Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Phân tích tổng hợp văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.53 KB, 65 trang )

Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam.
Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền
Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được
giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để
được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác
không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền
Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng
lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà
còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc,
vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ
thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi
trong lòng nhân dân ta.
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra
thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động
cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha
thiết.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình
bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền
Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm
nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của
người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản
dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam
luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh
hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ
mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng


Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc
tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc
rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh
giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh
trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền
quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong
bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời
sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt
dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn
Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời
trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách
mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi
tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện
ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn
Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội
dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái
quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời
cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn
người Việt Nam.
Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ.
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao
trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình
yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật
sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng

người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không
bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn
ngào, đau đớn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không
hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp:
vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền
diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng
nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong
ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả
những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như
gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ
đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ
bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi
sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi
đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên
nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với
Bác:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn
như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong

tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-
một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con
người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà
thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con chim, bông hoa,
cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung hiếu với
Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre
trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.
Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ
mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa
sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng
sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng
Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình
ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các
hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình
ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ,
như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ
thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh
xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các
hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng
nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý
của chúng ta.
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của
Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn
Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình
tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn
chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được
phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam
từ 1976 đến nay.
(sưu tầm)
Trong hai cuộc kháng chiến, nhà thơ Viễn Phương hoạt động ở Nam Bộ, và đã sáng

tác nhiều bài thơ về Bác Hồ. Có bài tác giả viết khi bị địch giam cầm ở các trại giam
Phú Lợi, Lê Văn Duyệt, không có giấy bút, Viễn Phương sáng tác thầm trong đầu và
đọc cho các đồng chí cùng khám nghe. Kỳ diệu thay, Viễn Phương chỉ đọc một vài
lần, mọi người đều thuộc, rồi những khi bị địch bắt đi lao động, họ lại đọc cho bạn tù
ở khám khác nghe, cứ vậy thơ Viễn Phương được lan truyền trong nhà tù. Phải đến
bài thơ Viếng Lăng Bác, Viễn Phương mới thực sự có một bài thơ hay về Bác. Dưới
đây là cuộc trò chuyện giữa ông và phóng viên VNQĐ
PV: Thưa nhà thơ Viễn Phương, trong một lần nào đó, tôi được đọc một bài viết của
anh Lê Quang Vịnh trên báo Sài Gòn Giải phóng, kể rằng: “Lúc tôi 25 tuổi, bị bọn Mỹ
– Diệm kết án tử hình rồi chuyển thành trung thân khổ sai và đày ra Côn Đảo. Trong
chuồng cọp, địa ngục trần gian của nhà tù ấy, tôi bị bắt buộc phải nằm dưới hầm
suốt ngày ". Trên vách chuồng cọp, tôi thấy chi chít những chữ ghi bằng nhiều cách
khác nhau. Có những dòng được khắc trên vôi bằng cái xương cá mắm. Có những
chữ bằng máu, có những ghi bằng than. Tôi đọc được bài thơ dài, chỗ này ghi một
đoạn, chỗ khác ghi một khúc ráp lại rất vần với nhau.
Hôm nay mười chín tháng năm:
Lòng con sáng tựa đêm rằm trung thu
Con đang chúc thọ dưới mồ
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Bay qua lưới sắt con tìm đến cha
Sau này mới biết là thơ Viễn Phương, bài Chúc thọ dưới mồ. Tôi nghĩ rằng đó cũng là
hạnh phúc lớn của nhà thơ: Góp phần mình vào công cuộc giải phóng đất nước.
Nhà thơ Viễn Phương: Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc ta là nguồn cảm
hứng vô tận của người sáng tạo văn, thơ, nhac, họa. Trong kháng chiến chống Pháp
và Mỹ, các nhà thơ sống ở Nam Bộ đều có những tác phẩm viết về Bác. Trong nhà tù
của giặc, tôi luôn luôn nghĩ về Bác. Bác là nguồn động viên, cổ các chiến sĩ trong nhà
tù. Tôi đã viết bài thơ Chúc thọ dưới mồ, được các đồng chí trong tù thuộc, truyền
cho nhau. Tuy lời thơ còn mộc mạc nhưng là tấm lòng thành kính của tôi đối với
Người.

PV: Phải đến khi đất nước thống nhất, ra thăm miền Bắc, anh mới có Viếng Lăng
Bác, đầy đủ độ chín và ngôn từ. Anh có thể cho biết bài thơ ra đời trong hoàn cảnh
nào?
Nhà thơ Viễn Phương: Khi Bác còn sống, nhân dân miền Nam mong muốn đất nước
giải phóng để đón Bác vào thăm. Nhưng rồi, ước mơ ấy không được toại nguyện. Khi
miền Nam giải phóng, mọi người đều muốn ra thăm miền Bắc, viếng lăng Bác. Năm
1976, tôi ra Hà Nội, được đến viếng Bác.
Sáng hôm ấy mưa phùn, Hà Nội lây phây trong gió rét, tôi được nối vào dòng người
vào lăng Bác. Chúng tôi đi từ hướng chùa Một Cột. Sương toả mênh mông, những
hàng tre xanh sẫm, những gốc đào hoa đỏ rực… Tất cả đều thiêng liêng. Đến bên
Bác, ai cũng muốn dừng thật lâu. Bác nằm đó, thanh thản, giản dị, hiền từ như đang
ngủ. Anh sáng dịu dàng toả xuống như giữa một đêm trăng thanh miền thôn dã. Tôi
không cầm nổi nước mắt.
Ra khỏi làng, tôi đi như người mộng du và tứ thơ bật ra:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Lời thơ thật giản dị. Tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn giản dị, Người ghét sự cầu kỳ,
làm dáng. Giản dị, trong sáng, sâu sắc cũng là bao quát trong thơ Bác. Tôi viết như
là ý nghĩ của mình. Và, đó cũng là tâm tư của nhân dân và chiến sỹ ở Nam Bộ với
Bác.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Mặt trời của vũ trụ đối với mặt trời trong lăng. Đó cũng là hàm chứa sự vĩnh cửu của
sự nghiệp Bác Hồ tạo dựng và nhân dân ta, Đảng ta đã thực hiện: xây dựng một đất
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh như di chúc của
Bác.
Hoa tươi là nét đẹp của thiên nhiên, hàng ngày dâng lên Bác rất nhiều nhưng tôi nghĩ
đến:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng Bảy mươi chín mùa xuân

Dòng người vây quanh Bác trở thành hoa. Và dâng cho Bảy mươi chín màu xuân, là
hoa tươi của cuộc sống.
Toàn bài Viếng Lăng Bác mang một không khí trang nghiêm, thành kính. Đoạn kết,
tôi muốn nói lên tình cảm của nhân dân, chiến sỹ miền Nam hứa với Bác:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
(sưu tầm)
Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”,
Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa,
đậm chất suy tư.
“Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa
thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ :
Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :
“Hồi nhỏ sống với đồng.
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”.
Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông,
biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng
nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng
trăng mới trở thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng
chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.
Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thương quí trọng của mình
với trăng :
“Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”.
Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô
tư, hồn nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên
nhiên, hoà vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi,
đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ.
Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình
nghĩa” ấy :
“Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”.
Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trường đã thay đổi. Từ
hồi về thành phố đời sống cũng thay đổi theo :“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh
điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, đầy đủ sang trọng dần
dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng
trưng cho những tháng năm gian khổ, đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành
từ những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành “người dưng” Con người ta thường
hay đổi thay như vậy. Bởi thế đời vẫn thường nhắc nhau : “ngọt bùi nhớ lúc đắng
cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương” quen với cuộc sống đầy đủ tiện
nghi nên người đã không thèm để ý đến “Vầng trăng” - con người, mảnh đất từng là
tri kỉ một thời.
Phải đến lúc toàn thành phố mất điện :
“Phòng buyn đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn”
“Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy người lính năm
xưa mới bàng hoàng trước vẻ đẹp kì diệu của vầng trăng. Bao nhiêu kỉ niệm xưa
bỗng ùa về làm "Con người này" cứ “rưng rưng” nước mắt.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng "
" Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình ”.
Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ
lượng biết bao ! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng
không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí
của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội
trong những tháng năm “không thể nào quên”. Tượng trưng cho "mảnh đất nuôi ta
thành dũng sĩ.
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách
diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm
tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ ,“Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ
chung khiến cho người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống
đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
(Sưu tầm)
Ánh trăng - Nguyễn Duy.
ÁNH TRĂNG
I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.Tác giả
- Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm
1948, quê làng Quảng Xá, xã Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.
Năm 1966, ông nhập ngũ vào bộ đội thông tin, tham gia chiến
đấu ở nhiều chiến trường.
- Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ
1972 – 1973 với chùm thơ bốn bài (Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ
rơm, Giọt nước mắt và nụ cười, Bầu trời vuông ). Từ giải thưởng
này, Nguyễn Duy trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp
nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ và tiếp tục bền bỉ
sáng tác.

- Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng.
Từ sau năm 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn
nghệ tại các tỉnh phía Nam ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Tác phẩm chính: Cát trắng ( 1973 ), Ánh trăng ( 1984 ), Mẹ và
em ( 1987 0, Đường xa ( 1989 ),Về ( 1994 )…
2.Hoàn cảnh ra đời
- Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí
Minh , in trong tập Ánh trăng – tập thơ của Nguyễn Duy được
giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1984
- Nguyễn Duy viết bài thơ này khi cuộc kháng chiến đã khép lại
được ba năm. Ba năm sống trong hòa bình, không phải ai cũng
còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ.
Nguyễn Duy viết bài thơ Ánh trăng như một lời tâm sự, một lời
nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ sống
thủy chung, ân tình.
II.Phân tích bài thơ
1.Bố cục bài thơ
a.Bài thơ là tâm trạng của tác giả được kể theo trình tự thời
gian
- Ba khổ đầu: Kể về sự gắn bó của tác giả với vầng trăng
- Khổ thứ tư: Sự xuất hiện của vầng trăng
- Hai khổ cuối: Cảm xúc và suy tư lặng lẽ của tác giả
b.Bài thơ là sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình
- Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ cũng men theo dòng tự
sự này mà bộc lộ. ở quãng thời gian quá khứ đã có một biến
đổi, một sự thực đáng chú ý: hồi nhỏ rồi hồi chiến tranh sống
hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên đến tưởng không bao giờ
quên “ cái vầng trăng tình nghĩa”; ấy thế mà “ từ hồi về thành
phố” quen sống cùng những tiện nghi hiện đại, vầng trăng tình
nghĩa đã “ như người dưng qua đường”

-Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ
thơ thứ tư chính là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc,
thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia
đối lập với “ phòng buyn đinh tối om”. Chính vì xuất hiện đột
ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại
bao kỉ niệm nghĩa tình.
2.Hình ảnh vầng trăng và cảm xúc của nhà thơ: Hình ảnh vầng
trăng trong bài thơ là một hình tượng đa nghĩa
a.Trước hết, vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên khoáng
đạt, hồn nhiên tươi mát.
- Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian
của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “
hồi nhỏ sống với đồng” và sau này là “ hồi chiến tranh ở rừng”.
Lúc ấy, con người sống giản dị “ trần trụi với thiên nhiên – hồn
nhiên như cây cỏ”. Vầng trăng đã trở thành người bạn tri kỉ,
thành “ vầng trăng tình nghĩa” gắn bó trong suốt những năm
tháng tuổi ấu thơ ở quê nhà đến hồi chiến tranh sống ở rừng.
- Đến khi về thành phố, sống giữa những tiện nghi hiện đại “
quen ánh điện cửa gương”, con người bỗng quên đi cái vầng
trăng “ ngỡ không bao giờ quên” kia, bỗng vô tình với “ cái
vầng trăng tình nghĩa” kia. Sự vô tình đến mức tàn nhẫn:
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.
- Rồi đến một hôm nào đó:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.

Con người đã quen với đèn điện nên quên trăng. Vầng trăng
vẫn còn đó nhưng “ như người dưng qua đường”. Phải đến khi
đèn điện tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra vầng
trăng. Phải đột ngột như thế, phải bất ngờ như thế, vầng trăng
mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc.
Ngửa mặt nên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.
“ Ngửa mặt lên nhìn mặt”,
mặt người và mặt trăng đối diện nhau. Đó là khoảnh khắc bất
ngờ gặp lại cố nhân. Khoảng khắc gặp gỡ bất ngờ đó khiến hồn
người rưng rưng cảm xúc. Vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí
những những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất
nước.
b.Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu
tượng cho quá khứ nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và
vĩnh hằng của đời sống
Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh
của thiên nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức
trong tâm trí con người bao kỉ niệm hồn nhiên của thời tuổi
nhỏ, bao kỉ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu.
Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của
hình ảnh vầng trăng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Mặc cho con người vô tình “ trăng cứ tròn vành vạnh”. Đó là
hình ảnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng

thể phai mờ. “ ánh trăng im phăng phắc” – phép nhân hóa
khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể,
một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô
tình nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên quá
khứ. “ Ánh trăng im phăng phắc” nhưng đủ làm con người
“ giật mình” nhận ra sự vô tình không nên có, sự lãng quên
đáng trách của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng
quên, nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì vẫn vẹn
nguyên vĩnh hằng.
3.Nhận xét về kết cấu và giọng điệu của bài thơ.
- Bài thơ như một câu chuyện riêng, có sự kết hợp hài hòa, tự
nhiên giữa tự sự và trữ tình.
- Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ khi thì
trôi chảy nhẹ tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga
thiết tha cảm xúc, lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư.
- Kết cấu và giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ
đề, tạo nên tính chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu
sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh ở người đọc
4.Nêu chủ đề và khái quát ý nghĩa của bài thơ
- Từ một câu chuyện riêng, bài thơ là lời tự nhắc nhở thấm thía
về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao,
tình nghĩa đối với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu.
- Ánh trăng không chỉ là chuyện riêng của nhà thơ, chuyện của
một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ ( thế hệ đã từng
trải qua những năm tháng dài gian khổ của chiến tranh, từng
gắn bó với thiên nhiên, nhân dân tình nghĩa giờ được sống
trong hòa bình, được tiếp xúc với nhiều tiện nghi hiện đại ).
Hơn thế bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi
nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, những người đã khuất và
đối với cả chính mình.

- Ánh trăng nằm trong mạch cảm xúc “ uống nước nhớ nguồn”,
gợi lên đạo lí sống thủy chung đã trở thành truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam.
Nguồn: Sưu tầm
Đề bài: Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng
trăng dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy.
Trăng- Hình ảnh giản dị, quen thuộc đã chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng để
rồi những tác phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chính Hữu đã treo lên một bức tranh
tuyệt đẹp, lãng mạn qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo” thì “Ánh trăng” của Nguyễn
Duy lại mang một tính chất triết lý thầm kín. Đó là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.
Đối với nhà thơ đây là vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng
dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nó như hồi chuông gióng lên, đánh thức
tâm hồn u tối trong mỗi con người.
Có thể nói, với mỗi chúng ta, vầng trăng là một vật thể bình thường mà thiên nhiên,
đất trời ban tặng. Nhưng với Nguyễn Duy, vầng trăng không những là hình ảnh của
quê hương mà nó còn là người bạn tri âm, tri kỷ, là quá khứ nghĩa tình, chan chứa
yêu thương, là một quan toà lương tâm trong tận sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. “Hồi
nhỏ sống với đồng/ Với sông rồi với bể/ Hồi chiến tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri
kỷ”. Tuổi thơ tác giả được gắn bó với “vầng trăng”, “với đồng”, “với sông” rồi “với
bể”. Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với mỗi người dân quê Việt Nam. Đến lúc đi
"Chỉ một tuần sau bài thơ ra đời, cả mặt trận có vô số tiểu đội xe không kính. Sau
này, vào những năm cuối cuộc kháng chiến, đã có những chiến sĩ lái xe tự lái xe vỡ
để mắt thường nhìn trực tiếp mặt đường chằng chịt hố bom cho rõ hơn dưới ánh
sáng lù mù của chiếc đèn gần soi. Thậm chí, có người còn tháo cả cánh cửa buồng lái
để tiện cho việc xử lí tình huống khi xe bị máy bay AC130 săn đuổi - loại máy bay
bắn roc - ket hay đạn 27 li vào mục tiêu di động bằng thiết bị dò âm thanh mặt đất
và bằng kính nhìn có tia hồng ngoại.
Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ta hiểu rằng, một bài thơ có
nhiều khi vượt qua phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy, dâng cho cuộc sống

những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không
kính có cái mãnh lực thần kỳ ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự
tức thời vừa mang tính lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thếphải là tiếng nói của
cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đao của người trong cuộc.
Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam!
Giờ đây mỗi lần có dịp đọc lại hay nghe ai đó đọc lên bài thơ này, không ít người như
tôi lại bồi hồi nhớ về một quãng đời chiến tranh ở đường 9 - Nam Lào, nhớ về hình
ảnh anh Phạm Tiến Duật lần đầu đứng trước anh em đơn vị D61. Anh đọc cho anh
em nghe bài thơ nói về họ trước giờ xuất kích. Đã hết câu cuối cùng của bài thơ mà
cả đơn vị còn lặng im, rồi phút chốc cùng vùng dậy, thoáng đã nhồi sau tay lái. Một
khoảng rừng già rộ lên, những cỗ xe dắt kín lá ngụy trang rùng rùng chuyển bánh đi
về hướng Nam đã định"
***
Bài 3: "Đoàn thuyền đánh cá"- Huy Cận
1.Tác giả:
Nhà thơ Huy Cận tên đầy đủ là Cù Huy Cận (1919-2005) .Huy Cận nổi tiếng trong
phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng(1940). Ông tham gia Cách mạng từ trước
năm 1945 và sau cách mạng tháng Tám từng giữ nhiều trọng trách trong chính
quyền cách mạng, đồng thời là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca
hiện đại Việt Nam. Huy Cận được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn
học và nghệ thuật( năm 1996).
Hơn sáu mươi năm Hoạt động văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với gần hai
mươi thi phẩm thơ đi từ nỗi buồn "từ ngàn xưa"đến niềm vui lớn hôm nay.
Huy Cận luôn gắn liền với mạch đời chung của dân tộc. Thơ Huy Cận vừa bám lấy
cuộc đời, vừa hướng tới những khoảng rộng xa của tạo vật và thời gian, vừa trăn trở
với cái chết, vừa nâng niu sự sống trước qui luật tử sinh, vừa triết lý suy tư, vừa hồn
nhiên thơ trẻ, vừa bay bổng lãng mạn, vừa hiện thực đời thường, trong cái khoảnh
khắc hữu hạn của đời người vẫn muốn hóa thân vào cái vĩnh cửu, trường sinh(Trời
mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi, chiến trưỡng
gần đến chiến trường xa, ngày hằng sống ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, ta về

với biển, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ). Với ý thức vận động và sự chuyển hóa
giữa nhiều yếu tố trong hình tượng cái tôi trữ tình, Huy Cận đã tạo cho mình một
phong cách đặc sắc, độc đáo. Huy Cận đã tỏ ra sở trường về thơ lục bát và có đóng
góp đáng kể trong sự mở rộng hình thức và nâng cao trí tuệ cho thơ theo hướng suy
tưởng, vươn lên những khái quát rộng xa, giàu liên tưởng trong những bài thơ mở
rộngl khuôn khổ , kích thước.
Các tác phẩm chính : Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự
(văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi
ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài ca cuộc đời (thơ, 1963); Hai
bài tay em (thơ; 1967); Phù Đổng Thiên Vương
(thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ; 1972);
Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa
(thơ, 1973);Chiến trường gần chiến trường xa(Thơ, 1973);Những người mẹ, những
người vợ( thơ, 1974); Ngày hằng sốmg ngày hằng thơ(thơ,1975); Sơn Tinh, Thủy
Tinh (thơ, 1976) ; Ngôi nhà giữa nắng(thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984) ; Tuyển
tập( thơ, 1986);
2 . Tác phẩm:
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn
và cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ của nhà thơ Huy Cận.
Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơicủa đoàn thuyền đánh cá.
Hai khổ đầu là cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người, bốn khổ tiếp
theo là hoạt động của đoàn thuyền đánh cávà khổ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về
trong buổi bình minh của ngày mới.
Về hoàn cảnh sáng tác, nhà thơ Huy Cân nhớ lại: "Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của
tôi được viết ra trong những tháng năm đất nước bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Không khí lúc này vui, cuộc đời phấn khởi, nhà thơ cũng rất phấn khởi. Cả tác phẩm
vùng than, vùng biển đang hăng say lao động từ bình minh cho đến hoàng hôn và cả
từ hoàng hôn cho đến binh minh. Đoàn thuyền đánh cá lấy thời điểm xuất phát khác
với lệ thường, lúc mặt trời lặn và trở về trong ánh bình minh chói lọi. Khung cảnh
trên biển khi mặt trời tắt không nặng nề, tăm tối mà mang vẻ đẹp của thiên nhiên

tạo vật trong quy luật vận động tự nhiên của nó. ở đây tôi đã miêu tả khung cảnh
tạo vật với cảm hứng vũ trụ. Nếu trước cách mạng vũ trụ ta còn buồn thì bây giờ vui,
trước là cách biệt xa cách với cuộc đời thì hôm nay lại gần gũi với con người. Bài thơ
của tôi là một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên và con người đã chiến
thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trogn lao động với tinh thần
làm chủ với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Chất
hiện thực của khung cảnh lao động trên biển cả khi vùng biển đã về ta. Và chất lãng
mạn thì cũng không cần phải tưởng tượng nhiều. ở giữa cảnh biẻn cao rộng đó, với
gió, với trăng, rồi bình minh và nắng hồng, và đặc biệt là sức người trong lao động
đều thực sự mang tính chất lãng mạn bay bổng "Thuyền ta lái gió với buồm trắng" ;
"Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời". Cảm hứng và hình ảnh ấy rất thích hợp với
lạo động trên biển. Tôi nghĩ rằng trong khung cảnh đó cũng không thể viết khác đi.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đẹp của một ngày đẹp của một ngày mới khi đoàn
thuyền đang trở về, các khong thuyền đầy ắp cá. Mở đầu bài thơ là hình ảnh "Mặt
trời xuống biển" và kết thúc là hình ảnh "mặt trời đội biển" nhô lên giữa sông nước.
Thiên nhiên đã vận động theo một vòng quay của mặt trời và con người đã hoàn
thành trách nhiệm của mình trong lao động. Không có gì vui bằng lao động có hiệu
quả.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá nằm trong cảm hứng chung của thơ tôi trong những
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôi viết bài thơ tương đối nhanh, chỉ vài một giờ của
buổi chiều trên vùng biển Hạ Long. Bài thơ được viét liền mạch và ít phải sửa chữa.
Tôi nghĩ đó cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà thực sự là cảm hứng đã được
tích tụ trên một đề tài quen thuộc của tôi và được viết ra trong không khí rất vui của
những năm tháng đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội" (Huy Cận, Tác phẩm văn học, NXB
Văn học, Hà Nội, 2001).
***
Bài 4: "Bếp lửa"- Bằng Việt
1. Tác giả:
Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh năm 1941, quê ở huyện
Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XXvà

thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
"Bằng Việt là một nhà thơ được bạn đọc biết đến từ phần thơ in chúng với Lưu Quang
Vũ trong tập Hương cây - Bếp Lửa (1968). Nỗi nhớ quê hương dầu tiên thành thơ là
giành cho bếp lửa : "Bếp lửa chờn vờn sướng sớm - Một bếp lửa ấp iu nồng đượm"
gắn với hình ảnh người bà và bên người bà là người cháu. Bài thơ nói về tình bà cháu
vừa sâu sắc , vừa thâm thía trong những năm đầu đất nước đói kém, loạn lạc, cuộc
đời gian khổ khó khăn. Cảm xúc tinh tế, đượm buồn của ông về những kỷ niệm về
cuộc sống gia đình , về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam. Bài thơ biểu
hiện một triết luận thầm kín: những gì là thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con
người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ họ trong suốt cuôc đời.Mạch triết luận thầm kín
được khởi đầu từ bếp lửa còn được tiếp nối trong nhiều bài thơ khác nhơ trở lại trái
tim mình khi ông coi Thủ đô Hà Nội như một cội nguồn tình cảm, cội nguồn sức
mạnh. Cùng với thư gửi người bạn xa đất nước, tình yêu và báo đông, Trở lại trái
tim, nhà thơ ghi lạiđược những trạng thái phong phú của một tâm hồn thanh niên rất
mực mến yêu đất nước, con người, nêu bật được một thủ đô hào hoa thanh lịch,
trầm tĩnh và anh hùng. Bằng Việt còn có những bài thơ khá tài hoa diên đạt những
suy tư về những danh nhân văn hóa nhân loại nhơ: Béc- tô - ven, Pau - tốp xky, pli-
xet- xcai- a. Người đọc còn biết đến ông về những lo toan chu đáo, những bồi hồi
thương nhớ của một người cha ở nơi xa chăm chú theo rõi từng bước đi chập chững
của đứa con, trong bài thơ Về Nghệ An thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà
có sức vang xa. Có thể nói với 20 bài thơ trong tập thơ hương cây- Bếp lửa Bằng Việt
đã phác họa được một triết luận thầm kín của riêng mình. Ông là một trong số không
nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ Bằng Việt
thường nghiêng về một lời tâm sự, một sự trao đổi suy nghĩ, gây được một cảm giác
gần gũi, thân thiết đối với người đọc.Thơ ông thường sâu lắng trầm tư thích hợp với
người đọc trong sự trầm tĩnh vắng lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt,
còn lưu lại trong ký ức người đọc" (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam,
Sđđ).
Các tác phẩm chính : Hương cây - Bếp lửa (thơ, in chung, 1968); Những gương mặt
những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau mưa (thơ, 1977); Khoảng cách giữa lời (thơ,

1983); Cát sáng (thơ, 1986); Bếp lửa - khoảng trời (thơ tuyển, 1988); Phía nửa mặt
trăng chìm ( thơ, 1986); Lọ lem (dịch thơ ép - tu - sen - kô);
Tác giả đã được nhận: Giải Nhất Văn học - Nghệ thuật Hà Nội năm 1967 với bài thơ
Trở lại trái tim mình; Giải thưởng chính thức về dịch thuật văn học quốc tế và phát
triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa bình (Liên Xô) trao tăng năm 1982.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ Bếp lửa được tác giả Băng Việt sáng tác năm 1963, khi là sinh viên đang
học ở nước ngoài.
- Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà vào tuổi ấu thơ
được ở cùng bà.
***
Bài 5: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm
1. Tác giả:
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại thôn Ưu Điềm, xà Phong
Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên Huế. Quê gốc: làng An Cựu, xã Thủy An ,
thành phố Huế.Lúc nhỏ đi học ở quê, năm 1955 ra miền Bắc học tại trường học sinh
miền Nam. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm1964, vào miền
Nam hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên Huế, tham gia quân đội , xây
dựng cơ sở cách mạng, viết báo ,làm thơ, cho đến năm 1975. Ông thuộc thế hệ
nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm từng là Tổng thư Ký Hội nhà văn Việt Nam (khóa V), Bộ trưởng
bộ Văn hóa thông tin. Từ năm 2001, ông là ủy viên Bộ ChínhTrị, Bí thư Trung ương
Đảng, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương.
Nguyễn Khoa Điềm trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Tập
thơ Đất ngoại ô và Trường ca Mặt đường khát vọng nhanh chóng khẳng định sự đóng
góp và tài thơNguyễn Khoa Điềm lúc bấy giờ. có thể nói thơ Nguyễn Khoa Điềmlà thơ
của một trí thức trẻ, giàu vốn sống thực tếvà vốn văn hóa,triết lý và trữ tình, suy tư
và cảm xúc.
Các tác phẩm chính : Cửa thép (ký, 1972); Đất ngoại ô (thơ, 1973); Mặt đường khát
vọng (trường ca, 1974); Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986) ; Thơ Nguyễn Khoa

Điềm (thơ, 1990) ;
Nhà thơ đã được nhận: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tập Ngôi nhà có ngọn
lửa ấm.
2 . Tác phẩm :
- Bài thơ Khuc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được tác giả Nguyễn Khoa Điềm
sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu Thừa Thiên .
- Bài thơ đã thể hiện truyền thống yêu nước thương dân một cách đặc
sắc qua hình ảnh bà mẹ cõng con lên rẫy. những lời người mẹ ru con bộc lộ sâu sắc
tinh thần yêu nước cùng ý chí quyết tâm đánh giặc đến cùng của đồng bào các dân
tộc nói riêng và nhân dân ta nói chung.
***
Bài 6: Nguyễn Duy "Ánh trăng"- Nguyễn Duy
1. Tác giả:
Nhà thơ Nguyễn Duy (tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ), sinh năm 1984, tại xã
Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.
Tham gia cong tác từ 1965, làm tiểu đội trưởng dân quân trực chiến khu vực Hàm
Rồng - Thanh Hóa. Năm 1966, nhập ngũ tại Bộ tư lệnh Thông tin, lính đường dây,
tham gia chiến đấu tại các chiến trường : Khe Sanh - Đường 9 -
Nam Lào. Từ năm 1967, chuyển khỏi quân đội về làm báo Văn nghệ Giải phóng. Hiện
công tác tại tuàn báo Văn nghệ .
Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ, 1973); ánh trăng (thơ, 1984); Nhìn ra bể rộng
trời cao (bút kí, 1985); Khoảng cách (tiểu thuyết, 1985); Mẹ và em (thơ, 1987);
Đường xa (thơ, 1989); Quà tặng (thơ, 1990); (thơ, 1994);
Tác giả đã được nhận: Giải Nhất thơ tuần báo Văn Nghệ (1973); Tặng thưởng loại A
về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam (1985).
"Xuất hiện vào chặng cuối của chiến trang chống Mĩ cứu nước, từ khoảng 1972 trở đi,
Nguyễn Duy đã trở thành một gương mặt tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.
Cho đến nay, Nguyễn Duy vần là một trong số không nhiều nhà thơ "thời ấy" con
sung sức và được bạn đọc yêu thích. Có thể thấy tài năng và con đường thơ của ông
phát triển và khẳng định gắn chặt với những tháng năm đầy những biến động của

lịch sử dân tộc. Những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, với chùm thơ đăng trên
báo Văn nghệ nảm 1972, Nguyễn Duy đã chiếm được lòng mến mộ của độc giả. Nhà
phê bình Hoài Thanh có công phát hiện và giới thiệu Nguyễn Duy . Ông đã khẳng
định ở thơ Nguyễn Duy có một vẻ đẹp "không gì so sánh được" ,
"Quen thuộc mà không nhàm chán" , "Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp
của những cuộc đời cần cù, gian khổ" , chất thơ của Nguyễn Duy chính là "cái hiền
hậu, một cái gì rất Việt Nam".
Sau chiến thắng năm 1975, Nguyễn Duy vần say sưa và tiếp tục con đường thơ của
mình. Tiếng thơ của ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu
quen thuộc mà hấp dẫn người đọc. Tập thơ nổi bật của Nguyễn Duy là tập ánh trăng
(1984). Tập thơ được coi là một bước tiến trong thơ Nguyễn Duy , tập thơ đã được
tặng Giải A của Hội Nhà văn Việt Năm 1984 (cùng với tập thơ hoa trên đá của Chế
Lan Viên) ánh trăng tiếp tục viết về bộ đội, về cuộc đời người lính sau chiến tranh với
những vần thơ tha thiết và thấm thía, những trăn trở băn khoăn (ánh trăng, nghe tắc
kè kêu trong thành phố ). Cũng ở tập thơ này, Nguyễn Duy còn dành nhiều bài thơ
viết về tuổi thơ, ruộng đồng cây cỏ, những vùng quê với những con người thân thuộc
bằng một tình cảm tha thiết nặng tình, nặng nghĩa (Đò Lèn, Tuổi thơ, Cầu Bố, Ông
già sông Hậu, Gửi Huế, Lời của cây, Sông Thao, Đà Lạt một lần trăng, ). Vần tiếp
tục chất giọng ca dao đậm đà, thân thuộc nhiều bài trong ánh trăng viết theo thể lục
bát hết sức nhuần nhị, ngọt ngào nhiều khi khó mà nbiết phân biệt được những bài
ca dao (Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nm dùng trong nhà trường).
2. Tác phẩm:
Bài thơ ánh trăng được xem như là niềm thôi thúc của tác giả, nhớ về cội nguộn và ý
thức trước lẽ sống thủy chung.
***
Bài 7: "Lặng lẽ Sa Pa"- Nguyễn Thành Long
1. Tác giả:
Nhà văn Nguyễn Thành Long ( 1925-1991), quê ở huyện Duy Xuyệ tỉnh Quảng Nam,
viết văn từ thời kì kháng chiến chống thợc dân Pháp, Ông là cây bút chuyên về
truyện ngắn,

Tập trung nhiệt thành ngợi ca những con người lao động mới, dám nghĩ dám làm,
không sợ khó khăn gian khổ, say mê trong lao động sáng tạo, nhn hậu và tha thiết
yêu cuộc sống Truyện của Nguyễn Thành Long hấp dẫn người đọc bằng văn trong
sáng, giàu chất thơ, nhẹ nhàng thoải mái, cốt truyện tưởng như đơn giản mà giàu ý
nghĩa khái quát, Lặng lẽ Sa Pa là truyện ngắn tiêu biểu như thế. Truyện viết về một
thị xã nhỏ bé của tỉnh Lào Cai luôn chìm đắm trong sương mù: Sa Pa. Đén với nới ấy
là những con người thật: một anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn trên
đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, một cô kĩ sơ nộng nghiệp mới ra trường, một bác lái xe
già đã chạy suốt 30năm trên tuyến đường Sa Pa, một họa sĩ đi thực tế chuyến cuối
cùng - của cuộc đời công tác trước khi nghỉ hưu, bốn gương mặt tiêu biểu, bốn tính
cách khác nhau: anh thanh niên đầy nhiệt huyết bộc trực, chân thành, cô kĩ sư trẻ
hồn nhiên nhưng kín đáo tế nhị, ông họa sĩ trầm tĩnh sâu lắng, còn bác lái xe thì sôi
nổi, vui tính Họ tình cờ gặp nhau trên con đường tới Sa Pa mà bỗng trở nên gần gũi
và thân thiết như một gia đình. Tuy tính tình và nghề nghiệp khác nhau, nhưng tất
cả đều có chung một tâm hồn trong sáng, tinh tế, một suy nghĩ lành mạnh sâu sắc
và nhất là họ có chung một thái độ sống, lao động, lầm việc và cống hiiến hết mình
cho Tổ quốc một cách vô tư hồn nhiên, âm thầm và lặng lẽ.Đó là một truyện ngăn
hay tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Thành Long: nhẹ nhàng kín đáo mà rất
sâu sẵcvà thấm đẫm chất thơ (Từ điiển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho
nhà trường ).
Các tác phẩm chính: Bát cơm cụ Hồ( 1953); Chuyện nhà chuyện xưởng( 1962);
những tiếng vỗ cánh(1967); Giũa trong xanh(1972); Nửa đêm về sáng(1978); Lí Sơn
mùa tỏi(1980); Sáng mai nào, xế chiều nào(1984)
2. Tác phẩm:
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được nhà văn Nguyễn Thành Long viết năm 1970 sau
chuyến đi Lào Cat của tác giả.
Thông qua một tình huống gặo gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh
thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa, tác giả
khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm
lặng.

***
Bài 8: "Chiếc lược ngà"- Nguyễn Quang Sáng
1. Tác giả :
Nhà văn Nguyễn quang Sáng sinh năm 1932, qua ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954 tập kết ra bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu
viết văn. Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, ông trở về Nam Bộ tham gia
kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản
phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam bộ trong hai cuộc kháng
chiến cũng như sau hòa bình.
"Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị , mộc mạc nhưng sâu sắc, viết để "phục vụ
ngay, để đánh trả lại kẻ thù từng miếng từng nhát thật sâu" . Ông đã khắc họa
những hình ảnh chân duung thực, đẹp đẽ của những con người miền Nam kháng
chiến. Đó là hình ảnh những người dân Sài Gòn đánh địch ngoan cường theo "kiểu
Sài Gòn" ( Chị Nhung, Sài Gòn dưới tầng khói) đó là những người nông dân đồng
bằng sông Cửu Long như anh Báy Ngàn bình thản ngồi hút thuốc sau khi quần nhau
mấy lần hút chết với giặc(Một chuyện vui) hay anh Ba Hoành trong Quán rượi người
câm cắn răng chụi đựng những trận tra tấn của kẻ thù đến hóa câm, bốn năm ở nhà
với vợ trông nom một quán rượi ven sông và âm thầm chuẩn bị lực lượng cho ngày
đống khởi Trong những năm kháng chiến, tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng đã có
tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động viên sức chiến đấu mạnh mẽ của nhân dân
miền Nam, củng cố niềm tin yêu của cả nước đối với đồng bào nơi thành đồng Tổ
quốc" ( Từ điển tác giả, tác phẩm văn xuôi dùng trong nhà trường).
Với thể loại truyện ngắn, qua nhiều tác phẩm, ông đã khẳng định một phong cách
đậm đầ chất Nam bộ từ việc xây dựmh khung cảnh thiên nhiên đến kháec họa tính
cách con người.
Các tác phẩm chính: Con chim vàng ( 1957); Người quê hương (truyện ngắn,1958);
Nhật kí người ở lại (tiểu thuyết,1962); Đất lửa (1963); Câu chuyện bên trận địa pháo
(truyện vừa,1966); Chiếc lược ngà (truyện ngắn 1966); Bông cẩm thạch (truyện

ngắn, 1969); Mùa gió chướng ( tiểu thuyết, 1975); Người con đi xa (truyện ngắn
1977); Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985); Bàn thờ tổ của một cô đào (truyện
ngắn, 1985); Tôi thích làm vua
(truyện ngắn, 1988); Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990); Con mèo Fujita
(truyện ngắn, 1991); Mùa gió chướng (1977, kịch bản phim); Cánh đồng hoang
(1978, kịch bản phim); Cho đến bao giờ (1982); Mùa nước nổi
(1986); Dòng sông hát (1988); Câu nói dối đầu tiên (1988); Thời thơ ấu (1995);
Giữa dòng (1995); Như một huyền thoại (1995);
Tác giả đã được nhận : Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Thống nhất
(1995); Giải thưởng cuộc thi truyên ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội (1959); Giải
thưởng Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà Văn (1985); Giải thưởng thưởng Hội Nhà
Văn Việt Nam 1993; Huy chương vàng Liên hoan phim toàn quốc (1980); Huy
chương vàng Liên hoan phim ở Matxcơva (1981); Huy chương bạc Liên hoan phim
toàn quốc (1980).
2. Tác phẩm:
Truyện chiếc lược ngà được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966 tại chiến
Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chông đế quốc Mĩ của nhân dân ta đang diễn
ra quyết liệt.
Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Quang Sáng. Băng
nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắà xây dựng tình huống bất ngờ, tác giả đã
thể hiện một cách cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu.
***
Bài 9: "Con cò" - Chế Lan Viên
1. Tác giả:
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ
- Quảng trị. Trước CM tháng 8, Chế Lan Viên đã nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới
qua tập Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có những đóng góp lớn vào những thành tựu của
văn học kháng chiến, ông là một trong những tên tuổi hành đầu ở nền thơ Viết Nam
thế kỉ XX .
"17 tuổi với tập thơ Điêu tàn, Chế lan Viên đã làm nên "một niềm tin kinh dị "trên thi

đài của Việt Nam đầu thế kỉ. Bộc lộ bằng một cảm xúc khác thường, quay lưng lại với
thực lại hiện hữu: "hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh - Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
- Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh - những ưu phiền đau khổ với buồn lo". Chế Lan
Viên tìm về quá khứ của dân tộc Chăm cũng là một cách diễn tả tâm trạng mình về
hiện thực của dân tộc.
Phần tích cực lẫn hạn chế trong hồn thơ Chế Lan Viên giao thao trên những nội buồn,
giấc mơ, những dằn vặt về sự tồn tại của chính mình. Khi những quan điểm Điêu tàn
đến Vàng sao đã không còn phù hợp, Chế Lan Viên rơi vào thần bí, bế tắc. Chỉ còn
một cách lựa chọn là hướng cảm xúc của chủ thể sáng tạo và yêu cầu mới, Chế Lan
Viên đã bắt gặp ngọn nguồn của sáng tạo sau CM tháng 8 1945.
Với Gửi các anh, tập thơ viết trong kháng chiến chống thực dân Pháp Chế
Lan Viên đã cố gắng tiếp cận với hiện thực cách mạng. Những ở đây, con người công
dân và con người nghệ sĩ vẫn chưa gặp nhau, bản sắc thi sĩ chưa kịp định hình. Chỉ
đến ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên mới thực sự "từ thung lũng đau thương đến
cánh đông vui", làm nên một gương mặt thi nhân tài hoa vào độc đáo trong nền thơ
ca cách mạng Việt Nam. Từ đây cho những bài thơ cuối đời, cái tôi trữ tình trong thơ
Chế Lan Viên luôn vận động vào phát triển, thống nhất trong đa dạng. Thơ Chế Lan
Viên đã tạo được một sức mạnh ám ảnh đối với người đọc trên cả hai phương diện
cảm xúc và trí tuệ. Với ý thức phục vụ cáh mạng, phục vụ cuộc sống bằng thi ca, thơ
Chế lan Viên đã muốn là tiếng nói thi ca lịc sử đất nước trong thời đại mới. Trong
những cảm hứng từ vĩ mô đến vi mô có cả chim báo bão, có cả hai ngày thường, có
đối thoại mới lẫn độc thoại với chính mình.
Chế Lan Viên là nhà thơ có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt Nam. Ông đã
làm một cuộc cách mạng về câu thơ, dòng thơ, khuôn khổ, phạm vi câu thơ cũ bị
phá vỡ. Thay vào đó, là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu
thơ dài ngắn xen lẫn nhau với các cặp phạm trù đối lập nhằm biểu đạt ý tưởng lớn
của bài thơ. Chế lan Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa, chủ yếu thể hiện ở
chiều sâu, ở tần triết lí, có sự gặp gỡ của hai nền thơ ca phương Tây và phương
Đông.Chế Lan Viên còn là một trong số những nhà thơ hiếm hoi là thơ tứ tuyệt thành
công nhất trong thơ ca Việt Nam hiên đại, kết hợp hài hòa giữa cái đẹp truyền thống

và hiện đại" (từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường,sdd)
Các tác phẩm chính: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); ánh sáng và phù sa
(1960); Hoa ngày thường,Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972);
Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người (1976); Hái theo mùa (1977); HoaTrên
đáTuyển tập Chế Lan Viên (hai tập 1985); Di cảo I (1994); Di cảo II (1995). Về văn
xuôi có các tập ký: Thăm Trung Quốc (1963); Những ngày nổi giận (1966); Giờ của
số thành (1977); Nói chuyện văn thơ (1960); Phê bình Văn học (1962); Vào nghề
(1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường dân tộc đang bay (1976);
Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê văn đến quán trung tân ( 1981);
Tác giả đã nhận được huân chương độc lập hạng 2 (năm 1988) Giả thưởng Hồ Chí
Minh về văn học và nghệ thuật (1996); Giải A giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam
năm 1985( Tâp thơ Hoa trên đá ); Giải thưởng hội nhà Văn Việt Nam 1994 (Di cảo I
và Di cảo II ).
2. Tác phẩm :
Bài thơ Con cò được rút trong tập Hoa ngày thường ,Chim báo bão (1967). thông qua
hình tượng con cò- một hình ảnh quên thuộc của những lời hát ru trong ca dao - tác
giả muốn đề cao ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và muốn khẳng định ý nghĩa lời ru
đối vơí cuộc đời mỗi con người.
***
Bài 10: "Mùa xuân nho nhỏ"- Thanh Hải
1. Tác giả :
Nhà thơ Thanh Hải (1930 - 1980) quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông hoạt động văn nghệ trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp rồi
chống đế quốc Mĩ và là một trong số những cây bút có công xây dựng nền văn học
cách mạng ở mirnf Nam thời kì đầu.
Các tác phẩm chính: Những đồng chí trung kiên (1962); Huế mùa xuân (tập 1,
1970; tập 2, 1975); Dấu võng Trường Sơn (1977); Mùa xuân đất này (1982); Thanh
Hải thơ tuyển tập (1982);
2. Tác phẩm:
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ thể hiện niềm yêu mến thiết thavới cuộc sống, với đất

nướcvà ước nguyện chân thành của tác giả về một cuộc sống hàng ngày càng tươi
đẹp hơn.
***
Bài 11: "Viếng lăng Bác"- Viễn Phương
1. Tác giả:
Nhà thơ Viễn Phương sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những
cây bút ccó mặt sớm nhất của lực lượng Văn nghệ Giải phóng ở miền Nam thời kì
chống Mĩ cứu nước. Thơ Viễn Phương còn nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, khá quen thuộc với
bạn đọc thời kì kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
Các tác phẩm chính: Chiến thắng Hòa Bình (trường ca, 1953); Anh hùng mìn gạt
(tập truyện kí, 1968); Mắt sáng học trò (tập thơ, 1970); Lời di chúc
(trường ca, 1972); Như mây màu xuân (tập thơ, 1978); Sắc lụa Trữ la (tập truyện,
1988); Phù sa quê mẹ (tập thơ, 1991); Quê hương địa đạo (tập truyên và kí);
Tác giả đã được nhận: Giải Nhì Giải thưởng Cửu Long Nam Bộ (1954); Giải Nhì Cuộc
thi viết cho thiếu nhi do Mặt trận tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; Giải
thưởng Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh; Tăng thưởng ủy ban toàn quốc Liên hiệp
Văn học - Nghệ thuật Việt Nam.
2. Tác phẩm:
- Bài thơ Viếng lăng Bác được viết khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng
xong, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện được mong ước
ra viếng Bác. Trong niềm xúc động vô bờ của đoàn người vào lăng viếng Bác, Viễn
Phương đã viết bài thơ này.
***
Bài 12: "Sang thu"- Hữu Thỉnh
1. Tác giả:
Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở huyên Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.Hữu
Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho
học. Đã trải qua tuổi ấu thơ không dễ dàng, chỉ thực sự được đi học từ sau hòa bình
lập lại(1954). Tốt nghiệp phổ thông (1963), sau đó vào bộ đội Tăng - thiết giáp và
nhiều năm tham gia chiến đấu tại các chiến trường Đường 8- Nam Lào (1970-1971) ,

Quảng Trị (1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh.
Năm 1981, sau khi tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du( khóa 1), Hữu Thỉnh về
làm phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. ông được bầu vào Ban Chấp hành
Hội nhà Văn Việt Nam từ khóa III(1983) đến nay. Hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt
Nam, Phó Chủ t5ịch Hội liên hiệpVăn học - Nghệ thuậtViệt Nam, đại biểu Quốc hội
khóa X, XI.
"Trước khi là nhà thơ, Hữu Thỉnh đã là một người lính, sống thậy sự cuộc sóng của
mình giữa lòng cuộc chiến đấu của dân tộc, Hình tượng người lính và hiện thực lớn
lao, sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng
chủ đạo cho các tập thơ của Hữu Thỉnh. Ngay ở tập thơ âm vang chiến hào, Hữu
Thỉnh đã có một giọng điệu riêng chân thật trong cảm xúc, tinh tế và có nhiều tìm tòi
trong cách biểu hiện. Sức bền của đất, Trên một chiếc xe tăng và Chuyến đò đêm
giáp ranh là những bài thơ được nhiều người biết tiếng. Một trong những đặc điểm
đưa đến sự thành công trong thơ Hữu Thỉnh là sự vận dụng nhuần nhuyễn và linh
hoạt những câu tục ngữ , ca dao dân gian. Nét đặc trưng này cũng là một điểm
mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ Hữu Thỉnh làm nên nét đặc sắc cho
thơ ông. Trường ca Đường tới thành phố đời đã thực sự đánh dấu một giai đoạn
trưởng thành của thơ Hữu Thỉnh. Hiện thực của mỗi thời chiến trận đã được thể hiện
với một quy môvà chiều dày hơn hẳn những tác phẩm ở những giai đoạn trước. Bằng
những hình tượng tiêu biểu đầy cảm xúc, chặng đường dẫn đến chiền thắng của dân
tộc được miêu tả và lí giải hợp lí, đạt hiệu quả nghệ thuật cao, trong đó có khá nhiều
những câu thơ tài hoa xúc động. Trường ca Biển viết về đảo Trường Sa là một cuộc
đối thoại khôn cùng giữa con người và biển cả. Nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu
sắcvề cuộc đời đã được thể hiện trong đó. Trước đây những câu thơ hay của Hữu
Thỉnh thiên về cảm. Bây giờ câu thơ của ông đậm màu triết luận, có sức nặng của
suy nghĩ và chiêm nghiệm. Chất lượng thơ Hữu Thỉnh thể hiện một quá trình phấn
đấu không ngừng. Tập Thư mùa đông là một nỗ lực tự vươn lên mình của ông"(từ
điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường Sđđ)
Các tác phẩm chính: âm vang chiến hào (in chung 1975); Đường tới thành
phố (trường ca, 1979); Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung); Thư mùa

đông (1984) ; Trường ca Biển (1984); Từ chiến hào đến thành phố (1985);
Tác giả đã được nhận : Giải nhất cuộc thi thơ báoVăn nghệ(1976), Giải thưởng Hội
Nhà văn Việt Nam(1980,1995); Giải thưởng văn học ASEAN
(1999); Giải thưởng Nhà nước (2001);
Hữu Thỉnh có nhiều bài thơ hay về con người và cuộc sống nông thôn.
2. Tác phẩm:
Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977, thể hiện những cảm nhận tinh tế
của nhà thơ trước biến thái của thiên nhiên từ hạ sang thu.
***
Bài 13: "Nói với con"- Y Phương
1. Tác giả:
Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, tại xã Lăng Hiếu,
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở Hà Nội. Ông là Hội viên hộI Nhà văn Việt
Nam(1988).
Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về
công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Cao Bằng.
Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩmđan dệt những màu sắc khác nhau, phong
phú và đa dạng, nhưng trong có màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc
rất đậm nét và độc đáo. Nết độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y
Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt nam nói chung, có thêm một giọng
điệu mới, một phong cach mới. (Từ điển tác giá tác phẩm văn học Việt Nam dùng
trong nhà trường).
Các tác phẩm chính: Người hoa núi(kịch bản sân khấu, 1982);Tiếng hát tháng
giêng(thơ, 1986); Lửa hồng một góc( thơ in chung, 1987);Lời chúc
(thơ,1991); Đàn then (thơ, 1996)
Tác giả đã nhận được: giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân dội; Giải thưởng loại
A Giải thưởng văn học 1987 của hội nhà văn Việt Nam
2. Tác phẩm:
Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương cho biết:
Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỉ XX , đời sống tinh thần và vật

chất của nhân dân ta cả nước nói chung, nhân đan cả nước nói chung, nhân dân các
dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước
ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ lâu dài và cục kì gian khổ. Hiện
thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta
vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượi qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn
tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lượng siêu
nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời
mà ông cha ta để lại.
Cuối năm 1975, tôi cũng mới từ mắt trận trở về, sau tám năm đánh giặc xa
nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của
toàn xã hội. Nhìn cách con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà lòng xót đau khôn tả.
Bởi chúng tôi cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít
ỏi. Hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt
của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa biến chất.
Họ buôn bán lận, lợi dụng khẽ hở của nhà nước móc lối làm ăn phi pháp. ở miền
Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã
tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.
Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tôi làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động
viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này.”
***
Bài 14: "Bến quê"- Nguyễn Minh Châu
1.Tác giả:
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu ( 1930- 1989) sinh tại làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là hội viên hội nhà văn Việt Nam (1972).
- Hoạt động văn học của Nguyễn Minh Châu khá phong phú và có những thành công
đáng trân trọng. Chỉ riêng về lĩnh vực sáng tac, nhiều tác phẩm của ông đã trở thành
đề tài tìm hiểu của hàng trăm bài báo, bài nghiên cứu và những chuyên luận khoa
học trong và ngoài nước. Đọc lại những trang viết cảu ông, đọc lại những bài viết về
ông, có thể thấy rằng: về cuộc đời và sự nghiệp vă học của Nguyễn Minh Châu còn
tiềm ẩn nhiều vấn, nhiều ngợi ý có khả năng hứa hẹn cho việc tiếp tục tìm hiểu,

nghiên cứu ở những bình diện và phương pháp tiếp cận mới.” (Nguyễn Trọng Hoàn,
Nguyễn Minh Châu- về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục 2001).
Các tác phẩm chính : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967) ; Những vùng trời khác nhau
( Tập truyện ngắn, 1970) ; Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972) ; Từ giã tuổi thơ
(tiểu thuyết, 1974) ; Miền cháy (tiểu thuyết, 1977) ; Lửa từ những ngôi nhà (tiểu
thuyết,1977) ; Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981); Những người đi từ trong rừng
ra (tiểu thuyết, 1982) ; Người đàn bà trên chiến tàu tốc hành ( Tập truyện ngắn,

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×