Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN ng­ữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 11 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC NGHI Léc
TRƯỜNG THCS Nghi yªn
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CÁCH LÀM BÀI NGHỊ LUẬN
VỀ ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ.
Người thực hiện:®µo thÞ mai


Nghi yªn,ngµy 4 th¸ng 3 n¨m 2010

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy ở học sinh bậc trung học cơ sở khả năng cảm
thụ tác phẩm (đặc biệt là tác phẩm thơ) và kỹ năng tạo lập văn bản có chiều hướng giảm
sút. Hơn nữa khi lên bậc trung học phổ thông học sinh sẽ sử dụng nhiều đến kiến thức về
nghò luận tác phẩm. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghò
luận về đoạn thơ, bài thơ”để nghiên cứu, tìm tòi cách dạy hữu hiệu và có tính khả thi với
mong muốn cải tiến phương pháp dạy học môn ngữ văn theo hướng tích cực .
2 . Phạm vi đề tài :
Lựa chọn đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài nghò luận về đoạn thơ, bài thơ” là tôi
hướng đến việc rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm và kỹ năng viết bài văn cho học
sinh. Nhưng trước hết phải giúp học sinh thấy được vẻ đẹp của tác phẩm thơ ca. Từ đó
hình thành sự yêu thích thơ ca. Sau đó mới rèn luyện năng lực cảm thu ïtác phẩm và viết
những hiểu biết của mình về tác phẩm thơ ca đó thành bài văn nghò luận. Tức là giúp học
sinh phát hiện những tín hiệu thẩm mỹ và biết cách phân tích để thấy được cái hay, cái
đẹp của tác phẩm thơ ca. Sau đó là tạo lập văn bản nghò luận dựa trên những hiểu biết
của mình về tác phẩm đó. Tóm lại, “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghò luận về đoạn
thơ, bài thơ” là bước đầu hình thành và rèn luyện năng lực văn chương ở học sinh trung
học cơ sở.
PHẦN THỨ NHẤT: THỰC TRẠNG


1. nghiên cứu tình hình :
Học sinh lớp 9 ( lớp cuối bậc trung học cơ sở ) là những học học sinh ở lứa tuổi nhạy
bén với hay, cái mới lạ. Đây cũng là lứa tuổi thích tìm tòi, khám phá, vẻ đẹp văn chương
sẽ giúp các em hứng thú hơn với môn học ngữ văn. Một đặc điểm nữa trong tâm lý học
sinh trung học cơ sở là muốn được khẳng đònh mình và tập làm người lớn. Điều này thuận
lợi cho việc giúp các em bước đầu đònh hình cách viết, văn phong cho mình khi tạo lập
văn bản .
Cùng với tâm lý học sinh trung học cơ sở, hệ thống chương trình ngữ văn ở các lớp
dưới đã giúp học sinh lớp 9 có những kiến thức cơ bản để thực hiện bài văn nghò luận về
tác phẩm thơ. Nếu các nội dung lập luận giải thích, lập luận chứng minh ở lớp 7, kiểu bài
thuyết minh ở lớp 8, học sinh tiếp thu tốt thì đó sẽ là cơ sở thuận lợi cho việc dạy kiểu bài
nghò luận về đoạn thơ, bài thơ ở lớp 9 .

Dựa trên cơ sở đặc điểm tâm lý và nội dung chương trình ngữ văn bậc trung học cơ sở
chúng tôi mạnh dạn thực hiện đề tài “ Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghò luận về
đoạn thơ, bài thơ” ở lớp 9 .
2. Thực trạng tình hình.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm cứ đến bài viết văn nghò luận về bài thơ, đoạn thơ là
chất lượng điểm bài kiểm tra rất thấp, thoạt đầu bản thân nghó do học sinh lười học, chủ
quan nên dẫn đến kết quả như vậy. Nhưng hiện tượng này lặp đi lặp lại nhiều năm nên
bản thân nhận thấy ở đây tồn tại một vấn đề về phương pháp làm văn nghò luận? Sau đây
là bảng thống kê điểm bài kiểm tra loại này trong một số lớp học ở vài năm gần đây:
stt Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Lớp Ts học sinh Trên TB Lớp Ts học sinh Trên TB Lớp Ts học sinh Trên TB
1 9A 47 21 9A 48 25 9A 45 23
2 9B 44 19 9B 47 20 9B 48 21
3 9C 41 15 9C 43 17 9C 44 19
4 9D 45 18 9D 41 19 9D 42 16
3. Đối tượng nghiên cứu :
Đề tài “ Cách làm bài văn nghò luận về đoạn thơ , bài thơ” được nghiên cứu, thực

hành ở lớp 9 Trường THCS Nghi yªn. Trong quá trình thực hiện chúng tôi có kiểm tra
thường xuyên, kiểm tra đònh kỳ và có những điều chỉnh kòp thơiø. Đề tài được thực từ ngày
01/12/2007 đến ngày 05/05/2008 hoàn thành bản thảo đề tài ngày 01/12/2009 .
4. Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài được thực bằng cách đem lý thuyến áp dụng vào thực tế, có điều chỉnh bổ sung
và từ thực tiễn rút ra phương pháp luận cuối cùng. Quá trình nghiên cứu, thực hành tôi sử
dụng các phương pháp dạy học sau :
- Thuyết trình giảng giải .
- Vấn đáp tìm tòi .
- Hợp tác trong từng nhóm nhỏ .
PHẦN THỨ HAI:CÁC GIẢI PHÁP
1.Nghò luận về đoạn thơ , bài thơ là gì ?
Nghò luận là bàn, đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó. Vậy nghò luận về đoạn thơ,
bài thơ là bàn, đánh giá những gì ?
Một bài thơ thường có dung lượng nhỏ nhưng chứa đựng nội dung lớn. Vì vậy mỗi
bài thơ thường có nhiều tầng ý nghóa. Để hiểu được các tầng nghóa của một bài thơ người

đọc phải hiểu được các từ ngữ trong bài thơ đó. Ngôn từ trong thơ ca thường mang nhiều
sắc thái ý nghóa nên có tác dụng chuyển tải nội dung rất phong phú. Một yếu tố khác cấu
thành nội dung bài thơ là hình ảnh trong thơ ( tức là hình tượng yhơ ). Hình tượng thơ có
thể mang ý nghóa cụ thể, có thể có ý nghóa khái quát hoặc cùng lúc vừa có ý nghóa khái
quát vừa có ý nghóa cụ thể. Nó giúp tác giả bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình. Bằng
hình tượng thơ, tác giả có thể biến vấn đề cá nhân thành vấn đề mang tính xã hội và có
giá trò lòch sử. Cùng với các yếu tố trên, yếu tố giọng điệu, nhòp điệu thơ cũng có vai trò
quan trọng. Nó thể hiện cảm xúc tâm trạng của tác giả và làm tăng tính nhạc cho bài thơ.
Ngoài ra còn có nhiều yếu tố quan trọng khác như thể thơ, cách gieo vần…
Như vậy nghò luâïn về đoạn thơ, bài thơ là đánh giá về giá về giá trò nội dung và nghệ
thuật của đoạn thơ, bài thơ đó. Mà giá trò nội dung, nghệ thuật của bài thơ được thể hiện
qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhòp điệu … trong bài thơ. Do đó nghò luận về đoạn thơ,
bài thơ phải bắt đầu từ các yếu tố cấu thành giá trò nội, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ

có ý kiến đánh giá của người nghò luận .
2. Những vấn đề cơ bản để thực hiện bài văn nghò luận về đoạn thơ, bài thơ :
Thơ ca có đặc trưng riêng của nó. Kiểu bài nghò luận về đoạn thơ, bài thơ cũng có
những yêu cầu riêng. Theo chúng tôi, để giảng dạy kiểu bài này người dạy phải hệ thống
và nắm vững những vấn đề cơ bản để thực nghò luâïn về đoạn thơ, bài thơ
Qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi và thực hiện tôi rút ra những vấn đềø cơ bản sau đây :
2.1. Kiến thức :
Để thực hiện nghò luận về đoạn thơ, bài thơ đòi hỏi người làm phải có kỹ năng
phân tích tổng hợp và lập luận tốt. Cùng với đó là khả năng liên hệ, tích hợp kiến thức
các phân môn, các môn học linh hoạt.
2.1.1. Phân môn tập làm văn:
Giáo viên phải nắm vững, yêu cầu học sinh nắm được và hướng dẫn học sinh vận
dụng tốt kiến thức tập làm văn đã học từ đầu cấp học cho đến khi học kiểu bài nghò luận
về đoạn, bài thơ.
Phương pháp lập luận giải thích giúp học sinh giải thích nội dung ý nghóa từ ngữ
và hình tượng thơ. Nghò luận chứng minh là cách làm sáng tỏ những nhận đònh của học
sinh trong bài làm. Các kiểu thuyết minh giúp rèn luyện kỹ năng lập luận. Đặc biệt kiểu
bài nghò luận về một vấn đề tư tưởng, đạo đức lối sống sẽ giúp học sinh có cách đưa ra
nhận xét, đánh giá hợp lý và chính xác nhất.
Mỗi bài tập làm văn đều có tác dụng đối với kiểu bài tập làm văn tiếp theo. Vì
vậy giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh vận dụng một cách tích cực, có hiệu quả
kiến thức đã học. Để thực hiện điều này thì tất cả giáo viên dạy bộ môn ngữ văn ở các
khối lớp đều phải chú ý rèn luyện kỹ năng vận dụng lý thuyết vào thực hành cho học
sinh.
2.1.2. Phân môn văn học:

Đây là phân môn cung cấp dữ liệu văn chương cho học sinh làm bài. Vì vậy giáo
viên phải chú ý giảng dạy, gợi mởđể học sinh lónh hội được cái hay, cái đẹp, những thành
công, hạn chế của tác phẩm. Vì chương trình ngữ văn mới không sắp xếp trình bày các
tác phẩm theo thời kỳ văn học mà sắp xếp theo phương thức biểu đạt. Do đó, khi giảng

dạy giáo viên phải phát huy tính sáng tạo trong dạy học. Đó là từng bước cung cấp kiến
thức về quan niệm thẩm mỹ, tâm lý tiếp nhận của người đọc ở mỗi thời đại. Điều này
không dễ nhưng có thể từng bước thực hiện được. Nếu học sinh không hiểu những luật
tục cổ hủ và thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì khó đồng
cảm với những đau thương mất mát mà Thúy Kiều ( “Truyện Kiều” – Nguyễn Du) và
của Vũ Thò Thiết (“ Chuyện Nười Con Gái Nam Xương” Nguyễn Dữ ) phải gánh chòu.
Học sinh không biết những chuẩn mực sống đẹp của người phụ nữ trong xã hội phông
kiến thì cũng khó rung động trước những bi kòch của những nhân vật phụ nữ kể trên.
Tương tự như vậy, để học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của chàng trai Lục Vân Tiên
(Truyện Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu ), giáo viên nhất thiết phải cung cấp quan
niệm sống đẹp của người trai đất Việt trong xã hội phong kiến. Khi học sinh hiểu quan
niệm thẩm mỹ của nhân ta trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ thì việc cảm thụ vẻ đẹp
của người lính trong bài thơ “ Đồøng chí” ( Chính Hữu ) và “ Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” ( Phạm Tiến Duật ) sẽ thuận lợi hơn. Hoặc xu hướng ca ngợi thiên nhiên, đất nước,
đi vào cái bản ngã, đề cao giá trò nhân bản trong thơ ca sau 1975 mà học sinh không hiểu
được thì khó cảm nhận hết cái hay trong “ nh trăng” ( Nguyễn Duy ) , “ Sang thu” (Hữu
Thỉnh )…
Một tiết văn học giảng dạy một tác phẩm là giáo viên cung cấp một số cơ sở dữ liệu
để học sinh sử dụng vào bài tập làm văn. Cho nên phải đặt tác phẩm vào đúng bối cảnh
xã hội, quan niệm xã hội khi nó ra đời nhằm giúp học sinh hiểu đúng giá trò tác phẩm. Để
học sinh viết được bài văn nghò luâïn về đoạn thơ, bài thơ giáo viên phải mang đến cho
học sinh không chỉ nội dung tư tưởng của tác phẩm mà còn là cảm xúc tâm trạng của tác
giả được gởi gắm vào bài thơ đó .
2.1.3. Phân môn Tiếng Việt :
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm thơ ca, gáo viên phải huy động cùng lúc
kiến thức nhiều môn học như : từ vựng ngữ nghóa,ngữ pháp tiếng Việt , thi pháp học,
phong cách học tiếng Việt, mỹ học … Đó sẽ là chìa khóa để cảm thụ tác phẩm thơ ca Việt
Nam. Đồng thời đó cũng là phương tiện để thực hiện bài tập làm văn của học sinh.
Những bài học về phép tu từ từ ngữ, trường từ vựng học sinh cần ghi nhớ, sử dụng. Đặc
biệt , giáo viên luôn nhắc học sinh tuân thủ các phương châm hội thoại khi làm bài để

tránh thừa từ, lặp từ làm cho câu văn dài dòng, tối nghóa.
Cung cấp cho học sinh kiến thức từ vựng ngữ nghóa, phong cách học tiếng Việt se
õgiúp học sinh hiểu được thái độ, tình cảm của tác giả thể hiện trong bài thơ. Chỉ với từ
“lao xao” trong câu “trước thầy sau tớ lao xao” và từ “tót” trong câu “ghế trên ngồi tót sỗ

sàng” tác giả Nguyễn Du đã thể hiện được thái độ của mình đối với nhân vật Mã Giám
Sinh. Thái độ ăn năn hối lỗi của một người đánh mất quá khứ được Nguyễn Duy thể hiện
rất đạt qua các câu thơ :
Ngửa mặt lên nhìn mặt
“Có cái gì rưng rưng”.
Và:
“ nh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình” .
Hoặc sự ngỡ ngàng khi nhận ra mùa thu đã về của tác giả Hữu Thỉnh được gởi gắm rất
tài tình qua các từ “ bỗng” và “hình như” trong các câu :

“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Như chúnh ta đã từng thấy bài thơ, đoạn thơ dù ngắn dù dài đều có những câu, những
từ đóng vai trò then chốt(thường gọi là nhãn tự). Khi phân tích, ta phải tìm được những từ
ngữ độc đáo ấy để lột tả được linh hồøn của bài thơ, đoạn thơ. Câu thơ sau trích trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
“Cậy em em có chòu lời
Ngồi lên cho chò lạy rồi hãy thưa”
Ở đây Thuý Kiều là chò mà sao lại cậy? Cậy là chỉ có kẻ dưới, kẻ yếu nhờ kẻ trên. Sao
tác giả lại không dùng:
- Nhờ em em có chòu lời
- Trông em em có chòu lời

Từ “cậy” ở đây được tác giả dùng rất đắt. Nó nói lên tâm trạng tan nát, đau đớn
của Thúy Kiều mong cho Thúy Vân nhận lời kết nối với Kim Trọng, thay nàng chăm
sóc cho chàng. Thương mối tình trong trắng với Kim Trọng mà phải trao gửi lại, nàng
thấy mình có tội. Chính vì thế mà nàng mong Thúy Vân gánh vác trách nhiệm nặng
nề và khó khăn này nên phải “cậy”. Hay trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh
Hải có đoạn viết:
“Ơi con chim chiền chiện.
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cái hay của đoạn thơ này là gì? “Từng giọt long lanh rơi”. Xưa nay người ta đón
nhận âm thanh bằng thính giác, ở đây tác giả lại đón nhận âm thanh bằng xúc giác, thò

giác: “giọt” âm thanh. Đó chính là cái hay cái thú vò của oạn thơ, một sự chuyển đổi
cảm giác. Trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh có câu: “Phăng mái chèo mạnh
mẽ vượt trường giang”. Tại sao tác giả không dùng:
Khua mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Đẩy mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Mà lại “phăng”, phăng là động từ mạnh thể hiện sức mạnh của con người, nhanh
nhẹn, rứt khoát qua đó cũng hứa hẹn một thành quả lao động rực rỡ ngoài khơ3i xa
mà nếu dùng “khua”, “đẩy” sẽ không làm thoát được ý này, nhòp thơ thiếu mạnh mẽ,
hào hùng.
Học sinh vâïn dụng kiến thức Tiếng Việt để hiểu tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Gáo
viên từng bước giáo dục học sinh vận dụng vào việc lựa chọn từ ngữ trong bài làm văn.
Đây là yếu tố quan trọng để học sinh có cảm xúc cùng chiều với tác giả và thể hiện ở bài
làm một cách chân thật, tự nhiên.
Một bài nghò luận về đoạn thơ, bài thơ buộc phải có cảm xúc gần với mạch cảm xúc
của tác giả và được thể hiện chân thật, tự nhiên. Để làm được điều này không thể xem
nhẹ phân môn Tiếng Việt trong khi giảng dạy bộ môn Ngữ văn .
2.1.4. Kiến thức lòch sử :

Quan niệm thẩm mỹ, tâm lý tiếp nhận và cơ sở tư tưởng của tác giả phụ thuộc rất
nhiều vào bối cảnh xã hội của mỗi thời kỳ lòch sử . Do đó bắt buộc phải tích hợp kiến
thức lòch sử khi tiếp cận tác phẩm văn chương. Không có kiến thức lòch sử về xã hội Việt
Nam thế kỷ XVIII – XIX sẽ không thấy hết sự cao cả của chủ nghóa nhân đạo trong “
Truyện Kiều”, không thấy được khát vọng tự do được gởi gắm qua nhân vật Từ Hải (“
Truyện Kiều” – Nguyễn Du ) và Lục Vân Tiên ( “ Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn
Đình Chiểu ). Học sinh liên hệ lòch sử nước ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ thì mới thấy vẻ đẹp trong thái độ dứt khoát, tư thế ung dung hiên ngang của người
lính cách mạng trong bài thơ “ Đồøng chí” ( Chính Hữu ) và bài “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” ( Phạm Tiến Duật ). Hay cảm hứng về vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước ca ngợi
lãnh tụ được chú ý khi đất nước thống nhất. Lúc này lòch sử đã sang trang con người nhìn
nhận đúng về vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Khát vọng và lòng
biết ơn được thể hiện rất chân thành, gần gũi trong các bài thơ “ Viếng lăng Bác” ( Viễn
Phương ), “ Mùa xuân nho nhỏ” ( Thanh Hải ). Hoặc hướng đến tính nhân bản , chiêm
nghiệm về bản thân , nhà thơ như tự mổ xẻ để đánh giá, nhận xét về chính mình trong bài
thơ “ nh trăng” ( Nguyễn Duy ) .
Tất cả những nội dung đó phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh lòch sử. Vì vậy phải đặt
tác phẩm vào hoàn cảnh lòch sử khi nó ra đời thì mới cảm thụ được tác phẩm. Từ đó có
hướng nghò luận về bài thơ phù hợp với tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Bài văn nghò luận
về đoạn thơ, bài thơ sẽ rất nhạt ( nến không nói là phản nghóa ) khi mgười nghò luận

không hiểu hoàn cảnh lòch sử khi tác phẩm ra đời vàkhông tự đặt mình vào bối cảnh đó
để cảm nhận và nghò luận về tác phẩm thơ ca đó .
2.2. Năng lực cảm thụ tác phẩm :
Rèn luyện, bồi dưỡng năng lực cảm thụ tác phẩm ở học sinh là việc làm thường
xuyên, lâu dài vì nó rất quan trọng. Nếu học sinh không có năng lực cảm thụ tác phẩm thì
việc giảng dạy kiểu bài nghò luận tác phẩm ( đặt biệt là tác phẩm thơ ) sẽ thất bại vì học
sinh không xác đònh được mình sẽ nghò luận về vấn đề gì? Vấn đề dó ra sao? Nên nghò
luận như thế nào? Như vậy để giảng dạy có hiệu quả kiểu bài nghò luận về đoạn thơ, bài
thơ giáo viên phải liên tục rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh. Theo tôi,

giáo viên phải nắm vững kiến thức đã nêu ở trên ( mục 2.1 ) để giúp học sinh cảm thụ
được tác phẩm .
Sau khi đọc bài thơ học sinh xác đònh được hoàn cảnh sáng tác vài thơ đó. Tức là
những gì tác động đến tác giả để tác giả viết nên bài thơ đó. Từ đó tìm hiểu được nội
dung phản ánh, ước mơ, khát vọng hay tâm trạng, cảm xúc của tác giả thông qua các tín
hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm thơ ca đó. Đặt bài thơ trong hoàn cảnh lòch sử khi nó ra đời
để đònh hướng nghò luận về tư tưởng thẩm mỹ của tác phẩm. Xác đònh nguồn mạch cảm
xúc của tác giả rồi tự đặt mình vào đấy , trôi theocảm xúc đó để cảm và viết những cảm
nhận của mình thành bài văn nghò luận có cảm xúc tự nhiên, chân thành. Nói cách khác,
học sinh phải biết soi mình vào tác phẩm thơ ca để hiểu được tâm trạng, cảm xúc của tác
giả. Từ đó khám phá vẻ đẹp văn chương của tác phẩm thơ ca đó. Khi viết bài văn nghò
luận học sinh cần phải viết bằng cảm xúc, tâm trạng cùng chiều với tác giả thì bài văn
mới có cảm xúc tự nhiên được.
Rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh giáo viên không thể không cung
cấp cho học sinh quan niệm thẩm mỹ, tư tưởng xã hội, hoặc những quy luật tâm lý, những
đạo lý truyền thống….
Khi tìm hiểu tác phẩm thơ ca trung đại học sinh phải được cung cấp những tiêu chí
như : cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt là cảnh đẹp. Những hình ảnh, âm thanh gắn
với một trạng thái tâm lý nhất đònh. Những loài cây như mai, lan, cúc, trúc có ý nghóa như
thế nào? Tiêu chí vẻ đẹp trong cách sống ra sao ? Như vậy sẽ giúp học sinh hiểu được
những câu thơ tả cảnh ngụ tình, miêu tả tâm trạng nhân vật hay ca ngợi vẻ đẹp trong
cách sống của Thúy Kiều ( trong “ Truyện Kiều” – Nguyễn Du ), của Lục Vân Tiên
( trong “ Truyện Lục Vân Tiên” _ Nguyễn Đình Chiểu )….Đến với văn học thời chống
Pháp và chống Mỹ, học sinh phải biết được nhiệm vụ chung của nhân dân Việt Nam lúc
đó là đánh giặc cứu nước. Vì vậy cái chung được đặt lên trên cái riêng. Từ đó học sinh
hiểu được thái độ dứt khoát của người lính cách mạng trong bài thơ “ Đồøng chí” của
Chính Hữu là vì nhiệm vụ chung, vì lý tưởng cách mạng. Họ rời xa làng quê vì nặng tình
với làng quê, ra đi với mục đích đem lại yên vui cho làng quê, đất nước mình. Một lý
tưởng sống đẹp, một tương lai tươi sáng của đất nước đã giúp người lính cách mạng lạc


quan, hiên ngang vượt qua gian khổ, nguy hiểm. Đó là nét đẹp của người lính cách mạng
trong bài thơ “ Đồng chí” ( Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ( Phạm
Tiến Duật ). Đến khi đất nước thống nhất thì cảm hứng ngợi ca thiên nhiên, đất nước
cùng với lòng biết ơn đối với Đảng, Bác Hồ trở thành cảm hứng chủ đạo của văn học nói
chung, thơ ca nói riêng từ sau 1975 đến nay. Từ đó thấy được trách nhiệm của mỗi người,
hình thành khát vọng cống hiến xây dựng đất nước. Điều này thấy rõ trong các tác phẩm
“ Viếng lăng Bác” ( Viễn Phương ), “Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải), “ Nói với con” ( Y
Phương), “Sang thu” ( Hữu thỉnh ) …Cũng có thể là con người tự đối diện với mình, tự
phán xét chính mình để nhắc nhở mình và mọi người đạo lý “ uống nước nhớ nguồn” của
nhân dân ta ( “ nh trăng” _ Nguyễn Duy).
Ngoài ra cần hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu, cách ngắt nhòp, ngắt câu của
từng bài thơ. Vì đó là yếu tố quan trọng để chuyển tải cảm xúc, tâm trạng của tác giả.
Câu thơ dài – ngắn nhòp thơ nhanh – chậm đều là dụng ý nghệ thuật của tác giả.Do đó
không nên xem thường việc đọc tác phẩm thơ ca .
Tóm lại, rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương cho học sinh là cung cấp
cho học sinh nền tảng kiến thức đặc trưng của từng thời kỳ văn học. Đây là yếu tố then
chốt để làm bài văn nghò luận về đoạn thơ, bài thơ. Mỗi giáo viên giảng dạy bộ mộn ngữ
văn phải luôn luôn chú ý đến việc rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm cho học sinh. Vì
xét cho cùng, dạy văn học văn là dạy và học cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương
và kỹ năng trình bày hiểu biết của mình thành bài văn. Tức là cảm thụ tác phẩm và trình
bày chính kiến của mình về tác phẩm bằng cách bàn, đánh giá về tác phẩm đó.
2.3. Kỹ năng trình bày : ù
Rèn luyện kỹ năng trình bày bài văn cho học sinh là việc làm không thể thực hiện
ngày một ngày hai. Ngoài kiến thức cơ bản về đoạn thơ, bài thơ cần nghò luận còn có kỹ
năng lựa chọn từ ngữ, sắp xếp các luận điểm để bài văn có bố cục chặt chẽ, hợp lý, có
cảm xúc tự nhiên, trong sáng.
Khả năng dùng từ của học sinh là kết quả của quá trình rèn luyện trong tâùt cả các tiết
học, đặc biệt là các tiết học tiếng việt. Để bài văn có cảm xúc tự nhiên trong sáng học
sinh phải có hướng tiếp cận tác phẩm hợp lý nhất. Để bài văn của học sinh có bố cục hợp
lý giáo viên cần phải cung cấp cho học sinh một dàn ý rõ ràng, chính xác. Qua quá trình

tìm hiểu, giảng dạy tôi tâm đắc với dàn ý sau đây :
DÀN Ý BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ ĐOẠN THƠ, BÀI THƠ
• Mở bài :
_ Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác. (những yếu tố từ đời sống xã hội, cá nhân tác
đôïng đến tác giả đểtác giả viết nên tác phẩm dó).
_ Giới thiệu tác giả ( phong cách sáng tác, thể loại, đề tài thường viết ), tác phẩm
( xuất xứ, hoặc vò trí đoạn trích ). Nêu khái quát giá trò tác phẩm ( nội dung và nghệ
thuật).

Trích dẫn ( đoạn thơ, bài thơ dài quá 10 câu không cần trích dẫn).
• Thân bài :
_ Trình bày nôi dung chính của bài thơ.Nội dung đó bao gồm những luận điểm
nào ?
_ Mỗi luận điểm được thể hiện ở những câu thơ nào ? (phần này xác đònh ở giấy
nháp ). Sau đó phân tích từng luận điểm theo các bước sau :
+ Giới thiệu (có thể nêu vò trí câu thơ hoặc dẫn dắt vào luận điểm )
+ Trích dẫn câu thơ,
+ Bình giảng ( nội dung và nghệ thuật).
+Liên tưởng ( chọn dẫõn chứng minh họa cho luận điểm đang nghò luận).
+ Kết đoạn, thực hiện liên kết đoạn với đoạn tiếp theo .
*Đoạn thơ, bài thơ có bao nhiêu luâïn điểm thì thực hiêïn các bước trên bấy nhiêu lần.
Trường hợp câu thơ không tiêu biểu thì bình giảng trực tiếp, (không giới thiệu, trích
dẫn).
_ Tổng hợp nội dung các luận diểm vừa nghò luận, khẳng đònh thành công của tác
phẩm ( về nội dung và nghệ thuật)
• Kết bài:
_ Ý nghóa của đoạn thơ, bài thơ .
_ Liên hệ thực tế rút ra bài học .
PHẦN THỨ BA: KẾT QUẢ
Việc đem kinh nghiệm vào áp dụng trong thực tế giảng dạy chúng tôi đã thu

được những kết quả rất tích cực. Điểm các bài kiểm tra đạt chất lượng cao hơn rõ
rệt so với khi chưa áp dụng . Hơn thế một số em đã trở nên yêu thích thơ ca, biết
cảm thụ cái đẹp, cái hay của thơ, chính vì thế các tiết học trở nên sôi nổi, nhiều ý
kiến xây dựng bài của học sinh có sự sáng tạo và mang đậm bản sác cá nhân.
Stt Năm học 2008
Lớp TS học sinh Trên TB
1 9A 44 35
2 9B 47 32
3 9C 43 30
4 9D 46 33

KẾT LUẬN
Qua thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy, để học sinh làm tốt bài nghò luâïn về
đoạn thơ, bài thơ trước hết phải giúp các em rèn luyện năng lực cảm thụ tác phẩm
thơ và kỹ năng trình bày bài. Vì vậy chúng tôi lựa chọn, xây dựng đề tài “ Hướng
đãn học sinh làm bài văn nghò luận về đoạn thơ, bài thơ” để nghiên cứu thực hiện.
Trong quá trình thực hiện chúng tôi nhâïn thấy học sinh hứng thú hơn với bôï môn
Ngữ văn, đặc biệt là phân môn tâïp làm văn. Năng lực làm bài của học sinh cũng có
những tiến bộ.
Thực hiện đề tài này có những khó khăn nhất đònh. Đó là giáo viên phải có năng
lực thẩm thơ, bình thơ tốt. Thực hiện tích hợp giữa các phân môn, tạo điều kiện cho
học sinh lện tập bình giảng trong tiêùt đọc- hiểu văn bản . Điều này ngoài năng
lực chuyên môn, đòi hỏi kỹ năng sư phạm tốt vì thời gian tiết học có hạn.
Thực hiện “Hướng dẫn học sinh làm bài văn nghò luâïn về đoạn thơ, bài thơ” là
từng bước hình thành, rèn luyện năng lực văn chương ở học sinh . Giúp các em thấy
được vẻ đẹp của thơ, của đời. Từ đó yêu thích bộ môn Ngữ văn và có tình yêu thơ
ca. Tôi ghi lại lý thuyết và cách thực hiện của mình hy vọng góp phần vào việc cải
tiến phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn tốt hơn.

Nghi yªn ngµy 4 th¸ng 3 n¨m 2010




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×