Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quá trình hoàn thiện và phát triển của chế độ kế toán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.43 KB, 27 trang )



lời mở đầu
Thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN trong điều kiện của cơ chế
thị trờng và xu thế hội nhập quốc tế, công tác kế toán có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành của công cụ quản lý kinh tế, tài
chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động
kinh tế.
Trong những năm vừa qua, để phục vụ yêu cầu của công việc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, Nhà nớc ta đã thực hiện nhiều biện pháp quan trọng để cải cách và
hoàn thiện hệ thống kế toán của Việt Nam. Hệ thống kế toán của Việt Nam đã có
những đổi mới, tiến bộ, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế.
Trên nền hệ thống kế toán phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, từ năm
1988 hệ thống kế toán Việt Nam đã đợc thiết lập, xây dựng mới, thoả mãn yêu cầu
kinh tế thị trờng của Việt Nam trên cơ sở vận dụng có chọn lọc các nguyên tắc,
chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế. Nhà nớc ta chủ trơng thiết lập nền kinh tế
thị trờng theo định hớng XHCN với bớc đi phù hợp có tính đến vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nớc.
Yêu cầu đặt ra là phải thúc đẩy kinh tế tăng trởng nhanh, ổn định, thực hiện
điều tiết hợp lý, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân gắn liền với chính
sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Quá trình cải cách, phát triển kế toán Việt
Nam cũng cần phải có bớc đi phù hợp với tiến trình cải cách và đổi mới kinh tế.
Yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, yêu cầu của nền kinh tế thị trờng đòi hỏi
phải cải cách triệt để toàn diện hệ thống kế toán của Việt Nam, trong đó sự hoàn
thiện và phát triển của chế độ kế toán Việt Nam giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Với mong muốn đợc nâng cao sự hiểu biết của mình về chế độ kế toán Việt
Nam, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này. nhng do thời gian
nghiên cứu và sự hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy em rất mong đợc Thầy góp ý để kiến thức của em ngày càng hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã cung cấp cho em những kiến


thức về chuyên nghành kế toán, đặc biệt là Thầy giáo Nguyễn Hữu Đồng là ngời
đã hớng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bản đề án này.
I> Vai trò của kế toán trong hệ thống quản lý
của doanh nghiệp :

1) Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán :
Sự cần thiết phải giám đốc và quản lý quá trình hoạt động kinh tế không phải
chỉ là nhu cầu mới đợc phát sinh gần đây, mà thực ra đã phát sinh rất sớm trong
lịch sử nhân loại và tồn tại trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Xã hội
loài ngời càng phát triển, thì mức độ quan tâm của con ngời đến hoạt động sản
xuất càng tăng, nghĩa là càng cần thiết phải tăng cờng quản lý sản xuất. Để quản
lý đợc các hoạt động kinh tế cần có số liệu,để có đợc các số liệu phục vụ cho hoạt
động quản lý, giám sát đòi hỏi phải thực hiện việc quan sát, đo lờng, tính toán và
ghi chép các hoạt động đó.
Hạch toán kế toán là một hệ thống điều tra, quan sát tính toán, đo lờng và ghi
chép các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn.
Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, hạch toán cũng không ngừng đơc
phát triển và hoàn thiện về phơng pháp cũng nh hình thức tổ chức. Điều này có thể
dễ dàng nhận thức đợc thông qua việc nghiên cứu quá trình nảy sinh và phát triển
của hạch toán kế toán.
Trong thời kỳ nguyên thủy, sản xuất cha phát triển, nhu cầu và khả năng thu
nhận thông tin cha nhiều,hạch toán đợc tiến hành bằng các phơng thức hết sức đơn
giản : Đánh dấu lên thân cây để ghi nhớ các thông tin cần thiết. Cũng do sản
xuất còn lạc hậu nên ở giai đoạn này cha có của cải d thừa, cha hình thành các giai
cấp khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ này hạch toán đuợc sử dụng phục vụ lợ ích
của toàn xã hội.
Khi xã hội chuyển sang xã hội nô lệ thì ý nghĩa, nhiệm vụ của hạch toán cũng
thay đổi. Hạch toán trớc hết đợc sử dụng trong các trang trại để theo dõi kết quả sử
dụng nô lệ và chiếm dụng lao động của nô lệ, để vơ vét đợc nhiều sản phẩm thặng
d. Ngoài ra hạch toán còn đợc sử dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ và

trong lĩnh vực tài chính nhà nớc để theo dõi các nghiệp vụ về giao dịch, thanh
toán và buôn bán. Sổ kế toán đã xuất hiện thay cho cách ghi và đánh dấu của thời
nguyên thủy.
Đến thời kỳ phong kiến,sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với quy mô lớn
gắn liền với sự ra đời của địa chủ và nông dân, với sự ra đời của địa tô phong kiến
Những quan hệ kinh tế mới này đã nảy sinh và tác động đến sự phát triển tiếp
theo của hạch toán kế toán với hệ thống sổ sách phong phú và chi tiết hơn.
Đáng chú ý là thời kỳ t bản chủ nghiã với sự phát triển nhanh chóng của thơng
nghiệp và sau đó cả nông nghiệp. Lúc này các quan hệ trao đổi, buôn bán đợc mở
rộng đặt ra nhu cầu phải hạch toán các mối quan hệ nảy sinh trong quá trình vận
động của các t bản cá biệt. Sự xuất hiện của các đối tợng mới này của kế toán lại
là nguồn gốc cho sự ra đời của phơng pháp đối ứng tài khoản trong kế toán. Cũng
2
từ đó phơng pháp hạch toán kế toán đã đợc hình thành và ứng dụng rộng rãi gồm
một hệ thống hoàn chỉnh : chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp cân đối
kế toán. Tuy nhiên chế độ t hữu về t liệu sản xuất cùng với các quy luật kinh tế t-
ơng ứng lại hạn chế sự phát triển và tính khoa học của hạch toán kế toán. Trong
điều kiện của chủ nghĩa xã hội, với sự xuất hiện của chế độ công hữu về t liệu sản
xuất và với trình độ xã hội hoá cao của nền sản xuất, hạch toán kế toán mới trở
thành môn khoa học chân chính và phát huy đầy đủ vị trí của mình.Về vị trí của
hạch toán dới CNXH V.I.Lênin đã khẳng định : '' CNXH trớc hết là hạch toán ''.
Thật vậy, một nền sản xuất với quy mô ngày càng lớn, với trình độ xã hội hoá và
sức phát triển sản xuất ngày càng cao, với yêu cầu quy luật kinh tế mới phát sinh
không thể không tăng cuờng hạch toán kế toán về mọi mặt. Đồng thời chế độ
XHCN cũng tạo ra những tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng và toàn diện của
hạch toán kế toán.

2)Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý :
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều tìm mọi biện
pháp để sản xuất ra sản phẩm với số lợng nhiều nhất, chất lợng cao nhất, chi phí

thấp nhất và lãi thu đợc nhiều nhất. Để đạt đợc mục tiêu này bất kỳ một ngời quản
lý kinh doanh nào cũng phải nhận thức đợc vai trò của thông tin kế toán. Hệ thống
các thông tin sử dụng để ra các quyết định quản lý đợc thu từ nhiều nguồn khác
nhau, nhng thông tin kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu đ-
ợc.
Thông tin hạch toán kế toán có những đặc điểm nổi bật sau :
Thông tin hạch toán kế toán là những thông tin động về tuần hoàn của những
tài sản. Trong doanh nghiệp, toàn bộ bức tranh về hoạt động sản xuất kinh
doanh từ khâu đầu tiên là cung cấp vật t cho sản xuất, qua khâu sản xuất đến
khâu cuối cùng là tiêu thụ đều đợc phản ánh thật đầy đủ và sinh động qua
thông tin kế toán.
Thông tin hạch toán kế toán luôn là những thông tin về hai mặt cuả mỗi hiện t-
ợng mỗi quá trình : vốn và nguồn vốn, chi phí và kết quả Những thông tin
nh thế có ý nghĩa rất lớn đối với việc ứng dụng hạch toán kinh doanh; với nội
dung cơ bản là độc lập về tài chính, lấy thu bù chi.
Mỗi thông tin thu đợc là kết quả của quá trình có tính hai mặt : thông tin và
kiểm tra. Vì vậy khi nói đến hạch toán kế toán cũng nh thông tin thu đợc từ
phân hệ này đều không thể tách rời hai đặc trng cơ bản nhất là thông tin và
kiểm tra.
Bản chất của thông tin kế toán là nh vậy và bằng các thông tin đặc biệt của
mình kế toán phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của xã hội.
Trớc hết kế toán phục vụ cho các nhà quản lý kinh tế. Bởi vì căn cứ vào thông
tin kế toán các nhà quản lý định ra các kế hoạch, dự án và kiểm tra việc thực
3
hiện các kế hoạch, các dự án đặt ra; Qua việc phân tích các thông tin kế toán
ban giám đốc sẽ quyết định nên sản xuất mặt hàng nào, với nguyên liệu gì và
mua từ đâu, nên đầu t mới hay duy trì thiết bị cũ
Nhờ có thông tin kế toán ngời ta có thể xác định đợc hiệu quả của một thời kỳ
kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp, do đó các nhà đầu t mới có
đợc các quyết định nên đầu t hay không và cũng biết đợc doanh nghiệp đã sử

dụng số vốn đầu t đó nh thế nào.
Cung cấp thông tin cho các đối tợng cho vay: Ngân hàng, công ty tài chính biết
đợc tình hình thanh toán của doanh nghiệp nh thế nào để đa ra quyết định cho
vay.
Kế toán cũng giúp cho Nhà nớc trong việc hoạch định chính sách, soạn thảo
luật lệ; qua kiểm tra tổng hợp các số liệu kế toán Nhà nớc nắm đợc tình hình
chi phí, lợi nhuận của các đơn vị từ đó đề ra các chính sách về đầu t, thuế vụ
thích hợp.
Cung cấp thông tin cho các cán bộ công nhân viên của đơn vị biết đợc tình
hình phân phối thu nhập và tơng lai của doanh nghiệp nh thế nào
3) Chuyên nghành kế toán, chìa khoá của sự ổn định và duy trì kinh tế ở các
n ớc đang phát triển :
Nghề kế toán là yếu tố quan trọng trong hệ thống kiểm soát cần thiết cho hoạt
động có hiệu quả của chính phủ, các tổ chức của chính phủ, các nghành công
nghiệp và thơng mại. Đặc biệt nghành kế toán đợc cải thiện là yếu tố thiết yếu
nhằm khuyến khích các khoản vay và trợ giúp phát triển và nhằm thu hút thêm đầu
t nớc ngoài trong khu vực t nhân. Điều rõ ràng có thể nhận thấy rằng hiện tại đang
khan hiếm các kế toán viên và thiếu cách thức hạch toán hoàn chỉnh, cả trong khu
vực t hữu và khu vực quốc hữu. Nhận thức này cần phải đợc xem nh một vấn đề
cấp bách. Các chính phủ cần phải thừa nhận sự cần thiết này để có một hạ tầng tài
chính vững chắc và phải công nhận tầm quan trọng về vai trò của các kế toán viên
trong hạ tầng tài chính này về mặt t vấn, báo cáo, đảm bảo độ tin cậy của các
thông tin tài chính, thiết lập cơ chế và hệ thống kiểm soát.
Có một nhận thức chung rằng một cơ cấu kế toán vững mạnh là chìa khoá để
thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhng đồng thời cũng có một nhận định rõ ràng rằng
những nguồn lực để tạo ra sự vững mạnh này là hoàn toàn cha đủ.Để có đợc nhận
thức này sẽ phải tốn thời gian và tiền của.Đáng tiếc là cơ cấu kế toán vững mạnh
không đợc xem xét theo tính cấp bách và nguồn lực để tạo ra sự vững mạnh này
thì luôn khan hiếm do phải so sánh các mức đọ u tiên. Hơn nữa ở một số nớc, các
chính sách Chính phủ ở những khu vực không có ảnh hởng đến những giải pháp

trong tơng lai, nh là những hạn chế về việc cấp giấy phép hoạt động cho ngời nớc
ngoài theo bối cảnh mức thất nghiệp trong nớc cao. Không kể thực tế rằng nhân
viên có tay nghề trong nớc là hầu nh không có. Thêm vào đó, nhận thức này có
4
liên quan đến khu vực quốc hữu: các mức độ thanh toán trả chậm thờng xuyên xảy
ra thậm chí dẫn đến việc những nhân viên có ít kinh nghiệm cũng phải chuyển
sang khu vực của t nhân.
Do đó vấn đề trợ giúp ngắn hạn và trung hạn trong việc triển khai hay thúc đẩy
nhận thức về hạ tầng cơ sở địa phơng là nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên để có đợc giá
trị lâu dài thì sự trợ giúp này cũng phải đảm bảo đợc tính ổn định. Hình thức trợ
giúp hiệu quả nhất có thể thông qua việc chuyển giao kiến thức chuyên môn từ
nuớc ngoài.Rất có thể cũng cần phải tiếp tục có sự hỗ trợ t vấn và kiểm soát trong
một vài năm tiếp sau.
Các Chính phủ sẽ cần phải ủng hộ phơng pháp này, họ có thể yêu cầu sự giúp
đỡ từ các tổ chức trợ giúp và phát triển nhằm để có kinh phí cho các chơng trình
trợ giúp này.
4) Tầm cao kế toán Việt Nam trong thiên niên kỷ mới:
Mục tiêu của tài chính Việt Nam là tạo lập một nền tài chính có tiềm lực
mạnh,một hệ thống tài chính hoàn thiện và năng động - Thiết lập và duy trì một hệ
thống chính sách tài chính đồng bộ, chủ động, tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển bền vững, động viên hợp lý, điều phối và phân phối lại thu nhập quốc
dân một cách công bằng, đảm bảo mọi nguồn lực tài chính đợc kiểm kê, kiểm
soát, đợc quản lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả cho yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội. Chủ động hội nhập và củng cố vị thế Việt Nam trên trờng quốc tế.
Kế toán và kiểm toán với t cách là công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vị trí
vô cùng quan trọng trong Hệ thống tài chính Quốc gia. Để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình, góp phần cùng Hệ thống tài chính hoàn thành thắng lợi mục
tiêu chiến lợc tài chính trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Kế toán và kiểm
toán Việt Nam cần vơn lên trong tầm cao mới. Tập trung sức lực và trí tuệ hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán.Sớm trình, ban hành Luật kế toán

làm căn cứ điều chỉnh và chế tài các hành vi, công việc kế toán, giữ vững kỷ cơng,
pháp luật trong chấp hành quy chế tài chính, trình bày và cung cấp thông tin. Sớm
hoàn chỉnh và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Quốc
gia của Việt Nam trên cơ sở vận dụng có chọn lọc thông lệ và chuẩn mực quốc tế
về kế toán, kiểm toán, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế, với năng lực quản
lý kinh tế tài chính của Việt Nam. Đảm bảo thông tin do kế toán xử lý và cung cấp
có độ tin cậy cao, phản ánh trung thực, khách quan và công khai, minh bạch tình
hình tài chính Nhà nớc, tài chính doanh nghiệp. Phát triển mạnh mẽ các hình thức
hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán, sẵn sàng mở cửa hội nhập với các nớc trên
thế giới và trong khu vực. Và cuối cùng, cần khẩn trơng xây dựng đội ngũ chuyên
gia kế toán, kiểm toán giỏi về nghiệp vụ, vững vàng trong xử thế và có đạo đức
nghề nghiệp. Phẩm chất đạo đức nghề kế toán, kiểm toán thể hiện qua tính độc
lập, khách quan, trung thực trong xử lý công việc, trong tạo dựng và đối xử với con
5
số, và là điều kiện mang tính quyết định của lòng tin và chất lợng nghề nghiệp.
Các tổ chức nghề nghiệp (Hội kế toán Việt Nam, Câu lạc bộ kế toán trởng, Hội
đồng Quốc gia về kế toán) cần vơn lên làm tốt chức năng tổ chức huấn luyện
nghiệp vụ, quản lý và kiểm soát đạo đức hành nghề của kế toán viên, kiểm toán
viên. Tin tởng và hy vọng các chuyên gia kế toán, kiểm toán Việt Nam, các tổ
chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán xứng đáng với nghề nghiệp đáng đợc đề cao
và tôn trọng trong kinh tế thị trờng có sự quản lý Nhà nớc theo định hớng XHCN.
Kế toán và kiểm toán Việt Nam hãy vơn lên và vững vàng trong tầm cao mới của
thế kỷ XXI.
II> Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế
toán Việt Nam:

1) Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi chế độ kế toán Việt
Nam:
Năm 2000, năm chuyển giao của hai thế kỷ đã đi qua, đánh dấu bớc phát triển
đáng khích lệ của nền kinh tế và những bớc đổi mới quan trọng trong việc điều

hành chính sách kinh tế, tài chính. Sau 15 năm đổi mới, tiềm lực kinh tế và tài
chính của đất nớc đã đợc tăng cờng, chính trị, xã hội ổn định. Nhờ đổi mới, đất n-
ớc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và văn hoá
của nhân dân, giữ vững định hớng XHCN : Nền tài chính quốc gia, hệ thống tài
chính của nền kinh tế thị trờng đã đợc tạo lập và phát triển. Tài chính đã từng bớc
làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý, kiểm soát và giám sát vĩ
mô nền kinh tế quốc dân.
Hạch toán kế toán với t cách là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ công cụ
quản lý kinh tế tài chính, đã góp phần tích cực vào sự thành công của công cuộc
đổi mới kinh tế. Với chức năng tổ chức, trình bày và cung cấp thông tin kinh tế, tài
chính tin cậy cho các quyết định kinh tế, kế toán cũng cần và thực sự đã và đang
đổi mới và cải cách. Qua 15 năm, hệ thống kế toán đã có sự phát triển đáng khích
lệ. Kế toán Việt Nam đã và đang tiếp cận và hình thành những nguyên tắc kế toán
hiện đại của kinh tế thị trờng, từng bớc tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho kế toán,
kiểm toán trong môi trờng chung của thông lệ quốc tế. Chuẩn mực quốc tế về kế
toán, kiểm toán đã đợc nghiên cứu và vận dụng. Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc
gia đã bắt đầu đợc thiết lập, tạo môi trờng tin cậy cho đầu t và thơng mại.Kế toán
không chỉ cung cấp thông tin, cung cấp thớc đo hiệu quả đầu t, hiệu quả hoạt động
kinh doanh mà còn là công cụ hữu hiệu kiểm kê, kiểm soát mọi nguồn lực của
quốc gia, của từng lĩnh vực kinh tế xã hội.
Đó là những hành trang quan trọng và quý giá của kế toán Việt Nam khi bớc
vào thiên niên kỷ mới. Thế kỷ XXI đã tới với dự báo đầy những vận hội và thách
thức. Thế kỷ của kinh tế tri thức, của khoa học thông tin, của kinh tế mở cửa và
6
hội nhập. Nhiệm vụ chiến lợc của nền tài chính Việt Nam rất nặng nề, nhng cũng
rất vẻ vang.
Từ năm 1988, đặc biệt giai đoạn 1994 đến nay, để đáp ứng những yêu cầu đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trờng, theo định hớng XHCN, có sự quản lý của nhà nớc, Bộ tài chính đã thực hiện
các bớc cải cách hệ thống kế toán Việt Nam và đã đạt đợc những kết quả đáng kể.

Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1993, hệ thống kế toán Việt Nam đã đợc
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Từ năm 1994 đến nay, ở Việt Nam đã và đang diễn
ra quá trình cải cách một cách toàn diện căn bản hệ thống kế toán nhằm mục tiêu
đáp ứng những yêu cầu mới. Công cuộc cải cách kế toán đợc bắt đầu từ việc
nghiên cứu, xây dựng, ban hành những chế độ kế toán cụ thể gắn liền với việc cải
tiến từ ghi chép, thu nhập, xử lý, đến tổng hợp thông tin kinh tế, tài chính cho
công tác quản lý. Bộ tài chính đã ban hành hệ thống chế độ kế toán doanh nghiệp,
hệ thống chế độ kế toán hành chính sự nghiệp và một loạt các văn bản kế toán cho
các nghành kinh tế. Công tác kế toán vận hành trong nền kinh tế có hiệu quả hơn,
đảm bảo tính thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế
tạo điều kiện từng bớc lập lại trật tự kỷ cơng trong công tác kế toán; trình độ cán
bộ kế toán đợc nâng cao tiếp cận đợc chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế.
Hiện nay và trong những năm tới, Bộ tài chính sẽ tiến hành những công việc có
tính chất nền tảng, chiến lợc hơn. Đó là phải tạo ra một mô hình có tính hệ thống
tổng thể về tổ chức bộ máy các cơ quan chức năng, các tổ chức nghề nghiệp, hệ
thống khuôn khổ pháp lý, các chế độ thể lệ, phơng pháp chuyên môn nghiệp vụ
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán và đội ngũ những ngời làm kế toán, kiểm toán
thích ứng với đòi hỏi mới của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và
trong tơng lai. Theo kế hoạch, từ năm 2000 đến năm 2003 sẽ nghiên cứu, soạn
thảo Luật kế toán thay thế Pháp lệnh Kế toán và Thống kê. Sau 10 năm thực hiện,
pháp lệnh kế toán và thống kê đã không còn phù hợp. Việc hoà nhập hai loại hạch
toán kế toán và hạch toán thống kê trong pháp lệnh là không hợp lý, kém hiệu lực
kinh tế thị trờng. Phạm vi và đối tợng điều chỉnh của pháp lệnh cha bao quát, cha
đầy đủ và không phù hợp với tình hình phát triển của đất nớc sau 10 năm đổi mới
theo đờng lối của Đảng; Hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam đang
đợc nghiên cứu, soạn thảo và sẽ ban hành áp dụng từng bớc đáp ứng yêu cầu phản
ánh và quản lý hoạt động kinh tế, tài chính các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện
nay và phải đảm bảo yêu cầu:
Thông tin do kế toán cung cấp là cơ sở tin cậy để nhà nớc điều hành nền kinh
tế vi mô, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, của các nghành,

các khu vực, thành phần kinh tế và các tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà
nớc.
Đáp ứng đợc những nhu cầu sử dụng thông tin kinh tế tài chính của các đối t-
ợng khác nhau, đa dạng trong nền kinh tế;
7
Bao quát đợc các hoạt động kinh tế vốn có trong nền kinh tế thị trờng và phải
tuân theo những nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung đợc thừa nhận của nền
kinh tế thị trờng, làm cho kế toán trở thành "ngôn ngữ" thống nhất không chỉ
đối với một quốc gia, mà còn mang tính chất khu vực và toàn cầu.
Nhằm tạo sự thống nhất trong phản ánh thực trạng tài chính và kết quả hoạt
động kinh doanh cũng nh việc cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính cần
thiết khác, làm rõ thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh ở doanh nghiệp
nhà nớc, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài theo một chuẩn mực chung, trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng tài chính
và kết quả kinh doanh theo một thớc đo chung có khả năng so sánh các thông
tin kinh tế, tài chính cung cấp trong nền kinh tế giữa các doanh nghiệp.
Đồng thời cần tiếp tục cụ thể hoá chế độ kế toán một số nghành đặc thù nh kế
toán ngân hàng, các tổ chức tín dụng, kế toán thị truờng chứng khoán , chế độ
bảo quản lu trữ hồ sơ tài liệu kế toán. Sớm đa Hội đồng quốc gia về kế toán vào
hoạt động, làm tham mu và t vấn cho Chính phủ về lĩnh vực kế toán.

2) Góp phần hoàn thiện pháp chế Xã hội chủ nghĩa:
Nội dung những vấn đề chủ yếu đợc thảo luận và quyết nghị tại kỳ họp thứ 5
Quốc hội khoá X, một lần nữa chứng minh Nhà nớc ta tiếp tục tiến bớc mạnh mẽ
trên con đờng xây dựng Nhà nớc pháp quyền, hoàn thiện pháp chế XHCN. Đó là
nền pháp chế tiên tiến, nhất quán mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng
đã chỉ rõ: Phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi công dân
đều bình đẳng trớc pháp luật, đồng thời giữ vững định hớng XHCN trong nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng.
Xét tổng thể, pháp chế gồm hai mặt:

Một là, hệ thống các văn bản pháp luật đợc ban hành và có hiệu lực thi hành,
nh các bộ luật, sắc luật, pháp lệnh,nghị định, thông t, quyết định của các cơ
quan Nhà nớc có thẩm quyền.
Hai là, việc tổ chức thực hiện, đảm bảo hiệu lực thực tế của các văn bản pháp
luật đó.
Hai mặt này là hai bộ phận hữu cơ trong một chỉnh thể, có quan hệ tơng tác, thúc
đẩy lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Nếu hệ thống các văn bản pháp luật (còn thờng
đợc gọi là khung pháp lý) cha thật hoàn hảo, mà công tác tổ chức thực hiện tốt thì
vẫn có thể đạt hiệu quả khá trong đời sống kinh tế xã hội, đồng thời còn góp phần
sớm điều chỉnh, bổ khuyết những bất cập về cơ chế chính sách, luật pháp. Nguợc
lại, với một hệ thống khung pháp lý khi hoàn chỉnh, u việt mà việc tổ chức thực thi
không nghiêm, kém tự giác và hiệu lực, thì tình trạng vi pham pháp luật, tham
nhũng, tiêu cực vẫn có đất phát triển. Những thành tích vừa đạt đợc trong phong
trào cả nớc sôi nổi hởng ứng th của Tổng bí th Lê Khả Phiêu kêu gọi thực hành tiết
8
kiệm, chống tham nhũng, tiêu cực, cho thấy việc tăng cờng pháp chế XHCN có vai
trò then chốt trong công tác này.
Liên hệ vào lĩnh vực của chúng ta cũng thấy rõ hai khía cạnh. Phần lớn trong
những mô hình quản lý, kinh doanh tốt và trong những cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực thành công đều có vai trò công tác kế toán và kiểm toán. Những
cũng đáng tiếc là, trong không ít vụ việc sai phạm cũng đều hiện diện trách nhiệm
kế toán trởng, kế toán viên. Đau buồn hơn là có những trờng hợp, khi vui vẻ tiêu
xài, chi phí, ăn chia, kế toán trởng chỉ là một thành viên nho nhỏ, nhng khi vỡ lở
thì phải gánh chịu hầu hết trách nhiệm với những hình phạt nặng nề. Kiểm nghiệm
lại thực tế những vụ vi phạm pháp luật, có những trờng hợp kế toán chủ động thực
hiện hoặc tham gia, nhng rất nhiều trờng hợp là do bị động, ép buộc, bất khả
kháng. Trong nhiều nguyên nhân của hiện tợng tiêu cực đó, có phần do pháp chế
nói chung và khung pháp lý nói riêng chậm đợc đổi mới và thiếu đầy đủ, đồng bộ.
Giờ đây, cùng với cả nớc, giới kế toán, kiểm toán chúng ta có thêm điều kiện
tích cực tham gia tiến trình hoàn thiện pháp chế XHCN. Hoàn thiện khung pháp

lý, tăng cờng pháp chế XHCN là sự nghiệp hệ trọng và lâu dài, tích cực tham gia
vào sự nghiệp này vừa là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi công dân, vừa vì sự vẻ
vang và lợi ích của chính những ngời gắn bó cuộc đời với nghề kế toán và kiểm
toán.

3) Kế toán Việt Nam trong tiến trình cải cách hội nhập:
3.1) Các việc đã làm và kết quả đạt đ ợc trong tiến trình đổi mới:
Ban hành Pháp lệnh kế toán và thống kê (1988), văn bản pháp lý đầu tiên và là
văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam. Với Pháp lệnh này kế toán Việt
Nam đã dần đi vào nề nếp, phục vụ tốt cho kiểm kê, kiểm soát các nguồn lực.
Xây dựng và ban hành hệ thống kế toán thống nhất áp dụng trong toàn bộ nền
kinh tế (1995). Hệ thống kế toán mới đã thoả mãn và phục vụ tốt yêu cầu của
giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trờng ở Việt Nam. Đồng thời thoả mãn yêu
cầu hội nhập, mở cửa từng bớc với khu vực và quốc tế. Các nguyên tắc, thông
lệ và chuẩn mực quốc tế về kế toán đã đợc nghiên cứu, chọn lọc, cân nhắc và
vận dụng; khuôn mẫu các báo cáo tài chính, phơng pháp trình bày các báo cáo
tài chính về cơ bản đã phù hợp với các thông lệ quốc tế; Có thể nói, cho đến
nay những khác biệt giữa kế toán Việt Nam với kế toán các nớc không nhiều.
Nếu có khác đó là do các khuôn khổ pháp lý và các quy định, quy chế tài chính
của các quốc gia.
Từ năm 1987 đến nay,Việt Nam đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu t n-
ớc ngoài ở Việt Nam đợc lựa chọn và áp dụng các hệ thống kế toán phổ biến
của các nớc, không bắt buộc phải áp dụng hệ thống kế toán Việt Nam. Và chỉ
từ 1/1/2001, các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mới buộc phải
9
tuân thủ các quy định về kế toán Việt Nam. Trờng hợp đặc biệt cha áp dụng đ-
ợc phải đợc Bộ tài chính Việt Nam chấp thuận bằng văn bản.
Đã hình thành hoạt động kiểm toán độc lập (1991), kiểm toán Nhà nớc (1994)
và kiểm toán nội bộ (1998). Các hoạt động t vấn và dịch vụ kế toán đã hình
thành và đợc phép hành nghề trong các công ty Nhà nớc và t nhân.Nghề kiểm

toán đã hình thành và phát triển mạnh ở Việt Nam, cả 6 công ty kiểm toán
quốc tế lớn đã đợc phép hoạt động ở Việt Nam từ năm 1991 dới hình thức
100% vốn nớc ngoài hoặc liên doanh với công ty kiểm toán Việt Nam. Đến nay
ở Việt Nam đã có 19 công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán cùng nhiều chi
nhánh và văn phòng đại diện hoạt động trong cả nớc, cung cấp các dịch vụ t
vấn tài chính, t vấn thuế, quản trị kinh doanh kiểm toán cho các công ty và các
dự án.
Chức danh kiểm toán viên hành nghề độc lập (CA, CPA) đã đợc thừa nhận.
Chính phủ Việt Nam đã thành lập Hội đồng thi tuyển kiểm toán viên quốc gia.
Từ năm 1994, Hội đồng đã tổ chức thi tuyển cho hàng nghìn lợt ngời và đã cấp
chứng chỉ trúng tuyển kiểm toán viên cấp Nhà nớc cho gần 400 ngời (cả ngời
Việt Nam và ngời nớc ngoài).
Các tổ chức nghề nghiệp kế toán đã đợc thành lập và hoạt động khá hiêu quả.
_ Câu lạc bộ kế toán trởng: Thành lập năm 1989, hiện có 700 hội viên là kế
toán trởng doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp trong cả nớc.
_ Hội kế toán Việt Nam (VAA): Đợc thành lập từ năm 1994 với sự tham gia
của hàng nghìn hội viên là các kế toán viên, kiểm toán viên và nhà quản lý
kinh tế, cán bộ giảng dạy các trờng ĐH kinh tế. Nhiều Phân hội, Chi hội kế
toán các nghành, lĩnh vực và địa phơng đã hoạt động có hiệu quả.
Hội đồng quốc gia về kế toán (National Council For Accountancy) đã đợc
thành lập vào năm 1999, làm nhiệm vụ t vấn cho Bộ trởng tài chính về kế toán,
kiểm toán.
Đã công bố 10/33 chuẩn mực kiểm toán. Đang tích cực soạn thảo, hoàn thiện
và chuẩn bị công bố tiếp các chuẩn mực kế toán quốc gia (VAS) và chuẩn mực
kiểm toán quốc gia (VAS).
3.2) Những công việc đang và sẽ tiếp tục triển khai:
Xây dựng và ban hành Luật kế toán Việt Nam, tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho
hoạt động kế toán, kiểm toán của Việt Nam. Đây cũng là đòi hỏi hội nhập và tự
do hoá tài chính.
Soạn thảo và công bố các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc gia. Vấn đề

này đã và sẽ triển khai khẩn trơng trong một lô trình chặt chẽ.
Thiết lập hệ thống kế toán Nhà nớc (cũng có thể là hệ thống Tổng kế toán
Quốc gia).
Nâng cao chất lợng hoạt động và năng lực của Hội kế toán Việt Nam và Hội
đồng Quốc gia về kế toán, từng bớc đảm nhiệm các chức năng huấn luyện, đào
10

×