Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đề tài “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.6 KB, 24 trang )

ĐỀ TÀI
1
“Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”

Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
1
2
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Tháng 12 năm 1991, lá cờ búa liềm trên nóc điện Cremli bị hạ xuống,
đánh dấu sự sụp đổ một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa phù hợp. Chủ nghĩa xã
hội không còn là một hệ thống, đây chỉ là bước thụt lùi tạm thời. Chủ nghĩa xã
hội theo quy luật phát triển tất yếu của xã hội nó sẽ được xác lập và thay thế
chủ nghĩa tư bản. Mặc dù, chủ nghĩa xã hội không còn là hệ thống thế giới
nhưng một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa kịp thời đổi mới đã và
đang đạt được những thành tựu to lớn trong đó có Việt Nam. Việc nghiên cứu,
bổ sung lí luận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã
hội ở từng nước luôn được đặt ra một cách bức thiết cho các Đảng cộng sản.
Bên cạnh đó, mỗi cá nhân cũng cần nghiên cứu và học tập để bồi dưỡng, nâng
cao nhận thức về xã hội chủ nghĩa, từ đó có những hành động và việc làm cụ
thể góp phần vào công cuộc chủ nghĩa xã hội của nhà nước và sự tiến bộ của
nhân loại. Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài tiểu luận của mình là:
“Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã được nghiên cứu từ lâu. Ngay từ khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-
Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng sang tạo vào tình
hình cụ thể ở Việt Nam. Đến nay, đã có rất nhiều công trình của nhà nước, tập


thể cũng như của cá nhân đã nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù vậy, trong suốt
quá trình đổi mới đất nước, thực tiễn sinh động nảy sinh nhiều vấn đề cần phải
tiếp tục nghiên cứu và bổ sung.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài này là nhằm nghiên cứu về chủ nghĩa
xã hội từ lí luận đến thực tiễn, đồng thời đúc rút kinh nghiệm thành công và
những bài học về quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở trong và ngoài nước,
từ đó có nhận thức rõ hơn, cụ thể hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lí luận: Đề tài được dựa trên lí luân của chủ nghĩa Mác-Lênin về
chủ nghĩa xã hội đồng thời xây dựng từ thực tiễn của các nước xã hội chủ
nghĩa đặc biệt là Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận chung
nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết
học Mác - Lênin. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp kết hợp lịch sử và logic, phương pháp khảo sát và phân tích, so sánh,
điều tra xã hội học,…
5. Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài nghiên cứu này có ý nghĩa thiết thực đối với việc học tập, nghiên
cứu cũng như vận dụng vào thực tế xây dựng thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Mặt khác, còn nâng cao nhận thức của cá nhân về xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó góp phần mình vào công
cuộc xây dựng đất nước vì chủ nghĩa xã hội, vì sự phất triển của dân tộc và
tiến bộ của nhân loại.
6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương I: Nhận thức về chủ nghĩa xã hội.

Chương II: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin về chủ nghĩa xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen đã vận dụng lí luận hình thái kinh tế - xã hội để
phân tích một xã hội hiện thực đó là xã hội tư bản. Hai ông đã tìm ra quy luật
phát sinh, phát triển và diệt vong của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời của
hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn: hình thái cộng sản chủ nghĩa và giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản
trong việc phát triển lực lượng sản xuất tạo ra nền công nghiệp cơ khí và gắn
liền với nó là giai cấp vô sản cách mạng. Đó là lực lượng sản xuất có tính chất
xã hội. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nển đại công nghiệp và giai cấp vô
sản càng phát triển. Chính sự ra đời của nền đại công nghiệp đã quyết định sự
thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với xã hội phong kiến, thì đến lượt nó, sự
phát triển của nền đại công nghiệp làm cho nền sản xuất có tính chất xã hội lại
mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội đòi hỏi phải “tự giải thoát khỏi tính chất
tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận tính chất của chúng là những lực
lượng sản xuất xã hội”[2;385]. Điều đó có nghĩa là, phải xóa bỏ chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ sở hữu có tính chất xã hội, hay
nói cách khác là chế độ công hữu. Và do đó, một xã hội mới được thay thế chủ
nghĩa tư bản, đó là chủ nghĩa xã hội.
Sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản là một quá trình phát triển tất yếu
khách quan theo quy luật dựa trên những tiền đề vật chất do chủ nghĩa tư bản
tạo ra, và là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã
5
hội tư bản. Do đó nó phải vừa thừa kế, phát triển các thành tựu văn minh đạt

được trong lòng xã hội tư bản, vừa xóa bỏ tính chất tư bản của nó, giải phóng
con người khỏi ách áp bức bóc lột mang lại quyền tự do, bình đẳng và cái giá
trị đích thực của con người.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, tất yếu phải thông qua
cách mạng vô sản. C.Mác và Ăngghen dự báo rằng: “Cuộc cách mạng cộng
sản chủ nghĩa không những có tính chất dân tộc mà sẽ đồng thời xảy ra trong
tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mĩ, Pháp, Đức. Trong mỗi
nước đó cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh hay chậm là tùy ở
chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát triển hơn, tích lũy
được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất hơn”[8,472].
Trong khi dự báo cách mạng vô sản trước hết nổ ra ở các nước tư bản
phát triển, hai ông cũng cho rằng, khi giai cấp vô sản ở các nước liên tiếp
giành được chính quyền, với kinh nghiệm và sự giúp đỡ của các giai cấp vô
sản ở các nước đó, các nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường “rút
ngắn”, từng bước lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Đến giai đoạn này, tính chất xã hội của lực lượng sản xuất trong các
nước tư bản đã đạt đến trình độ cao, và theo Lênin, nó làm cho những quan
hệ sản xuất xã hội đang thay đổi làm cho những quan hệ kinh tế - tư nhân
và những quan hệ tư hữu là một cái vỏ, không còn phù hợp với nội dung
của nó nữa”[9;539].
Lênin phát hiện ra quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư
bản, từ đó đã đi đến kết luận mới về cách mạng vô sản, về sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Theo Lênin, sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị
6
là quy luật tuyệt đối của tư bản chủ nghĩa. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa
xã hội có thể thắng trước hết là ở một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm
chí trong một nước tư bản chủ nghĩa tách riêng ra.

Dự đoán của Lênin đã trở thành sự thật. Tháng 10 năm 1917, cách
mạng vô sản nổ ra và thắng lợi ở nước Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới ra đời. Song, nước Nga khi đó còn là một nước lạc hậu,
chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, quan hệ gia trưởng và sản xuất nhỏ còn
nặng nề. Trong điều kiện đó, Lênin đã phát triển sáng tạo lí luận về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định muốn đi lên chủ nghĩa xã hội
thì phải thực hiện thời kì quá độ mà thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một thời kì lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Ông đã chỉ ra hai con
đường cơ bản lên chủ nghĩa xã hội:
Con đường thứ nhất: quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đây là con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Con đường thứ hai: quá độ lên chủ nghĩa xã hội thong qua nhiều khâu
trung gian, nhiều bước quá độ. Đây là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đối
với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Lênin cũng chỉ rõ rằng thời kì quá độ đó là những cơn đau đẻ kéo dài, là
quá trình xác lập lực lượng sản xuất mới dựa trên cơ sở của tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt nhấn mạnh lợi dụng chủ nghĩa tư bản, nhất là hướng vào chủ nghĩa tư
bản nhà nước, làm khâu trugn gian để chuyển một nước tiểu sản xuất lên chủ
nghĩa xã hội. Theo Lênin thì: “chủ nghĩa tư bản xấu so với chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa tư bản lại tốt với so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất với chủ
nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên.
Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên của
nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể
tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy
7
chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con
đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản
xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phưong tiện, con đường, phương pháp, phương
thức để tăng lực lượng sản xuất”[10;276].
Như vậy, theo C.Mác, Ăngghen và Lênin thì chủ nghĩa xã hội là một

nấc thang trong quá trình phát triển của xã hội loài người là một xã hội phát
triển cao hơn xã hội tư bản và thay thế chủ nghĩa tư bản. Hình thái cộng sản
chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ thời kì quá độ. Và
dù là quá độ trực tiếp hay gián tiếp thì cũng đều nằm trong quy luật và xu
hướng tất yếu của lịch sử nhân loại.
1.2. Nhận thức của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về chủ
nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy, người lập ra và lãnh đạo Đảng ta,
vì vậy, những quan điểm, nhận thức của Người thống nhất với quan điểm của
Đảng ta về chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh lãnh hội tư tưởng của Mác, Ăngghen và của Lênin xem
chủ nghĩa xã hội là học thuyết khoa học và cách mạng nhằm giải phóng giai
cấp công nhân, một tư tưởng cực kì quan trọng được nêu lên trên cơ sở khái
quát thực tiễn đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa. Người phát triển
sáng tạo tư tưởng đó trên cơ sở khái quát bổ sung thực tiễn cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc vừa nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách
nô lệ của chủ nghĩa đế quốc, vừa nhằm giải phóng giai cấp công nhân và
những người lao động khác khỏi tình trạng bóc lột của địa chủ, tư sản. Ngay từ
năm 1923, Người đã diễn đạt hết sức chặt chẽ: “chỉ có giải phóng giai cấp vô
sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản”[3;25]. Hồ Chí Minh chỉ rõ, kể từ sau thắng
lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, chủ nghĩa xã hội không chỉ
8
còn là một ước mơ cao đẹp của loài người mà đã trở thành một hiện thực trong
xã hội.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một chân lí, đồng thời là một
niềm tin: “không có lực lượng gì ngăn trở đượcmặt trời mọc. Không có lực
lượng gì ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên, cũng không có lực lượng gì
ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển”[6;26]. Người coi: “chủ nghĩa xã hội
không phải là gì cao xa, mà đó là những gì rất cụ thể như ý thức lao động tập

thể, ý thức kỉ luật, tinh thần thi đua yêu nước, tăng sản xuất cho hợp tác xã,
tăng thu nhập cho xã hội, tinh thần đoàn kết tương trợ, tinh thần dám nghĩ,
dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần kiệm”[5;59]. Tinh thần cơ bản
của một luận đề mácxít về chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh nhắc lại với
một quy mô lớn hơn: chủ nghĩa xã hội là của nhân dân, vì nhân dân và do
nhân dân lao động.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng cơ
bản như sau:
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển
cao, gắn liền với sự phát triển tiến bộ của khoa học – kĩ thuật và văn hóa, dân
giàu nước mạnh.
Thực hiện chế độ sở hữu xã hội về chủ nghĩa sản xuất và thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động.
Chủ nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động làm
chủ. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn
dân mà nòng cốt là lien minh công – nông – lao động trí óc, do Đảng cộng sản
lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng,
bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao
động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn, con người được
9
giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của
xã hội tự nhiên.
Chủ nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân
dân tự xây dựng lấy.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ cương lĩnh đầu tiên đã xác định con
đường đi lên tất yếu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định “xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam
xây dựng là một xã hội:

- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới”[11;316].
Đại hội đại biểu tiàn quốc lần thứ X một lần nữa khẳng định: “xã hội xã
hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức,
bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân
10
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng
tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới”[12;18].
Tóm lại, theo Mác, Ăngghen và Lênin thì chủ nghĩa xã hội là một nấc
thang trong lịch sử tiến hóa của loài người, nó sẽ thay thế xã hội tư bản –
đay là quy luật mang tính tất yếu của lịch sử - tự nhiên. Giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản mà thời kì đầu là xã hội chủ nghĩa là một thời
kì cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Xã hội của thời kì quá
độ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa: “đó là xã hội, về mọi
phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết xã hội cũ

mà nó đã lọt lòng. Đó là xã hội chưa phát triển trên cơ sở chính của
nó”[2;155].
Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ
thể ở Việt Nam trong thời đại ngày nay, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức:
chủ nghĩa xã hội là hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa của lịch sử nhân
loại mà những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là một xã hội: có cơ sở
vật chất – kĩ thuật là nền sản xuất công nghiệp hiện đại; xóa bỏ chế độ tư hữu
tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu;
tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất; có nhà nước xã
hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền và lợi ích của nhân dân; là một xã hội có
chế độ đã giải phóng con người thoát khỏi ách áp bức bóc lột, thực hiện công
bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện để con người phát triển
toàn diện”[3;69].
11
CHƯƠNG II
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra
hướng đi cho cách mạng Việt Nam là: chủ trương làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản. Cách mạng Việt
Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn đó đều thuộc phạm trù cách
mạng vô sản. Vào những thập niên 80 của thế kỉ XX, chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và sụp
đổ. Đảng ta vẫn kiên định con đường chủ nghĩa xã hội. Đảng khẳng định
đây chỉ là bước thụt lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội, là sự sụp đổ của một
mô hình chủ nghĩa xã hội chưa phù hợp, còn nhiều khiếm khuyết. Năm

1991, Đảng ta xây dựng cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ IX một lần nữa khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội
trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như khát vọng và sự
thức tỉnh của dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội”[11;364]. Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, đã có nhiều
thời điểm đặt ra vấn đề lựa chọn lại con đường phát triển của lịch sử dân tộc
và “con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
12
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ”[4;421].
Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ. Trong thời kì quá độ, vẫn có nhiều hình thức sở hữu về
tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau,
nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều
cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai
cấp, tầng lớp là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết
và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là con đường “rút

ngắn” nhưng vì điểm xuất phát của chúng ta là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Từ đặc điểm nổi bật này nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta không
thể làm mau được mà phải làm dần dần, qua nhiều chặng đường.
2.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Đảng ta đã chỉ rõ: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nghĩa là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
13
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. “Để đi
lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa; xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần
của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế”[12;69].
2.2.1. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đã có những thời kì Đảng mắc phải những sai lầm trong việc định
hướng phát triển kinh tế do áp dụng máy móc mô hình kế hoạch hóa tập
trung của Liên Xô, Trung Quốc. Chúng ta đồng nhất nền kinh tế hang hóa
với chủ nghĩa tư bản nên đã tiến hành xóa bỏ hai thành phần kinh tế vẫn còn
năng động là kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân quá sớm. Chúng ta
muốn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, phát triển
quan hệ sản xuất tiên tiến nhưng không tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất

phát triển do đó đã vi phạm quy luật khách quan về sự phù hợp quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất dẫn đến nền kinh tế
Việt Nam trong một thời gian dài lâm vào khủng hoảng, thậm chí còn thụt
lùi.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng cơ sở của
chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp có năng lực sản xuất lớn hơn tư bản
chủ nghĩa, để làm được điều này chúng ta phải học tập khoa học - kĩ thuật,
kinh nghiệm quản lí của chủ nghĩa tư bản. Chính tư tưởng chủ quan nóng vội
14
đã làm thui chột tiềm năng sáng tạo của người lao động.
Đúc rút kinh nghiệm từ thực tỉễn sinh động ở trong và ngoài nước, Đảng
ta đã mạnh dạn công khai nhận khuyết điểm và nhận thức đúng đắn hơn về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: là một quá trình lâu dài, khó khăn, trải qua
nhiều chặng đường với những bước đi thích hợp mà cụ thể là phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế bao gồm:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tư bản tư nhân, tiểu
chủ), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài, trong đó kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo điều tiết vĩ mô nền kinh tế để phát triển tiềm
lực của đất nước đưa kinh tế Việt Nam nhanh chóng đi vào quỹ đạo xã hội chủ
nghĩa.
Tại Đại hội IX, Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục thực hiện nhất
quán và lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm:
“phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lí và phân phối”[11;636].
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của nhà
nước. Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lí kinh tế bằng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lí của kinh tế thị trường để kích thích

sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của
toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
15
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển.
Chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
Tại Đại hội X, đánh giá quá trình năm năm thực hiện nghị quyết Đại
hội IX của Đảng đã nêu rõ: “nền kinh tế đã vượt qua thời kì suy thoái kém
phát triển, đạt tốc độ phát triển khá cao và tương đối toàn diện… Kinh tế vĩ
mô tương đối ổn định, các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế
được cải thiện; việc huy động các nguồn nội lực cho phát triển có chuyển
biến tích cực, tỉ lệ huy động GDP và ngân sách nhà nước vượt dự
kiến”[12;56].
2.2.2. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đại hội IX khẳng định: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là nhiệm vụ
trung tâm. Con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam có thể rút
ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, phát huy
những lợi thế của đất nước. Coi phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công
nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải đảm bảo: nền kinh tế độc lập tự chủ, tiềm
lực mạnh; có tích lũy cao; cơ cấu kinh tế hợp lí, có sức cạnh trạnh; kết cấu hạ
tầng hiện đại với một số ngành công nghiệp nặng then chốt; kết hợp nội lực và
ngoại lực.
Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong đó
nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp nhà nước, phát huy nội lực, mở
rộng thị trường ngoài nước.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tăng sức sản
16
xuất và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong công nghiệp: phát triển những ngành nhiều lao động và những
ngành có hàm lượng kĩ thuật cao. Khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ. Xây
dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng: giao thông, điện
lực, thủy lợi,…
Phát triển mạng lưới đô thị hợp lí; phát huy vai trò của các vùng kinh tế
trọng điểm; phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược cảu kinh tế biển,
kết hợp với bảo vệ vùng biển; sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên, bảo vệ và cải
thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Đến Đại hội Đảng X, đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
có một số những thay đổi cho phù hợp với tinh hình mới ở trong nước và thế
giới “tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế
của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[12;87].
Phát triển các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức con người Việt
Nam với tri thức mới của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng
trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lí theo ngành, lĩnh vực và lãnh
thổ. Giảm chi phí trung gian nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành,
các lĩnh vực, nhất là các ngành, các lĩnh vực có hàm lượng chất xám và có sức
cạnh tranh cao.

Đại hội X chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ; khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế
17
tác, công nghiệp phần mềm; phát triển một số khu kinh tế mở, thu hút kinh tế.
Nâng cao hiệu quả kinh tế của các khu chế xuất, khu công nghiệp; thu hút đầu
tư của các tập đoàn lớn; thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác tài
nguyên; tu hút những chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng
đồng người Việt ở nước ngoài. Bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với
cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp
dưới 50% lực lượng lao động xã hội.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một nhiệm vụ hết sức quan trọng,
giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế
giới, phát huy được thế mạnh về nguòn nhân lực và tài nguyên, tạo bước đột
phá trong tương lai gần, cố gắng đến năm 2020 Việt Nam về cơ bản là nước
công nghiệp.
2.2.3. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học-công nghệ và xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội IX khẳng định: “giáo dục đào tạo là một trong những đọng lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững”[11;654].
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa giáo dục, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống nhân dân, nâng cao
dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn lực con
người của đất nước.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp
giảng dạy, chăm lo phát triển giáo dục mầm non, tăng cường ngân sách cho
giáo dục đào tạo phát triển đa dạng các hình thức giáo dục đào tạo.Thực hiện
xã hội hóa giáo dục. đổi mới cơ chế quản lí giáo dục, tăng cường hợp tác quốc

18
tế về giáo dục.
Về khoa học - công nghệ, Đại hội X khẳng định: “phấn đấu đến 2010,
năng lực khoa học công nghệ của nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến
trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng”[12;98]. Đảng chủ trương phát
triển khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, đổi mới cơ chế quản lí khoa học và
công nghệ, khuyến khích các hoạt động sáng tạo, ứng dụng công nghệ, trọng
dụng nhân tài.
Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Đại hội
Đảng chủ trương: “xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam,
phát huy bản sắc dân tộc trong thời gian công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế”[10;368]. Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản, và
năng lực làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa, khuyến khích hoạt
động văn hóa nghệ thuật. Đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử
cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc.
Đồng thời, tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát
triển, nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hóa, xây dựng cơ chế quản lí phù
hợp, chủ động và khoa học. Tăng cường quản lí của nhà nước về văn hóa.
Tích cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, chống lại sự xâm
nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại.
2.2.4. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội X khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của
Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”[12;116]. Lấy mục tiêu giữ
vững độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
19
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân

tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ,
thành phần giai cấp, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích
của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tin tưởng
cởi mở, tin tưởng lẫn nhau về sự ổn định chính trị và đồng thuẫn xã hội; đoàn
kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh
đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức,
trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đối với giai cấp công nhân: phát triển về số lượng, chất lượng; tổ chứ,
nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, xứng đáng là lực
lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Giải
quyết việc làm, thực hiện tốt chính sách về pháp luật và tiền lương, bảo hiểm
xã hội , bảo hiểm y tế,… Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền
lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp
Đảng viên từ những công nhân ưu tú.
Đối với giai cấp nông dân: phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp
đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghê tiên tiến vào nông
nghiệp. Tạo điều kiện thuận lời giúp nông nghiệp chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông nghiệp hợp tác với các doanh nghiệp
để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống.
Đối với tri thức: khuyến khích hoạt động phát minh, sáng tạo, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của tri thức cho công
cuộc phát triển đất nước.
Đối với các doanh nhân: khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh,
20
mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài, giải quyết việc làm cho người lao
động, nâng cao chất luợng sản phẩm, tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hang
hóa Việt Nam.

Đối với thế hệ trẻ: thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lí
tưởng, đạo đức và lối sống, tạo mọi điều kiện cho phát triển toàn diện.
Đối với phụ nữ: thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ
tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, cơ quan lãnh đạo và quản
lí các cấp.
Đối với người cao tuổi: chăm sóc sức khỏe, phat huy kinh nghiệm
sống, lao động của người cao tuổi, giúp đỡ người cao tuổi không nơi
nương tựa.
Các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. cùng nhau thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đúng như Hồ Chí Minh đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành
công, thành công, đại thành công”. Đó là hạt nhân sống còn đối với mỗi quốc
gia, dân tộc. Các thế lực thù địch luôn tìm cách chia rẽ khối đoàn kết của dân
tộc Việt Nam. Lịch sử hào hung của dân tộc đã chứng minh rằng: kẻ thù càng
cố tìm cách chia rẽ thì khối đại đoàn kết dân tộc ấy lại càng gắn bó keo sơn,
tinh thần ấy làm nên sức mạnh Việt Nam mà bất kì bạo lực nào của kẻ thù
cũng không đè bẹp nổi.
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
2.2.5. Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc tổ quốc
21
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta luôn xác định cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn
liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và
nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc luôn là nhiệm vụ cần phải chú trọng bởi các thé lực
thù địch luôn tìm mọi cách, mọi lúc chống phá công cuộc cách mạng mà
Đảng, nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng. Để làm tốt nhiệm vụ đó cần

phải:
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân.
Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng
và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước.
Tiếp tục xây dưng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lí của nhà nước
đối với hoạt động quốc phòng, an ninh.
C. KẾT LUẬN
22
Ngay từ thế kỉ XIX C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội, chỉ ra một cách khoa học rằng chủ nghĩa xã hội là
một nấc thang cao của lịch sử tiến hóa loài người, nó sẽ thay thế chủ nghĩa tư
bản. Sau đó, những lí luận về chủ nghĩa xã hội được Lênin bổ sung.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và hoàn cảnh cụ
thể Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng đã có những nhận thức sâu sắc, khoa học
về chủ nghĩa xã hội. Từ đó có những bổ sung và phát triển lí luận về chủ nghĩa
xã hội, đưa ra những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ
năm 1986, chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xác định rõ hơn
con đường đi lên của dân tộc.
Từ thực tiễn di lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng đó
là con đường đúng đắn phù hợp với lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp với quy
luật phát triển, với xu thế phát triển của thời đại. Nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghã xã hội của Đảng và nhân dân ta ngày càng
đúng đắn, khách quan và sáng rõ hơn. Hệ thống quan điểm, lí luận về công
cuộc đổi mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã được xây dựng dựa trên sự đúc kết kinh nghiệm của quá khứ, đặc biệt
là trên những thực tiễn sinh động của đất nước và của thời đại. Muốn xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội chúng ta cần phải xây dựng từng bước phù

hợp với từng thời kí mà cụ thể là hiện nay chúng ta đang thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu: “ dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
1. Nguyễn Lương Bằng, Bài giảng triết học, Đại học Vinh, 2006.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những quan điểm cơ bản của Mác-
Ăngghen-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kì quá độ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội 1997.
3. Đỗ Nguyên Phương ( chủ biên), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa
học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
4. Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Giáo trình triết học, Nxb Lí luận
Chính trị, Hà Nội 2006.
5. Mạch Quang Thắng (chủ biên), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
6. Trịnh Quốc Tuấn (chủ biên), Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác-
Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
7. C.Mác - Ăngghen toàn tập (tập 4), Nxb Chính trị Quốc gia.
8. C.Mác-Ăngghen toàn tập (tập 20), Nxb Chính trị Quốc gia.
9. Lênin toàn tập (tập 27), Nxb Tiến bộ Matxcova.
10. Lênin toàn tập (tập 34), Nxb Tiến bộ Matxcova.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới
(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006.

24

×