Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Học thuyết Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.03 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................ 2
B. NỘI DUNG..................................................................................................... 2
1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ - TRUNG ĐẠI...................................2
1.1. Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại..................................................................2
a. Địa lý...............................................................................................................................................2
b. Nhân chủng học..............................................................................................................................2
c. Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học.........................................................................2
1.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại.....................................................3
1.3. Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo........................................................3
b. Thuyết Ngũ hành............................................................................................................................4
c. Thuyết Bát quái...............................................................................................................................6
2. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN TRONG TRIẾT HỌC NHO GIÁO..........................................6
2.1. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo ........................................................................................6
a. Tư Thư ...........................................................................................................................................6
b. Ngũ Kinh.........................................................................................................................................7
2.2. Nội dung cơ bản của Nho giáo....................................................................................................8
a. Tu thân............................................................................................................................................8
b. Hành đạo.........................................................................................................................................9
2.3. Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu biểu..................................9
a. Nho giáo nguyên thủy...................................................................................................................10
b. Hán Nho........................................................................................................................................10
c. Tống Nho......................................................................................................................................10
3. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA VIỆT NAM..................................................................................................................................10
3.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam...................................................................................10
3.2. Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của Việt Nam................11
a. Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam....................................11
b. Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam.......................................12
C. KẾT LUẬN.................................................................................................. 13
Trang 1


A. MỞ ĐẦU
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới với
hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa
học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh
những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết
triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo. Nho gia,
Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ, đợi).
Nho gia còn được gọi là nhà nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo
cho mọi người sống hợp với luân thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những
tư tưởng hoặc trí thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã
hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay “Khổng học” -
gắn với tên người sáng lập ra nó.
Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những câu nói
răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo đức nhất định theo tinh
thần “Nho giáo”, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí
tinh thần độc lập, từ cường của một dân tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa Việt Nam có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
B. NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ - TRUNG ĐẠI
1.1. Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại
a. Địa lý
Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp bờ Thái Bình Dương, phía
Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở như Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng
Xiberia quanh năm lạnh giá, phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung
Hoa chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của nước Trung Hoa thay đổi rất lớn ở
những vùng khác nhau. Phía Bắc là những cao nguyên, bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt,
phía Nam có núi sông bao bọc hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như
Hoàng Hà, Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên, khí hậu mà có nhiều

chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến nhiều nền văn minh, tư tưởng khác nhau.
b. Nhân chủng học
Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực chính như sau :
- Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục, săn bắn. Do đời sống du
mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân tộc kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền
văn hoá khác nhau.
- Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng, săn bắn, khai thác các
sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân tộc này sống tương đối khép kín, yêu chuộng
hoà bình, tự do.
- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : các dân tộc Tam Miêu sống chủ yếu bằng nghề
nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức toán học, khoa học tự nhiên.
c. Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học
Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN kéo dài tới tận cuối thế
kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền bạo lực mở đầu thời
kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm đó, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời
Trang 2
kỳ lớn : 1. Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ VIII tr.CN đến cuối thế kỷ III
tr.CN.
Trong thời kỳ thứ nhất : những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới
mức là một hệ thống.
Thời kỳ thứ hai : còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai đoạn chuyển biến từ chế độ
chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi) sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập
quyền. Nhà Chu bị phân rã làm 7 quốc gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ
Hoàng - vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước thống nhất giang sơn hình thành nhà nước phong kiến tập
quyền đầu tiên. Dưới thời thịnh vượng của nhà Chu, đất đai thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối
cao về đất đai ấy bị một tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh giành địa vị
xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên
miên. Trong tình hình đó, một loạt học thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều
có xu hướng giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Điều đó trở thành nét

đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính trong thời kỳ loạn lạc này đã xuất hiện những
nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển
theo suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết những vấn đề thực tiễn
chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết những vấn đề của triết học như vấn đề bản nguyên
thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến
dịch của vạn vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận thức.
1.2. Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại
a- Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành vi cá nhân, hướng tới sự
thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
b- Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu : hướng vào nội tâm - luôn cố gắng tìm
tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung quanh và ít quan tâm đến
khoa học tự nhiên.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa
của sự kém phát triển kinh tế, khoa học so với văn minh Phương Tây (hướng ngoại).
c- Đa dạng, phong phú : luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của vấn đề, coi trọng sự hài
hòa trong xã hội.
d- Phương pháp tư duy : nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm” là gốc rễ của nhận thức.
Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết mà rời rạc thông qua các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ
ngôn…
e- Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu thần đan xen lẫn nhau.
1.3. Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ hành” đã được lưu truyền từ
trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời Xuân Thu - Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm
Dương - Ngũ hành đó đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch
của thế giới
a. Thuyết Âm – Dương
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà là
thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết.
Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.

Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá không
ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng
nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm,
cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).
Trang 3
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau,
giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra "thuyết
âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi
sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật.
Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô hình, nóng
rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình, lạnh lẽo,
đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ, đều được
qui vào âm dương.
Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè, đông, nam,
phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban đêm, thu, đông, tây, bắc, phía
dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ; Âm là mé trong,
trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa nguồn gốc ở
nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống của dương, trong dương lại có
mầm mống của âm.
Tư tưởng triết học về Âm - Dương :
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của
vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau : Âm và Dương.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự thống nhất
của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái

đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm -
Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý : Dương tiến đến đâu thì
Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì Âm sinh”, “Âm thịnh thì Dương khỏi”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật,
phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng nghi
sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương – Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn -
Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm
Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời của vạn vật và nhân
sinh, xã hội như : Kiền, Khôn, Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự chú giải Kinh Dịch không phải của
một tác giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo
ra một “tập đại thành” của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu
sắc.
b. Thuyết Ngũ hành
Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã giới thiệu trong
thuyết âm dương, nhưng bổ xung và làm cho thuyết âm dương hoàn bị hơn.
Ngũ hành là : Kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người xưa cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp nhau mà tạo nên.
Theo tính chất thì thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống. Hoả là lửa thì bùng cháy,
bốc lên.
Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.
Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.
Trang 4
Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.
Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau gọi là tương sinh
và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa,
tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp
của sự vật.

Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng. Đem ngũ hành liên hệ
với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau.
Theo luật tương sinh thì thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh
thuỷ, thuỷ lại sinh mộc và cứ như vậy tiếp diễn mãi. Thúc đẩy sự phát triển không bao giờ ngừng.
Trong luật tương sinh của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ vệ hai phương
diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Ví dụ kim sinh thuỷ thì kim là mẹ của
thuỷ, thuỷ lại sinh ra mộc vậy mộc là con của Thuỷ.
Trong quan hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biều hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn
nhau.
Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong qui luật tương khắc thì
mộc khắc thổ, thổ lại khắc thuỷ, thuỷ lại khắc hoả, hoả lại khắc kim, kim khắc mộc, và mộc khắc thổ
và cứ như vậu lại tiếp diễn mái.
Trong tình trạng bình thường, sự tưong khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu
tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hoá trở lại khác thường.
Trong tương khắc, môĩ hành cũng lại có hai quan hệ:Giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Ví dụ
mộc thì nó khắc thổ, nhưng lại bị kim khắc nó.
Hiện tượng tương khắc không tồn tại đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó
vạn vật tồn tại và phát triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Trong chế hoá bao gồm cả
hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau.
Lẽ tạo hoá không thể không có sinh mà cũng không thể không có khắc. Không có sinh thì
không có đâu mà nảy nở; không có khắc thì phát triển quá độ sẽ có hại. Cần phải có sinh trong khắc,
có khắc trong sinh mới vận hành liên tục, tương phản, tương thành với nhau.
Quy luật chế hoá ngũ hành là:
Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
Hoả khắc kim, kim sinh thuỷ, thuỷ khắc hoả.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộckhắc thổ.
Kim khắc mộc, mộc sinh hoả, hoả khắc kim.
Thuỷ khắc hoả, hoả sinh thổ, thổ khắc thuỷ.
Luật chế hoá là một khâu trọng yếu trong thuyết ngũ hành. Nó biểu thị sự cân bằng tất nhiên

phải thấy trong vạn vật. Nếu có hiện tượng sinh khắc thái quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá
khác thường. Coi bảng dưới đây chúng ta thấy mỗi hành đều có mối liên hệ bốn mặt. Cái sinh ra nó,
cái nó sinh ra, cái khắc nó và cái bị nó khắc.
Ví dụ: Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim, kim lại khắc mộc. Vậy như nếu mộc khắc thổ một
cách quá đáng, thì con của thổ là km tất nhiên nổi dậy khắc mộc kiểu như con báo thù cho mẹ. Nghĩa
là bản thân cái bị có đầy đủ nhân tố chống lại cái khắc nó.Cho nên, mộc khắc thổ là để tạo nên tác
dụng chế ức, mà duy trì sự cân bằng. Khắc và sinh đều cần thiết cho sự giữ gìn thế cân bằng
trongthiên nhiên.
Cũng trong bảng quan hệ chế hoá, chúng ta thấy mộc sinh hoả; nếu chỉ nhìn hành mộc không
thôi, thì như mộc gánh trọng trách gây dựng cho con là hoả, nhưng nhờ có hoả mạnh, hạn chế bớt
được sức của kim là một hành khắc mộc. Như vậy mộc sinh con là hoả, nhưng nhờ có con là hoả
mạnh mà hạn chế bớt kim làm hại mộc do đó mộc giữ vững cương vị.
Trang 5

×