thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho ổng một nắm dây cóc kèn.
Phần ổng thì lo đốn một đống cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng
ba tấc.
lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống đám
sậy để trong ao. Chập sau, bị khói cay mắt, ngộp thở, phần thì
nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con đường đào sẵn hồi nãy.
Tức thời, ông Năm Hên chạy lại. Sấu há miệng hung hăng đòi
táp ổng. Ổng đút vô miệng sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính
chặt hai hàm răng : như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn,
muốn h1 miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị
khúc mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ôâng Năm
xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ để cắt
gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy dây cóc kèn
trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai chân trước để nó
bơi tiếp với mình”
- Những nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ những phương ngữ được dùng vừa phải, thích hợp : táp, xuổng,
ăn ong…
+ cách kể chuyện gọn và sáng.
+ tính cách nhân vật được thể hiện sinh động mà chỉ bằng vài chi
tiết đơn sơ
III. KẾT LUẬN :
• Mỗi vùng đất của Tổ Quốc ta có những nét đặc sắc, kì thú
riêng. Vốn gắn bó quen thuộc với đất rừng phương nam,
qua truyện ngắn này, nhà văn Sơn Nam đã đem đến cho
người đọc một bức tranh độc đáo : vùng rừng tràm xanh
ngắt lau sậy, mốp, cóc kèn…Và thật lạ lùng “ sấu ở giữa

rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. Người nông dân
rạch Cái Tàu đã phải tạo dựng cơ đồ trên vùng đất hoang
vu, dữ dội đó. Chính vì thế, người đọc như được thám
hiểm những vùng đất mới với biết bao điều bí ẩn của
thiên nhiên và con người.
• Truyện mang phong vị Nam Bộ rất đậm đà. Sắc thái độc
đáo này được tạo nên bởi những yếu tố nghệ thuật đặc
sắc. Chính vì thế truyện này cũng như tập Hương rừng
Cà Mau nói chung có dáng dấp riêng, khó lẫn.

×