Đề tài thảo luận: Phân tích sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt
động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp. Liên hệ thực tiễn với môi
trường kinh tế ở Việt Nam.
PHẦN MỘT: ĐỀ CƯƠNG SƠ LƯỢC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về môi trường kinh doanh quốc tế
1. Khái niệm môi trường kinh doanh
2. Khái niệm môi trường kinh doanh quốc tế
II. Môi trường kinh tế và ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh
doanh quốc tế
1. Khái niệm môi trường kinh tế
2. Các yếu tố của môi trường kinh tế
a) Mô hình kinh tế
b) Điều kiện kinh tế
c) Chính sách kinh tế
3. Ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh quốc tế
III. Ảnh hưởng môi trường kinh tế Việt Nam đến các doanh nghiệp kinh doanh quốc
tế
1. Đánh giá chung về môi trường kinh doanh ở Việt Nam
2. Nguyên nhân môi trường kinh tế Việt Nam thu hút doanh nghiệp nước ngoài
a) Tác động từ chính sách thuế
b) Chính sách kinh tế của Nhà nước
c) Vị trí chiến lược
3. Giải pháp phát huy lợi thế môi trường kinh tế ở Việt Nam để thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài.
C. KẾT LUẬN
PHẦN HAI: BÀI HOÀN CHỈNH
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá nền kinh
tế đang diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết, phát triển cả về quy mô và tốc độ, cả về bề rộng
và chiều sâu. Chính vì vậy, việc các doanh nghiệp không ngừng tìm kiếm những cơ hội mở
rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc gia đã trở thành một vấn đề cấp bách hơn bao giờ
hết. Bởi các doanh nghiệp đang ngày đêm đối mặt với rất nhiều thách thức như: sự bão hòa
của thị trường, đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước, vấn đề công nghệ và tài nguyên…
Trong số các tác nhân ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh
nghiệp, thì môi trường kinh tế là một yếu tố quan trọng mà doanh nghiệp cần thận trọng
đánh giá để có chiến lược phù hợp. Chính vì vậy, nhóm 1 chọn đề tài thảo luận : “Phân tích
sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và liên hệ
thực tiễn với môi trường kinh tế ở Việt Nam” nhằm làm sáng tỏ những ảnh hưởng của môi
trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh quốc tế.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về môi trường kinh doanh quốc tế
1. Khái niệm môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh nói chung được hiểu là tổng hợp các yếu tố, các lực lượng
xung quanh ảnh hưởng tới hoạt động và sự phát triển của doanh nghiệp. Các lực lượng này
cũng có thể được phân loại thành bên ngoài hoặc bên trong. Lực lượng không kiểm soát
được là các lực lượng bên ngoài mà các chủ thể kinh doanh phải thích ứng với nó, nếu
muốn duy trì sự tồn tại của mình.
2. Khái niệm môi trường kinh doanh quốc tế
Môi trường kinh doanh quốc tế là tổng thể các yếu tố môi trường thành phần như môi
trường pháp luật. chính trị, kinh tế, văn hoá, cạnh tranh, tài chính… những yếu tố này tồn tại
trong mỗi quốc gia trong nền kinh tế thế giới, chúng có tác động và chi phối mạnh mẽ đối
với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tự điều chỉnh
các mục đích, hình thức và chức năng hoạt động của mình cho thích ứng, nhằm nắm bắt kịp
thời các cơ hội kinh doanh và đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
Trong những điều kiện của xu hướng xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá nền kinh
tế thế giới và nền kinh tế mỗi quốc gia, hoạt động kinh doanh quốc tế ngày càng được mở
rộng và phát triển, để thích ứng với xu hướng này, các doanh nghiệp đang từng bước tăng
dần khả năng hội nhập, thích ứng của mình với điều kiện mới của môi trường kinh doanh
trong và ngoài nước nhằm tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn chế rủi ro và gia tăng lợi
nhuận.
Do khác nhau về điều kiện địa lý, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, trình độ nhận
thức, tập quán… nên mỗi quốc gia tồn tại môi trường kinh doanh không giống nhau. Môi
trường kinh doanh là sự tổng hợp và tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố gây ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng không chỉ
đối với các hoạt động và kết quả kinh doanh của các công ty nước ngoài đang hoạt động tại
nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến cả kết quả hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh
nội địa.
Vì vậy, để có thể tiến hành kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế phải có sự am hiểu nhất định về môi trường kinh doanh nước ngoài, nơi mà các
doanh nghiệp sẽ hoạt động.
II. Môi trường kinh tế và ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh
doanh quốc tế
1. Khái niệm môi trường kinh tế
Điều kiện kinh tế, các chính sách và mô hình kinh tế là những yếu tố bên ngoài tạo
thành môi trường kinh tế của doanh nghiệp.
2. Các yếu tố của môi trường kinh tế
a) Mô hình kinh tế
* Nền kinh tế chỉ huy ( kinh tế kế hoạch hóa tập trung )
Trong một nền kinh tế được kế hoạch hóa tập trung, việc lựa chọn giữa ba vấn đề
kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào đều do Nhà nước
thực hiện. Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản
xuất kinh doanh. Nhà nước tiến hành quốc doanh hóa và tập thể hóa, xóa bỏ tư nhân. Nhá
nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở để thực hiện nhiệm vụ.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy cho Nhà nước theo
chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước sử dụng chế độ phân phối bằng hiện vật cho các cơ quan Nhà
nước, dùng chế độ tem phiếu để phân phối cho người tiêu dùng.
Thực hiện cơ chế giá bao cấp do Nhà nước quy định để tiến hành phân phối cho sản xuất và
tiêu dùng làm xuất hiện nhu cầu giả tạo, thừa và thiếu hàng hóa, dịch vụ; lợi dụng ăn chênh
lệch giá v.v.
Trước kia Trung Quốc, Đông Đức Liên Xô, Czechslovakia, Hungary, Ba Lan…là
những quốc gia đã từng vận hành nền kinh tế chỉ huy, tuy nhiên nay đã chuyển hướng sang
nền kinh tế thị trường.
* Kinh tế thị trường
Cơ chế thị trường giải quyết mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa giá cả, số lượng,
cung và cầu. Trong nền kinh tế thị trường có hai chủ thể rất quan trọng là: cá nhân và hãng.
Cá nhân sở hữu tài nguyên và sản phẩm tiêu thụ, trong khi hãng sử dụng nguồn tài nguyên
và sản xuất sản phẩm. Cơ chế thị trường liên quan đến tác động lẫn nhau giữa giá cả, số
lượng cung, cầu, các nguồn tài nguyên và sản phẩm. Nếu hãng trả lương thoả đáng, hộ gia
đình sẽ cung cấp lao động. Sản phẩm sẽ được tiêu thụ nếu có mức giá hợp lý. Tiền lương
của một hãng dựa trên cơ sở lao động đảm nhận công việc mà họ có.
Nguồn tài nguyên được phân phối theo hệ quả sự ảnh hưởng lẫn nhau lâu dài giữa hộ
gia đình và hãng cũng như hãng với hãng hay giữa các hộ gia đình với nhau. Ví dụ, yếu tố
đầu vào của một hãng này lại là yếu tố đầu ra của hãng khác. Nhân tố chính làm cho nền
kinh tế thị trường hoạt động là quyền lực tối cao của người tiêu dùng và sự tự do của các
doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Khi nào hai thành phần trên (cá nhân và hãng) vẫn
được quyền tự do định đoạt hành vi của mình thì sự tác động lẫn nhau giữa cung - cầu sẽ
đảm bảo cho việc phân phối chính xác các nguồn tài nguyên.
Quyền lực tối cao của người tiêu dùng chính là sự tự do của họ thông qua việc lựa
chọn sản phẩm từ đó mà tác động đến việc sản xuất. Nền kinh tế thị trường rất thành công
tại nhiều nước đã phát triển. Tuy vậy, thậm chí ở nước này cũng không có nền kinh tế thị
trường hoàn hảo, vì sự ảnh hưởng của ba nhân tố: các hãng lớn, các nghiệp đoàn và chính
phủ.
Các hãng lớn có thể giảm một phần sức ép của thị trường thông qua việc quản lý mua
các yếu tố sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làm ra. Do quy mô của hãng lớn, còn mỗi cổ đông
riêng lẻ tương đối nhỏ nên nảy sinh mâu thuẫn giữa quyền sở hữu và quản lý. Việc ra các
quyết định có thể có động cơ của thị trường hoặc là không? Sự gia tăng các hoạt động kinh
doanh là những thách thức đặt ra cho công cuộc làm ăn của các hãng lớn. Đây cũng là
những yếu tố tạo ra sự năng động trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, chính phủ là người trực tiếp điều phối các hoạt
động của các khu vực kinh tế khác nhau. Chính phủ xác định các mục tiêu sản xuất kinh
doanh, khối lượng sản phẩm, dịch vụ, giá cả… Vì vậy, sự phản ứng và thích nghi của các
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế ở môi trường này thường khó khăn, đòi hỏi phải tính toán
và cân nhắc để đưa ra những quyết định lựa chọn một cách thận trọng nhằm đề phòng và
tránh những rủi ro không đáng có.
* Nền kinh tế hỗn hợp
Đặc trưng của nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận hành theo nền kinh tế thị
trường có sự can thiệp của chính phủ với những mức độ khác nhau, chính phủ chỉ can thiệp
có mức độ giới hạn vào các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Bàn tay vô hình sẽ điều
chỉnh sự vận hành của nền kinh tế, thay cho sự can thiệp trực tiếp của chính phủ như trước
đây.
Sự can thiệp của chính phủ có thể diễn ra theo hai cách: chuyển sở hữu thực sự của
chính phủ đối với các yếu tố sản xuất và tạo ảnh hưởng trong việc ra quyết định kinh tế.
Vấn đề sở hữu có thể xác định một cách chính xác về số lượng bằng phương pháp thống kê,
tuy nhiên ảnh hưởng của chính phủ thông qua chính sách và tập quán khó có thể đo lường
một cách chính xác.
Chính sự can thiệp của chính phủ nhiều hay ít vào nền kinh tế có thể sẽ tạo ra những
thuận lợi, khó khăn và cơ hội kinh doanh khác nhau cho doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi
doanh nghiệp phải sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới trong kinh doanh, để
từ đó có sự điều chỉnh các hoạt động cho thích ứng, nhằm tránh những đảo lộn lớn trong
quá trình vận hành nhằm đạt những mục đích đã định trong kinh doanh.
b) Điều kiện kinh tế
_ Mức độ phát triển kinh tế của quốc gia:
Mức độ phát triển kinh tế liên quan mật thiết đến chất lượng cuộc sống của người
dân, có thể xác định thông qua chỉ tiêu GNI ( tổng thu nhập quốc dân ) bình quân. Thông
qua chỉ số GNI bình quân, Ngân hàng Thế giới đã chia các quốc gia thành bốn nhóm:
Phân chia GDP toàn cầu năm 1970 và 2004
• Nhóm nước thu nhập cao: 11456 USD trở lên ( Mỹ, Đức, Nhật…)
• Nhóm nước thu nhập vừa mức cao: 3706 USD – 11455 USD ( Nam Phi, Ba Lan,
Mexico…)
• Nhóm nước thu nhập vừa mức thấp: 936 USD – 3705 USD ( Trung Quốc,
Philippines, Ấn Độ…)
• Nhóm nước thu nhập thấp: Dưới 935 USD ( Kenya, Nigeria, Việt Nam…)
_Hệ thống tiền tệ và tỷ giá hối đoái:
Nếu tất cả quốc gia trên thế giới đều sử dụng hệ thống tiền tệ chung thì việc tiến hành
các hoạt động thương mại quốc tế hay kinh doanh quốc tế sẽ trở nên vô cùng tiện lợi và dễ
dàng. Tuy nhiên trường hợp này không xảy ra. Lấy ví dụ một doanh nghiệp muốn nhập
khẩu đồng hồ từ Thụy Sỹ. Vì những thợ chế tác đồng hồ muốn được trả bằng franc Thụy
Sỹ, doanh nghiệp sẽ cần biết được tỷ giá hối đoái giữa đồng USD và đồng franc Thụy Sỹ là
bao nhiêu. Nghiên cứu kỹ thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giúp doanh nghiệp thuận
lợi hơn trong hoạt động kinh doanh toàn cầu.
_ Nhân tố thị trường:
Quy mô và tiềm năng phát triển của thị trường là một trong những nhân tố quan
trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi đề cập đến qui mô của thị trường, tổng giá
trị GDP - chỉ số đo lường quy mô của nền kinh tế - thường được quan tâm. Quy mô thị
trường là cơ sở quan trọng trong việc thu hút đầu tư tại tất cả các quốc gia và các nền kinh
tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy FDI là hàm số phụ thuộc vào qui mô thị trường của nước mời
gọi đầu tư. Nhằm duy trì và mở rộng thị phần, các công ty đa quốc gia (MNEs) thường thiết
lập các nhà máy sản xuất ở các nước dựa theo chiến lược thay thế nhập khẩu của các nước
này. Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng, mức tăng trưởng GDP cũng là tín hiệu tốt cho
việc thu hút FDI. Bên cạnh đó, nhiều nhà đầu tư với chiến lược “đi tắt đón đầu” cũng sẽ
mạnh dạn đầu tư vào những nơi có nhiều kỳ vọng tăng trưởng nhanh trong tương lai và có
các cơ hội mở rộng ra các thị trường lân cận. Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư trong một
nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhắm đến những vùng tập trung đông dân cư – thị
trường tiềm năng của họ.
_ Nhân tố lợi nhuận:
Lợi nhuận thường được xem là động cơ và mục tiêu cuối cùng của nhà đầu tư. Trong
thời đại toàn cầu hóa, việc thiết lập các xí nghiệp ở nước ngoài được xem là phương tiện
rất hữu hiệu của các MNEs trong việc tối đa hóa lợi nhuận. Điều này được thực hiện thông
qua việc thiết lập các mối liên kết chặt chẽ với khách hàng và thị trường, cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ, chia rủi ro trong kinh doanh và tránh được các rào cản thương mại. Tuy vậy trong
ngắn hạn, không phải lúc nào lợi nhuận cũng được đặt lên hàng đầu để cân nhắc
_ Nhân tố về chi phí:
Nhiều nghiên cứu cho thấy, phần đông các MNEs đầu tư vào các nước là để khai
thác các tiềm năng, lợi thế về chi phí. Trong đó, chi phí về lao động thường được xem là
nhân tố quan trọng nhất khi ra quyết định đầu tư. Nhiều nghiên cứu cho thấy, đối với các
nước đang phát triển, lợi thế chi phí lao động thấp là cơ hội để thu hút đầu tư trực tiếp của
nước ngoài trong các thập kỷ qua. Khi giá nhân công tăng lên, đầu tư nước ngoài có
khuynh hướng giảm rõ rệch. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài cho
phép các công ty tránh được hoặc giảm thiểu các chi phí vận chuyển và do vậy có thể nâng
cao năng lực cạnh tranh, kiểm soát được trực tiếp các nguồn cung cấp nguyên nhiên vật
liệu với giá rẻ, nhận được các ưu đãi về đầu tư và thuế, cũng như các chi phí sử dụng đất.
Ngoài chi phí vận chuyển và các khía cạnh chi phí khác, cũng cần nhấn mạnh đến động cơ
đầu tư của các công ty xuyên quốc gia nhằm tránh ảnh hưởng của hàng rào quan thuế và phi
quan thuế, cũng như giúp giảm thiểu đáng kể chi phí xuất nhập khẩu. Trong một cuộc điều
tra các MNEs có mặt tại Philippines hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau cho thấy vị trí
địa lý, chi phí nhân công thấp và thị trường nội địa là ba nhân tố cơ bản có tính quyết định
đến việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các vùng khác nhau quốc gia này. Trong khi đó,
những nhân tố quan trọng nhất giúp thu hút đầu tư nước ngoài vào các địa phương của Thái
Lan là chi phí nhân công thấp, các điều kiện ưu đãi đầu tư của chính quyền địa phương và
sự sẵn có về tài nguyên thiên nhiên.
c) Chính sách kinh tế
Một yếu tố quan trọng khác nữa ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh quốc tế
là chính sách kinh tế của Nhà nước. Ở quốc gia này, một số danh mục hàng hóa có thể bị
hạn chế, nhưng ở quốc gia khác chúng có thể được phép kinh doanh. Chẳng hạn, chính sách
hạn chế nhập khẩu hay những chính sách bảo hộ nền công nghiệp nước nhà sẽ tạo nên cạnh
tranh trong lĩnh vực nhập khẩu. Tương tự, những ngành công nghiệp thuộc diện ưu tiên
trong chính sách kinh tế sẽ được hưởng nhiều hỗ trợ và ưu đãi từ Chính phủ hơn những
ngành được xếp vào diện thứ yếu.
3. Ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh quốc tế
Tại mỗi nước, nơi các công ty đa quốc gia đang hoạt động, có những đặc trưng khác
nhau về luật pháp, chính trị và cơ cấu kinh tế. Mức độ phát triển kinh tế cũng thay đổi
không giống nhau, đều có những điều kiện đa dạng phong phú. Với mỗi hoàn cảnh trong vô
số hoàn cảnh khác nhau, công ty đa quốc gia đều đưa ra một khung tham khảo dựa trên kinh
nghiệm trong nước, cũng như những bài học rút ra từ môi trường bên ngoài. Một hãng
muốn thành công thì ban quản trị phải phân tích chuẩn xác sự tác động qua lại giữa các
chính sách của các liên hiệp công ty, môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp để đạt được
hiệu quả cao nhất.
Khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài, các hoạt động của các doanh nghiệp và tổ
chức kinh tế trở nên ngày càng phức tạp hơn, vì giờ đây, các nhà quản lý phải hoạt động
trong hai môi trường mới: sự tác động của các yếu tố thuộc các quốc gia bên ngoài và các
yếu tố vận động của nền kinh tế thế giới. Vì những lý do như vậy, các chính sách cho những
hoạt động kinh tế trong một thị trường có thể hoàn toàn không thích hợp với những hoạt
động kinh tế trong một thị trường khác. Ngoài việc giám sát thị trường nước ngoài, các nhà
kinh tế phải theo kịp với hoạt động trong môi trường kinh tế thế giới như các nhóm theo
vùng (EU, AFTA) và các tổ chức quốc tế (UN, IMF, Ngân hàng thế giới).
Phân tích kinh tế thế giới nên cung cấp dữ kiện kinh tế trong cả thị trường thực và
viễn cảnh, cũng như đánh giá lực lượng cạnh tranh. Vì tầm quan trọng của thông tin kinh tế
đối với chức năng kiểm soát và kế hoạch ở đầu não, việc thu thập dữ kiện và chuẩn bị báo
cáo phải là trách nhiệm của nhân viên trong nước. Tuy nhiên nhân sự nước ngoài cũng sẽ
đóng góp nhiều vào công tác nghiên cứu thị trường của mình.
Mặt khác trong môi trường kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp luôn buộc phải có
những kiến thức nhất định về kinh tế. Các kiến thức về kinh tế sẽ giúp các nhà quản lý kinh
doanh xác định được: những ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế nước chủ nhà
và nước sở tại. Mặt khác, cũng thấy được ảnh hưởng của những chính sách kinh tế của một
quốc gia đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Tính ổn định hay bất ổn về kinh tế và chính sách kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng,
của các quốc gia trong khu vực và thế giới nói chung, có tác động trực tiếp đến hoạt động
kinh doanhvà hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài, Tính ổn
định về kinh tế, trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ,
khống chế lạm phát. Đây là điều các doanh nghiệp kinh doanh rất quan tâm và lo ngại vì nó
liên quan đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là liên quan đến sự
an ninh của đồng vốn của các doanh nghiệp này ở nước ngoài.
Hệ thống kinh tế có vai trò cực kì quan trọng. Mỗi một quốc gia trong nền kinh tế
toàn cầu tồn tại dưới một hệ thống kinh tế khác nhau. Hệ thống kinh tế được thiết lập nhằm
phân phối tối ưu nguồn tài nguyên khan hiếm, tạo cho những người sử dụng phải cạnh tranh
với nhau. Dựa trên tiêu thức phân bố các nguồn lực và cơ chế điều khiển nền kinh tế, có thể
phân nền kinh tế thế giới thành các nhóm nước đi theo mô hình kinh tế chỉ huy. Nếu dựa
theo hình thứ sở hữu tài sản thì có sở hữu tư nhân, sở hữu công cộng (sở hữu nhà nước) và
sở hữu hỗn hợp.
III. Ảnh hưởng môi trường kinh tế Việt Nam đến các doanh nghiệp kinh doanh quốc
tế
1. Đánh giá chung về môi trường kinh doanh ở Việt Nam
Ngày 28-3, tại Hà Nội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và
Ngân hàng Thế giới (WB) công bố Báo cáo thường niên doanh nghiệp (DN) Việt Nam
2010. Báo cáo nhận định Việt Nam đã có những cải thiện về môi trường kinh doanh trong
năm 2010, tiến 10 bậc so với năm 2009 (đứng thứ 78/183 nước) và đứng thứ tư trong số 10
nền kinh tế cải cách nhiều nhất về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh. Trong đó
phải kể đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao 6,78%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng
25,5% so với năm 2009.
Tính đến hết năm 2010, tổng số DN đăng ký thành lập đã đạt hơn 544.000 DN, vượt
mục tiêu đề ra của Chính phủ là 500.000 DN.
Tập đoàn Sumitomo của Nhật Bản sau hai năm khảo sát tại Việt Nam, đã có kế
hoạch đầu tư 3,8 tỷ USD để xây dựng nhà máy nhiệt điện có công suất 2.640 MW tại khu
kinh tế Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa). Sumitomo cũng vừa được trao giấy chứng nhận đầu
tư liên doanh với Tổng công ty Hàng hải Việt Nam để triển khai dự án xây dựng cảng trung
chuyển quốc tế Vân Phong, với mức đầu tư ban đầu gần 200 triệu USD. Cùng với
Sumitomo, liên doanh giữa Tập đoàn AES (Mỹ) và Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt
Nam cũng sẽ xây dựng nhà máy nhiệt điện Mông Dương 2 (Quảng Ninh) với công suất
1.200 MW có vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD.
Lĩnh vực bất động sản và du lịch cũng có khá nhiều dự án lớn đang chờ được cấp
phép đầu tư. Đáng chú ý là dự án “Hòn Ngọc châu Á" gồm trung tâm tài chính, khách sạn
và khu phức hợp đô thị tại Phú Quốc có vốn đầu tư 2,7 tỷ USD do Tập đoàn ủy thác Trustee
Suisse (Thụy Sĩ) liên doanh với Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam làm chủ
đầu tư. Ngoài ra, Kumho Asiana của Hàn Quốc cũng dự định đầu tư xây dựng Trung tâm
văn hóa-thương mại Giảng Võ và Triển lãm Mỹ đình (Hà Nội) trị giá 2,5 tỷ USD. Hai công
trình dự kiến sẽ hoàn thành trước năm 2010.
Cũng theo nguồn tin của Cục Đầu tư nước ngoài, sau quyết định đầu tư của Intel, lĩnh
vực công nghệ thông tin Việt Nam càng trở lên hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài và hiện đang
thu hút được nhiều dự án quy mô lớn. Điển hình là Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đã có kế
hoạch đầu tư 5 tỷ USD để xây dựng các khu công nghệ điện tử tại nhiều tỉnh trên cả nước,
dự kiến cuối tháng này sẽ khai trương nhà máy sản xuất sản phẩm điện tử tại tỉnh Bắc Ninh.
Tiếp đến là Tập đoàn Pacific Land Limited của Anh cũng đang xúc tiến đầu tư 1 tỷ USD
vào Khu công nghệ cao Sài Đồng A.
Đáng chú ý trong các dự án xúc tiến gần đây là dự án của các doanh nghiệp Trung
Quốc với 5 công trình lớn, chủ yếu trong lĩnh vực nhiệt điện và địa ốc. Trong chuyến thăm
Trung Quốc của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 5 vừa qua, doanh nghiệp hai bên
đã ký biên bản ghi nhớ cho 5 dự án này. Trong đó, Tổng Công ty An Phú và Tổng Công ty
Hàng Hải Việt Nam cùng với đối tác là Tập đoàn Chiêu Thương và Ngân hàng Khai Phát
của Trung Quốc sẽ xây dựng khu đô thị mới An Phú Hưng tại Thành phố Hồ Chí Minh và
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, với số vốn 1 tỷ USD. Ngoài ra, các doanh nghiệp nước này cũng rót
650 triệu USD vào dự án nhà máy nhiệt điện tại Thành phố Hồ Chí Minh; khu thương mại
cao cấp và dự án đường cao tốc Hạ Long-Móng Cái, mỗi dự án 400 triệu USD.
Mặc dù kết quả thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI tiếp tục tăng hơn so với cùng kỳ
năm trước, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và cơ hội hiện có, khi các nhà đầu tư
lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ đang coi Việt Nam là một trong những địa
bàn đầu tư ưu tiên.
2. Nguyên nhân môi trường kinh tế Việt Nam thu hút doanh nghiệp nước ngoài
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định cũng như môi trường đầu tư - kinh doanh được
cải thiện đang khiến Việt Nam ngày càng trở thành mối quan tâm của nhiều tập đoàn lớn
trên thế giới với quy mô vốn đầu tư cho mỗi dự án vượt xa giai đoạn trước. Dưới đây là một
số nguyên nhân tiêu biểu khiến cho môi trường kinh tế Việt Nam thu hút doanh nghiệp nước
ngoài.
a) Tác động từ chính sách thuế
Đối với đầu tư nước ngoài, mặc dù mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tăng từ
25% lên 28% nhưng do không phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đồng thời với
chính sách thống nhất và bình đẳng nên môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn hơn nhiều
so với trước. Vì vậy, từ năm 2004 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng
lên: năm 2004 là 4,6 tỷ USD, năm 2005 là 5,8 tỷ USD, năm 2006 là 10,2 tỷ USD, năm 2007
vốn đăng ký dự kiến đạt trên 20 tỷ USD, trong đó công nghiệp là lĩnh vực thu hút lượng vốn
lớn nhất (năm 2007 chiếm khoảng 50% vốn đăng ký).
b) Chính sách kinh tế của Nhà nước
Việc Việt Nam công bố các chính sách ổn định kinh tế gần đây là một bước quan
trọng đúng hướng để phá vỡ chu kỳ phát triển nóng rồi lại tăng trưởng chậm, và để khôi
phục lại hình ảnh của một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của đầu tư nước ngoài trong
khu vực.
Các thị trường tài chính quốc tế đã phản ứng thuận lợi trước những biện pháp của
Chính phủ Việt Nam, cụ thể là mức rủi ro của trái phiếu ngoại tệ do Chính phủ Việt Nam
phát hành đã có cải thiện đôi chút. Điều này cũng dự báo tốt cho thành công của các biện
pháp này. Tỷ lệ lạm phát cơ bản giảm và ở mức ổn định cùng với sự cân bằng được cải
thiện của thị trường quốc tế dần dần sẽ giúp bình ổn thị trường ngoại hối.
Ngoài ra, với các điều chỉnh ngân sách 2011 và Nghị quyết gần đây, Chính phủ Việt
Nam đã thể hiện quyết tâm tiếp tục củng cố các tài khoản tài chính và dần dần giảm bớt
thâm hụt ngân sách đến mức trước thời điểm kinh tế suy giảm. Nợ công của Việt Nam có
thể vẫn bền vững nếu duy trì được đà phục hồi kinh tế hiện nay và Chính phủ Việt Nam có
một lộ trình giảm thâm hụt tài chính.
Theo WB, trong khi các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô sẽ làm chậm tăng trưởng
trong ngắn hạn, nếu thực hiện thành công, các biện pháp này sẽ giúp Việt Nam đạt được
tiềm năng tăng trưởng trước giao đoạn suy giảm của mình trong trung hạn. Tuy nhiên, trong
ngắn hạn Việt Nam buộc phải “hy sinh” GDP, và chỉ có thể lấy lại mức tăng trưởng tiềm
năng trong trung hạn. WB cũng lưu ý rằng Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách
thức lớn trong vài tháng tới do việc tăng giá nhiên liệu và điện, giá cả hàng hóa tăng trên
toàn cầu, và tiền đồng giảm giá sẽ tăng thêm áp lực lạm phát trong ngắn hạn. Báo cáo của
WB cho rằng, việc thiếu một chính sách vĩ mô tổng thể và nhất quán đã làm cho bất ổn
kinh tế vĩ mô trong những năm vừa qua của Việt Nam đi từ thái cực này sang thái cực khác.
Mặc dù lấy lại tăng trưởng nhanh chóng sau giai đoạn suy giảm từ đầu năm 2009,
theo WB, những bất ổn kinh tế vĩ mô hiện nay của Việt Nam có xuất phát từ chính sách kích
thích kinh tế giai đoạn trước. Từ quý 3/2010, lạm phát bắt đầu tăng nhanh, chênh lệch tỷ giá
tại thị trường không chính thức và thị trường chính thức bị nới rộng. Xuyên suốt quý
4/2010, giá cả tiếp tục leo thang do nhu cầu trong nước tăng mạnh vào dịp cuối năm cùng
với tác động của việc tăng giá cả toàn cầu và các khó khăn về nguồn cung lương thực phẩm
trong nước do dịch bệnh và thời tiết. Cũng tại giai đoạn này đã nảy sinh các vấn đề tài chính
tại Vinashin. Thiện cảm của thị trường vốn quốc tế đối với Việt Nam suy giảm, WB cho
biết.
Mặc dù đã có cải thiện trong thâm hụt tài khoản vãng lai và tiếp tục thặng dư lớn
trong tài khoản vốn, lượng dự trữ ngoại hối trong năm 2010 giảm đi. Phần lớn thặng dư
trong cán cân thanh toán đều nằm ngoài hệ thống ngân hàng dưới dạng lỗi và sai số, mà
trong hai năm liên tiếp, số thặng dư này vượt quá 10 tỷ USD.
Vấn đề kinh tế vĩ mô qua một thời gian đã phần nào làm giảm lòng tin, với việc một
bộ phận hộ gia đình và doanh nghiệp Việt Nam chuyển tiền của mình sang USD và vàng vì
lo lạm phát cao và sự không rõ ràng trong các chính sách, WB cho biết.
Trước tình hình này, đến đầu tháng 2/2011, Chính phủ đưa ra các biện pháp mạnh để
khôi phục lại ổn định kinh tế vĩ mô, công khai đưa ra ý định theo đuổi "chính sách tài chính
và tiền tệ chặt chẽ và thận trọng", thể hiện qua việc ban hành Nghị quyết 11, bao gồm một
loạt các cải cách tiền tệ, tài chính và cơ cấu nhằm làm dịu nền kinh tế quá nóng.
c) Vị chí chiến lược
Theo tờ Thời báo Tài chính ngày 2/3, mặc dù Việt Nam đang phải vật lộn với lạm
phát cao, đồng nội tệ giảm giá, nhập siêu cao nhưng dự án đầu tư 200 triệu euro của hãng
sản xuất điện thoại di động Nokia (Phần Lan) cho thấy Việt Nam vẫn là một điểm thu hút
đầu tư nước ngoài hấp dẫn trong trung và dài hạn.
Báo trên nhận định trong khi nền kinh tế còn nhiều bất ổn, lãi suất cho vay lên tới
20%/năm, Việt Nam tiếp tục hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhờ nguồn nhân công khá
rẻ và vị trí chiến lược, nối Trung Quốc và Đông Nam Á. Việt Nam đã được nhắc đến nhiều
thông qua dự án Nokia, tập đoàn sản xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới, sẽ xây dựng
nhà máy sản xuất điện thoại ở tỉnh Bắc Ninh, với vốn đầu tư 200 triệu euro, dự án đầu tiên
của Nokia ở Đông Nam Á.
Nokia cho biết, nhà máy dự kiến được khánh thành vào năm 2012 và hãng sẽ tiếp tục
đầu tư lớn hơn vào Việt Nam trong tương lai. Nokia nhận định: "Việt Nam đã nổi lên là một
nơi có vị trí và hạ tầng đang phát triển, nên thị trường này là sự lựa chọn tốt cho Nokia."
Dự án của Nokia sẽ là sự bảo đảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài rằng, Việt Nam
đang phát triển, mặc dù vẫn còn lo ngại về tình hình kinh tế vĩ mô. Năm 2010, Intel cũng đã
khai trương nhà máy lắp ráp và kiểm tra chip tại Thành phố Hồ Chí Minh, với tổng vốn đầu
tư 1 tỷ USD. Giám đốc điều hành Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam, Matthias
Duhn, nói rằng dự án của Nokia là một tín hiệu tốt cho thấy Việt Nam vẫn là một điểm hấp
dẫn đầu tư trong trung và dài hạn. Một nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nói điều này là
tích cực khi Nokia đã chọn Việt Nam chứ không phải là Indonesia, Thái Lan hay Malaysia -
những nước có nhiều kinh nghiệm hơn trong sản xuất đồ điện tử.
3. Giải pháp phát huy lợi thế môi trường kinh tế ở Việt Nam để thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài.
Thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới,
trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam tiếp tục có nhiều nỗ lực trong việc cải cách nền
kinh tế theo những hướng cơ bản sau:
_ Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh; phát huy mạnh mẽ tiềm năng của khu vực kinh tế dân doanh theo hướng tạo lập môi
trường hợp tác, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ sự phân biệt đối
xử bất lợi cho kinh tế dân doanh, trước hết là trong việc sử dụng đất và tiếp cận nguồn vốn
tín dụng nhà nước.
_ Tạo bước tiến mới trong việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp này với phạm vi rộng hơn, bao
gồm cả một số Tổng Công ty, doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu quả.
_ Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các loại thị trường, bao gồm thị trường vốn, bất động sản,
dịch vụ, khoa học-công nghệ, lao động…, đồng thời với việc củng cố hệ thống tài chính,
ngân hàng và đổi mới các công cụ quản lý kinh tế theo hướng cạnh tranh và hội nhập với
nền kinh tế thế giới.
_ Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng kiện
toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của chính quyền các cấp; đổi mới cơ chế quản lý
các đơn vị sự nghiệp công; cải cách tiền lương; chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, xiết
chặt kỷ cương hành chính.
_ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nhằm nâng sức cạnh tranh trong thu hút và sử dụng
nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo hướng xây dựng một Luật Khuyến khích và bảo hộ đầu
tư thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; mở rộng quyền kinh doanh của
các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phù hợp với những cam kết của Việt Nam về mở cửa
thị trường; mở rộng các lĩnh vực và hình thức thu hút đầu tư nước ngoài; kịp thời tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; gấp
rút sửa đổi một số quy định không hợp lý trong các Nghị định hướng dẫn thi hành chính
sách thuế, tuyển dụng lao động nhằm đảm bảo tính nhất quán và thống nhất về chính sách
khuyến khích đầu tư nước ngoài mà Việt Nam đã cam kết.
Trong những định hướng vừa trình bày ở trên, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đầu tư
là một trong những giải pháp quan trọng mà Chính phủ Việt Nam đang thực hiện nhằm cải
thiện môi trường đầu tư nước ngoài. Giải pháp này đã và đang được triển khai rộng rãi theo
ba hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Việt Nam luôn chủ động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc
gia để từng bước phù hợp với thông lệ, tập quán quốc tế.
Hơn 15 năm qua, Luật Đầu tư nước ngoài đã liên tục được hoàn thiện qua 4 lần sửa
đổi, bổ sung ở các mức độ khác nhau trong các năm 1990,1992, 1996 và gần đây nhất vào
tháng 6 năm 2000. Trong các lần sửa đổi, bổ sung này, việc đảm bảo để hệ thống pháp luật,
chính sách về đầu tư nước ngoài tương thích với tập quán, thông lệ quốc tế luôn là một
trong những mục tiêu quan trọng nhất. Nhờ vậy, các quy định của Luật ngày càng được
hoàn thiện phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần tạo môi
trường đầu tư thuận lợi, minh bạch và bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế.
Thứ hai, Việt Nam đã và đang tham gia có hiệu quả vào các cơ chế pháp lý song
phương, khu vực và thế giới điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài.
Đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định song phương về khuyến khích và
bảo hộ đầu tư với 47 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, bằng việc ký kết Hiệp
định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, trong đó có một Chương riêng về phát triển quan hệ
đầu tư, Việt Nam đã cam kết thực hiện tiêu chuẩn về đối xử đầu tư với mức cao nhất từ
trước đến nay. Trong khuôn khổ hợp tác đa phương, Việt Nam đã ký kết Hiệp định khung
về Khu vực đầu tư ASEAN, tham gia Chương trình hành động xúc tiến đầu tư Á-Âu và xây
dựng Chương trình hành động quốc gia về tự do hóa đầu tư trong khuôn khổ APEC.
Các cam kết quốc tế của Việt Nam về đầu tư nước ngoài có hình thức, phạm vi và
mức độ khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu chung là nhằm tự do hóa hoạt động ĐTNN
bằng việc mở cửa các lĩnh vực kinh tế và thực hiện chế độ không phân biệt đối xử đối với
nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình nhất định, đồng thời thiết lập một cơ chế khuyến khích,
bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, Việt Nam đang từng bước thu hẹp khoảng cách phân biệt giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài nhằm tiến tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho các loại
hình doanh nghiệp.
Trong những năm qua, ở Việt Nam còn tồn tại hai hệ thống pháp luật riêng điều
chỉnh hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, trong đó có một số quy định khác
biệt về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp, về mức độ tham gia thị
trường, về giá, phí dịch vụ, tuyển dụng lao động, về chính sách thuế, tiền thuê đất… Trong
năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định cho phép chuyển đổi một số doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần với mô hình tổ chức, quản lý
và hoạt động tương tự như quy định đối với nhà đầu tư trong nước.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cũng đang nghiên cứu xây dựng một Luật đầu
tư chung áp dụng cho tất cả doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu. Đây cũng là
một bước tiến mới trong lộ trình đang được đẩy nhanh nhằm thu hẹp sự khác biệt trong
chính sách giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Việc thực hiện cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập đầu tư nói
riêng không chỉ là đòi hỏi của Cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam, mà còn là yêu cầu bức
thiết của chính Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài luôn là một bộ phận không thể
tách rời của nền kinh tế Việt Nam.
C. KẾT LUẬN
Việt Nam ngày càng hội nhập hiệu quả và trở thành điểm đến hấp dẫn hơn trong mắt
cộng đồng nhà đầu tư quốc tế, nhờ việc kiên trì mục tiêu kinh tế, áp dụng những chính sách
thông thoáng, qua đó đã cải thiện môi trường kinh doanh liên tục trong những năm gần đây.
Tuy vậy vẫn nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, buộc các nhà kinh tế, các
nhà hoạch định cũng như Chính quyền cần ra sức sửa đổi để cải thiện vị trí Việt Nam trên
trường quốc tế.