Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Học thuyết Chính danh của triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.08 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BÀI KIỂM TRA
MÔN TRIẾT HỌC
Đề bài:
Học thuyết Chính danh của triết học Nho giáo và ảnh hưởng
của nó tới Việt Nam
Giáo viên: Nguyễn Đình Tư
Học viên: Nguyễn Công Sỹ
Lớp: QLBVR K20A
Hà Nội, tháng 7 năm 2012
Nội dung
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRƯỜNG PHÁI NHO GIÁO
1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
- Trung Quốc là một quốc gia phương Đông điển hình, đó là một xã hội không có
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt thể hiện rõ nét nhất là không có tư hữu về
ruộng đất. xã hội Trung Quốc cũng giống như nhiều xã hội khác ở châu á không hề
giống như một xã hội nô lệ và phong kiến phương Tây. Đặc điểm của xã hội ấy là công
hữu ruộng đất chiếm ưu thế, tàn dư công xã kéo dài, nền kinh tế - xã hội diễn ra với sự
cống nạp từ bên dưới và phân phối từ bên trên.
Nhà nước ra đời sớm do nhu cầu, đòi hỏi của lịch sử, mặc dù phân hóa giai cấp
chưa chín muồi.
Xã hội và quốc gia chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại được hình thành vào
khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ Trung
Quốc cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp thượng lưu
của xã hội chiếm hữu nô lệ với những người nông dân bị phá sản, bị nô dịch và phụ
thuộc. Giữa tầng lớp quý tộc gia truyền bị bần cùng hóa với những thương nhân và trọc
phú tiếm quyền. Những xung đột giai cấp trong quốc gia chiếm hữu nô lệ Trung Quốc trở
nên sâu sắc. Cuộc đấu tranh ấy để lại những dấu ấn rất nặng nề. Nó tạo tiền đề chính trị -
xã hội cho cuộc đấu tranh của các trường phái chính trị khác nhau rất đa dạng và phong
phú.


Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Trung Quốc loạn bởi sự xâu xé lẫn nhau, tranh bá
quyền với nhau, Trung Quốc bị chia thành hàng trăm tiểu quốc, rồi những nước nhỏ có
tương đồng với nhau trong hoàn cảnh nào đó liên minh với nhau chống lại liên minh
khác, cuối cùng dẫn đến phong trào ngũ bá (Tề, Tấn, Tần, Tống, Sở). Câu hỏi lớn của
lịch sử Trung Quốc thời kỳ này là làm thế nào để ổn định xã hội? Trả lời câu hỏi ấy là
phong trào "bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" (Trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua
nở). Hàng trăm nhà tư tưởng khác nhau đưa ra tư tưởng của mình nhằm cắt nghĩa, tìm ra
nguyên nhân xã hội loạn và từ đó đưa ra các cách chữa trị xã hội loạn ấy. Trong số hàng
trăm nhà như vậy nổi bật lên có các nhà lớn sau đây: Nho giao - người đứng đầu là Khổng
Tử, Lão Gia - người đứng đầu là Lão Tử, Mặc Gia - người đứng đầu là Mặc Tử, Pháp gia -
người đứng đầu là Hàn Phi Tử.
2. Thân thế - sự nghiệp của Khổng Tử (551 - 479 TCN)
- Khổng Tử sinh ra ở ấp Trâu, quận Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc miền Sơn
Đông - phía Bắc Trung Quốc). Ông là người dòng dõi nước Tống nhưng do chiến tranh
mà lưu lạc song nước Lỗ, tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni.
Ngoài 50 tuổi ông mới được vua Lỗ Định Công phong chức Trung Đô Tể, 4 năm
sau được phong chức Tư Không, rồi Đại Tư Khấu trông coi pháp luật. Suốt thời gian làm
quan ông chăm lo chính sự cho nước Lỗ ổn định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mãi vui chơi,
quên việc triều đình. Ông Can gián nhưng vua lỗ không nghe, bèn cùng học trò bỏ vua Lỗ
mà đi.
Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước chư hầu mong muốn áp dụng học thuyết
của mình vào việc trị nước, nhưng không được dùng, bản thân ông cũng không được
trọng dụng. Sau 14 năm du thuyết không thành, quay về nước Lỗ khi ông đã 68 tuổi. Ông
viết sách và mở trường tư dạy học, học trò theo học rất đông. Ông thọ 73 tuổi.
Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội. Vì
vậy nó là học thuyết chính trị. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận và hướng giải quyết
những va án đề chính trị - xã hội, tư tưởng của Khổng Tử lại là tư tưởng về con người, về
đạo đức. Hay nói khác học thuyết của Khổng Từ về cơ bản là học thuyết chính trị - đạo
đức.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử được thể hiện tập trung nhất trong quan niệm

của ông về nhân, lễ, Chính danh và mối quan hệ giữa chúng.
Trong phạm vi tiểu luận này tôi chỉ xin đề cập đến học thuyết "Chính danh" của
Nho giáo. Tuy nhiên "Chính danh" không phải là học thuyết độc lập mà nó nằm trong
chỉnh thể đức trị (nhân - lễ - Chính danh). Có nhân và lễ thì mới có Chính danh. Và khi
có "Chính danh" thì chi phối cái nhân, lễ. Con người không có nhân và lễ thì không có
Chính danh. Vì vậy, trong quá trình phân tích học thuyết "Chính danh" chúng ta không
thể không đề cập đến "nhân" và "lễ".
II. NỘI DUNG HỌC THUYẾT CHÍNH DANH CỦA NHO GIÁO
1. Nội dung của học thuyết "Chính danh'
- Thời đại của Khổng Tử sống là thời đại "vương đạo" suy vi, "bá đạo" nổi lên
lấn át "vương đạo", chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Đứng
trước tình hình đó các Nho gia có hoài bão về một chế độ phong kiến có kỷ cương, thái
bịnh và thịnh trị. Khi xét tư tưởng của Khổng Tử ta thấy có một quy tắc chính, một phát
kiến của ông đó là học thuyết "Chính danh".
"Chính danh" là tư tưởng cơ bản của chính trị Nho giáo nhằm đưa xã hội loạn trở
lại trị. Khổng Tử phản đối nhà cầm quyền dùng pháp chế, hình phạt trị dân mà chủ
trương nhân trị.
Sự vật tồn tại khách quan, để biểu hiện nó phải dùng ngôn ngữ, cái ngôn ngữ để
biểu hiện đó là "danh". Danh đối lập với thực. Danh có nội hàm, sự vật luôn thay đổi nên
nội hàm của danh cũng luôn thay đổi. Nhưng ngôn ngữ lại có tính ổn định nên danh
thường lạc hậu hơn so với thực, không thay đổi kịp so với hiện thực, nhất là xã hội có
biến loạn. Nguyên nhân khiến cho xã hội loạn lạc là do "danh" không hợp với "thực", xã
hội đã xa rời đạo lý nhân nghĩa, kỷ cương phép nước bị đảo lộn. Muốn ổn định trật tự xã
hội, Khổng Tử chủ trương giáo dục chính trị đạo đức là "Chính danh, định phận".
Thực chất là mỗi người cần phải có phẩm chất tương xứng với vị thế xã hội của
anh ta và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy. Khổng Tử nói rằng: "Bất tại kỳ
vị, bất mưu kỳ chính" (không ở vị thế khác thì không mưu việc của người ở vị thế ấy). ở
đây cần nhìn vấn đề "Chính danh" từ sự quy định lẫn nhau giữa phẩm chất và năng lực
với vị thế xã hội, nghĩa là mọi vật cần hợp với cái danh nó mang. Mỗi cái danh đều bao
hàm bổn phận, trách nhiệm, những cá nhân mang danh ấy phải có trách nhiệm và bổn

phận phù hợp với danh ấy. Khổng Tử nói: danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp
nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi. Mọi việc sẽ không
thành, lễ, nhạc, hình pháp sẽ không định được mà xã hội sẽ loạn.
Ông Vua là người được trời giao phó cho nhiệm vụ lo cho dân đủ ăn, đủ mặc,
làm gương cho dân, dạy dỗ dân, để dân được sống yên ổn, làm tròn nhiệm vụ đó là danh
xứng với thực, nếu không thì không xứng đáng gọi là không thể gọi là vua được. Cho nên
Khổng Tử khẳng định, muốn khôi phục lại lễ chữ Tây Chu, theo ông điều trước tiên là
phải khôi phục lại danh phận, địa vị của các đẳng cấp mà lễ chế đã quy định. Chính vì
vậy, khi vua nước Vệ có ý mời Khổng Tử ra chống chính Tử Lộ hỏi Khổng Tử "Thầy
định làm cái gì trước?" Khổng Tử đáp là "Chính danh trước đã". Tử Lộ cho rằng người
viển vông và không thực tế, Khổng Tử mắng Tử Lộ và nói: "Người quân tử đối với
những điều mình không biết thì hãy để trống đấy. Danh không chính thì lời nói không
thuận, lời nói không thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ nhạc không gây
lại được, không gây lại được lễ nhạc thì hình phạt sẽ sai cả, hình phạt không đúng thì dân
sẽ bị bó tay. Cho nên người quân tử có danh rồi tất phải nói, nói rồi tất phải làm".
Theo học thuyết "Chính danh" Khổng Tử đã chia xã hội thành các mối quan hệ
cơ bản, trong đó mỗi mối quan hệ gọi là một luân. Theo Khổng Tử trong xã hội có 5 luân,
đó là: Vua - Tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó 3 luân đều được chú
trọng hơn cả và gọi đó là tam cương, các luân đã nói rõ danh phận của từng người. Nếu
mỗi người thực hiện đúng danh phận đó sao cho "vua phải giữ đạo vua, bề tôi phải giữ
đạo bề tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con, chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải
giữ đạo vợ" (quân kính, thần trung, phu từ, tử hiếu, phu xướng, phụ tùng" thì có Chính
danh. Mỗi người giữ đúng danh phận của mình thì mới có thể gây lại được nền chính trị
của thời thiên hạ có đạo".
Vì vậy, Khổng Tử khẳng định muốn làm cho xã hội ổn định thì phải "Chính
danh", "Chính danh" từ trên xuống: quân - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử. Chứ thứ 2
là chữ chỉ "danh", với tiêu chuẩn lý tưởng, là những con người cấp tính để người ta phải
tu vào đó. Chứ thứ nhất là chữ chỉ những con người cụ thể bằng xương, bằng thịt, có tên
tuổi. Cho nên phải kết hợp giữa con người lý tưởng và con người cụ thể. Vì thế "quân"
phải tu cho được là ông vua lý tưởng, vua phải ra vua, là ông vua minh, hiền, triết, yêu

dân, yêu nước. "Quân" lý tưởng ấy là địa vị chính đáng của vạn vật trong tự nhiên "như
sao bắc đẩu đứng ở vị trí của nó mà các sao khác đều hướng theo ". Còn chữ "danh"
trong xã hội là danh vị, hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là cương vị và quyền hạn, còn chữ
"phận" có nghĩa là "phần", là "bổn phận" tức là gồm cả quyền lợi, nghĩa vụ, mọi mặt.
Trong quan hệ vua - tôi, Khổng Tử chủ trương dùng đức trị, tức là người thống
trị tự lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ không chống lại. Khác
với hình chính, đức trị không quan tâm đến sản xuất, đến chính sách, không dùng biện
pháp thưởng - phạt, mà chỉ cho rằng người thống trị chỉ cần có đạo đức là đủ, thậm chí
không cần cả đẳng cấp xuất thân của họ. Ông thường nói làm chính trị mà có đức nhân là
đã đứng vào vị trí của sao bắc đẩu, vị trí mà tất cả các ngôi sao khác phải hướng theo.
Theo ông đối với dân lòng tin là quan trọng nhất, sau đó mới đến lương thực và
những thứ khác. Vì vậy, nhà cầm quyền phải giúp cho dân giàu có, sau khi đã giàu có rồi
thì nhà cầm quyền phải giáo hóa dân. Và để làm được điều đó thì nhà cầm quyền phải
làm ba việc: - Đó là phân công cho người dưới quyền mình, họ làm xong phải xem xét
lại. Thứ hai là phải dung thứ cho những người phạm phải lỗi nhỏ. Thứ ba là phải đề cử và
dùng người hiền đức, tài cán ở đây quan niệm hiền tài của ông cũng khác: Hiền là có
năng (kỹ năng, kỹ nghệ), có nghệ (lắm tài ba)song ông quý đức hơn năng nghệ. Ông nói
người quân tử coi đạo là mục tiêu, nhân đức là chỗ dựa, còn nghệ chỉ là để chơi (chí ư
đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ). Như vậy, ở đây ta thấy Khổng Tử chỉ rõ nhà cầm
quyền để Chính danh thì phải có nhân và lễ, nhà cầm quyền phải có lòng thương người,
yêu người. Ông vua, kẻ sĩ lớn nhất cũng trước hết là từ chữ nhân mà trở thành ngôi sao
bắc đẩu để cai trị các sao khác hướng theo. Chữ nhân ở đây không bị giới hạn ở một cá
nhân nhất định mà từ trong mỗi cá nhân để đi ra nhân hóa xã hội. Người cầm quyền phải
biết phát hiện và sử dụng những người tài đức, giúp họ trở thành nhân, làm cho cái đẹp,
cái thiện trong mỗi người nảy nở, chớ không khơi dậy cái ác trong họ. Tựu trung lại theo
Khổng Tử, nhân là nền móng, là gốc từ đó nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác. Vì
vậy, người nhân không thể không giữ lễ. ở trong mối quan hệ vua - tôi thì vua lấy "lễ" để
sai khiến bề tôi. Còn tôi đối với vua thì phải trung có nghĩa là phải trung thành, hết lòng,
thành tâm.
Trong mối quan hệ cha - con, thì cha từ, con hiếu. Hiếu ở đây chủ yếu được xét

trên góc độ tâm, hiếu không chỉ phụng dượng người sinh ra mình mà phải có lòng thành
kính, còn nếu không chẳng khác gì nuôi chó ngựa. Hiếu không nhất nhất là theo cha mẹ,
mà phận làm con thấy cha mẹ sai lầm phải can gián một cách nhẹ nhàng. Ông nói: "chỉ
xét cái đáng theo mà theo mới gọi là trung, hiếu. Như vậy, ông không chủ trương ngu
trung, ngu hiếu, quân có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu. Đó là quan hệ
hai chiều mà ít người để ý.
- Trong quan hệ vợ chồng thì chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ, vợ
phải nghe theo chồng được như thế xã hội sẽ có trật tự xã hội sẽ có trật tự kỷ cương, thái
bình thịnh trị.
Như vậy, khi nghiên cứu học thuyết "Chính danh" Khổng Tử đưa ra ta cần tập
trung vào các nội dung:
- Tương xứng với địa vị cai trị, phải có phẩm chất tương ứng như nhân, nghĩa,
liêm, chính đồng thời chỉ được sử dụng "lễ" tương ứng với địa vị đang được thừa nhận,
bề tôi, chư hầu, đại phu chỉ dùng "lễ" của bề tôi, chư hầu, đại phu, không được dùng "lễ"
của thiên tử. Trên dưới trật tự phân minh "vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, bề tôi lấy trung
để thờ vua".
- Là chức trách xã hội của người cai trị và của mọi thành viên xã hội "làm vua
phải cư xử cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con".
Đánh giá vai trò của Chính danh đối với cai trị, Khổng Tử khái quát: Nếu không
Chính danh tất loạn, có nghĩa là các chức trách của xã hội không chính được thì xã hội sẽ
loạn. Nếu Chính danh thì không cần ép buộc dân cũng theo, tất trị, nghĩa là nếu các chức
trách xã hội Chính danh được thì dân sẽ hưởng theo thì xã hội sẽ trị.
Nhưng làm thế nào để thực hiện Chính danh? ông cho rằng mọi người phải tự
giác giữ lấy danh phận của mình. Từ thiên tử, chư hầu, đại phu đến "kẻ sĩ" phải tu dưỡng
đạo nhân để có sự tự giác đó.
Vậy muốn Chính danh thì thân mình phải chính, ngôn ngữ cũng phải chính nữa,
lời nói và việc làm phải hợp với nhau, không được nói nhiều mà làm ít, không được lời
nói thì kính cẩn mà trong lòng thì không, hơn nữa "phải siêng năng về việc làm, thận
trọng về lời nói" và nên "chậm chạp về lời nói, mau mắn về việc làm".
Khổng Tử cho rằng đối với người cai trị thì "thân mình mà chính được thì không

phải hạ lệnh mọi việc vẫn tiến hành, thân mình mà không chính được thì dù có hạ lệnh
cũng chẳng ai theo". "Nếu thân mình mà chính được rồi thì đối với mọi việc chính sự có
còn gì khó. Không thể chính được thân mình thì chính người khác thế nào?
Khổng Tử khẳng định "để mang cái danh là vua, thì phải làm tròn trách nhiệm
của ông vua, nếu không sẽ mất cái danh và mất luôn cả ngôi.
Tóm lại, quy tắc Chính danh đưa tới quy kết: ai ở địa vị nào cũng phải làm tròn
trách nhiệm, và ai giữ phận nấy, không được việt vị, nghĩa là không được hưởng những
quyền lợi cao hơn địa vị của mình. Khi Khổng Tử với tư cách một đại phu trí sĩ có trách
nhiệm khuyến cáo vua Lỗ trừng trị một nghịch thần của một nước bạn, và ông đã theo
"Chính danh" nghiêm cẩn làm tròn trách nhiệm đó. Còn Hoàn Tử đã tự ban cho mình cái
quyền dùng vũ "bát dật" mà chỉ thiên tử mới được dùng là trái với quy tắc Chính danh.
"Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính" là quan điểm quan trọng đối với Khổng Tử, ai giữ phận
nấy, cứ theo đúng tổ chức xã hội rất chặt chẽ, rất có tôn ti của chu công thì nước sẽ trị,
thiên hạ mới gọi là hữu đạo. Hay nói cách khác, mọi người phải trọng pháp điển, có tôn ti
không ai được việt vị (lễ). Người trên phải đính chính, làm tròn nhiệm vụ, yêu dân
(nhân), có tín đức thì mới Chính danh, đáng được dân trọng.
Như vậy, muốn cho xã hội khỏi loạn Khổng Tử đã đề ra học thuyết "Chính
danh", mà muốn Chính danh thì phải tôn trọng "lễ", và một người muốn Chính danh thì
phải có nhân.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT NHO GIÁO TỚI VIỆT NAM
- Đối với Việt Nam từ chính trị Nho giáo có ảnh hưởng rất quan trọng. Thực tế
xây dựng các triều đại phong kiến đã cho thấy điều đó, Nho giáo đã góp phần quan trọng
vào việc tổ chức đời sống - xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến một cách có nề
nếp, có quy chế, có kỷ cương. Nó đã có những đóng góp tích cực trong việc khuyên bảo,
dạy dỗ con người thương yêu đồng loại, quan hệ tốt với nhau. Sống yên vui, hòa thuận
với nhau. Nho giáo đặt giáo dục đạo đức để thuyết phục và cảm hóa lên trên chính trị và
hình phạt. Nho giáo tỏ rõ tinh thần tích cực đi vào đời sống xã hội, đứng ra đảm nhận
việc dân, việc nước nhằm thực hiện lý tưởng của mình ở khắp mọi nơi. Vì thế cho nên
Nho giáo thể hiện khá rõ chủ nghĩa nhân đạo và nó góp phần tích cực vào việc thúc đẩy
xã hội học tập. Và những ý nghĩa đó đến nay vẫn còn giá trị mà chúng ta vận dụng, phát

triển thành công sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định và phát triển đất nước trên tất cả
các mặt.
Qua 20 năm đổi mới đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời cũng còn không ít thiếu sót và vấn đề mới đặt
ra đòi hỏi được giải quyết. Trong 20 năm đó, trong nước và trên thế giới có nhiều biến
đổi phức tạp tạo ra cả thời cơ và thách thức mà chúng ta phải vượt qua, rút kinh nghiệm
để tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.
Đảng ta luôn khẳng định, CNXH là mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân dân ta,
đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tuy
nhiên, đây là một sự nghiệp lâu dài vô cùng khó khăn gian khổ, từ một nước nông nghiệp
nghèo nàn và lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề như nước ta đi lên CNXH lại càng
khó khăn, phải trải qua nhiều thời kỳ, nhiều chặng đường vừa làm, vừa rút kinh nghiệm
và phải biết kế thừa những thành tựu của dân tộc và tiếp thu những tinh hoa của nhân
loại, kinh nghiệm của thời đại để vận dụng đúng đắn phù hợp với thực tế và quy luật
khách quan. Để làm được điều đó toàn Đảng, toàn dân chúng ta phải quyết tâm thực hiện
mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đặt ra. Mỗi người phải thấy
được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với đất nước, phải góp sức mình vào xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là
mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân ta hướng tới. Cụ thể trong giai đoạn hiện nay Đảng ta
khẳng định phải đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền
quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ khác. Nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ
nào cũng phải trong khuôn khổ pháp luật. Vì vậy, chúng ta phải đề ra một hệ thống pháp
luật đồng bộ và đưa vào thực thi. Vấn đề đặt ra là khi chúng ta đã đề ra luật, ra chính sách
thì chúng ta phải thực hiện bằng được, nếu đưa ra mà không thực hiện được thì sẽ nhờn
luật và không thể trừng trị những người có hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và
của nhân dân. Để quyết tâm thực hiện được chủ trương, chính sách, pháp luật thì đòi hỏi
mỗi người dân phải có ý thức, trách nhiệm hay nói cách khác là phải "Chính danh, định
phận", nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều. Bên cạnh đó thì chúng ta phải kết hợp
các biện pháp giáo dục đạo đức, truyền thống để nâng cao ý thức pháp luật cho người

dân. Để làm được điều đó, nếu chúng ta vận dụng, phát triển học thuyết Chính danh của
Nho giáo ở những nhân tố hợp lý thì sẽ thu được hiệu quả rất cao. Chúng ta đang xây
dựng một trật tự kỷ cương trong xã hội: Đảng ra Đảng, Nhà nước ra Nhà nước, thủ
trưởng ra thủ trưởng, nhân viên ra nhân viên, không có sự lẫn lộn. Mỗi người, mỗi tổ
chức phải giữ đúng danh phận, chức trách của mình. Trước hết chúng ta phải xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, có trí tuệ xứng đáng với vai trò lãnh đạo toàn xã hội. Muốn
xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên
phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói
đi đôi với làm, chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực
trong xã hội. Nói cách khác, người cán bộ, đảng viên phải thực hiện: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô tư (như Hồ Chí Minh đã vận dụng đề ra) để làm gương cho nhân dân
noi theo.
Đó là điều rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên là rất nghiêm trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với lòng tin của nhân dân, với
Đảng, với chế độ mà nguyên nhân chính là việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương,
chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm và tinh thần trách nhiệm
chấp hành của cán bộ và nhân dân chưa cao. Vì vậy, mỗi cán bộ, mỗi người đảng viên
phải xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, hay nói cách khác là phải "Chính danh,
định phận" để góp phần đề ra chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tế và quyết
tâm thực hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
- Trong giai đoạn hiện nay, nếu chúng ta vận dụng học thuyết "Chính danh" để
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có vị trí xứng đáng với tài năng của mình,
thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động và năng suất lao động xã
hội sẽ ngày càng cao hơn. Thực tế hiện nay ở các cấp, các ngành vẫn còn tồn tại một đội
ngũ cán bộ kiêm chức khá đông, mà theo như Khổng Tử nói "danh không chính thì ngôn
không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành ". Cho nên hiệu quả công việc
không cao, tình trạng ỷ lại cho nhau vẫn còn mà cụ thể nhất là vấn đề chịu trách nhiệm
trước công việc chung. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ chúng ta phải coi trọng tài năng

của họ để xây dựng đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp, nghĩa là biết người, biết dùng
người tạo điều kiện cho họ phát huy hết tài năng và phẩm chất của mình, phải chính quy
đội ngũ cán bộ, tránh tình trạng kiêm nhiệm, kiêm chức để xảy ra tình trạng "nhiều sãi
không ai đóng cửa chùa".
Tóm lại, học thuyết "Chính danh" của Nho giáo đương thời Khổng Tử là ảo
tưởng, nhưng những giá trị hợp lý của nó mà chúng ta biết vận dụng, biết chắt lọc và thực
hiện nó thì sẽ đưa xã hội vào trật tự kỷ cương, làm cho người dân trung thành với chế độ
với sự nghiệp hơn. Người công nhân trung thành với xí nghiệp, vui với cái vui của xí
nghiệp, buồn với cái buồn của xí nghiệp, vạn bất đắc dĩ mới chuyển xí nghiệp. Vận dụng
học thuyết "Chính danh" ông chủ coi công nhân như con cái của mình, quan tâm, lo lắng
đến cuộc sống của người công nhân, đến gia đình người công nhân. Từ đó, người công
nhân cũng làm việc xứng với cái danh của mình, trung thành, hết lòng, thành tâm với ông
chủ, với xí nghiệp, dồn hết sức lực của mình để tạo ra giá trị thặng dư cao. Đó là bí quyết
hóa rồng của Nhật Bản và các nước châu á. Điều đó rất có ý nghĩa trong giai đoạn mới
của cách mạng Việt Nam hiện nay.

×