1
Đề tài:
“Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt nam”
2
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trong đó
các chủ thể của nó được tiến hành sản xuất, kinh doanh một cách tự chủ vì lợi ích của bản
thân cá nhân, và thông qua đó thực hiện lợi ích xã hội. Cho đến nay, kinh tế tư nhân được
coi là khu vực cung cấp khối lượng sản phẩm lớn nhất cho xã hội. Sự tồn tại nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân là vấn đề tất yếu bắt
nguồn từ quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là khu vực kinh tế rất nhạy cảm với những đặc trưng của kinh
tế thị trường, có tiềm lực lớn trong việc nâng cao năng lực nội sinh của đất nước, tăng
trưởng kinh tế. Bởi vậy, phát triển kinh tế tư nhân là có lợi cho chủ nghĩa xã hội và được
coi là điều kiện không thể thiếu để xây dựng thành công kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài, là động lực quan
trọng để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn mười năm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, kinh tế tư nhân nước
ta đã hồi phục và phát triển nhanh chóng, đấy sinh lực với một sức bật mạnh mẽ. Hiện
nay, kinh tế tư nhân có tỷ trọng lớn nhất trong GDP cả nước, thu hut nhiều lao động nhất
và có tỷ lệ vốn đầu tư đáng kể trong toàn bộ vốn đầu tư của xã hội, đang trở thành một
nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng trong những năm tới.
Tuy nhiên, tiềm lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay vẫn chưa được khai thác đầy
đủ. Thực tế này do nhiều nguyên nhân như cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với phát
triển kinh tế tư nhân còn nhiều bất cập, môi trường kinh doanh chưa được thông thoáng.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự hướng dẫn của TS Nguyễn An Ninh, cùng với sự
tham khảo qua một số tài liệu, tác giả mạnh dạn thể hiện các quan điểm về đề tài: “Kinh
tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam”, sự
cần thiết phải tiếp tục đổi mới sự nhận thức đối với sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, phù
3
hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Bản chất kinh tế - xã hội của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
1.1 Sở hữu – nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất
1.1.1 Khái niệm sở hữu và một số nội dung phạm trù sở hữu
Đã có nhiều định nghĩa về sở hữu với nhiều cách diễn đạt khác nhau. Song nếu xét về
tổng thể, nội dung sở hữu luôn thể hiện rõ hai mối quan hệ: thứ nhất, quan hệ giữa chủ thể
với đối tượng; thứ hai, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở
đó, khái niệm tổng quát về sở hữu được diễn đạt như sau:
Sở hữu là quan hệ giữa người với người thông qua đối tượng sở hữu. Nó là quan hệ
kinh tế khách quan, là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, vận động và biến đổi cùng
với hệ thống kinh tế - xã hội.
Nói cách khác, sở hữu là quan hệ xã hội của sự chiếm hữu.
Khi coi sở hữu là quan hệ xã hội của sự chiếm hữu, cần phải xét nó ở hai bình diện là
nội dung pháp lý và nội dung kinh tế của sở hữu. Nội dung pháp lý của sở hữu quy định
đối tượng của sở hữu thuộc quyền của ai. Nó quy định các quyền: sử dụng, định đoạt,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp tài sản…và thực hiện lợi ích của các chủ thể.
Nội dung kinh tế của sở hữu thể hiện một hệ thống quan hệ kinh tế rất phức tạp giữa con
người vớ nhau trong việc vân dụng khai thác nguồn lực kinh tế – xã hội.Quan hệ sở hữu
cũng không thể tách rời quan hệ tổ chức, quản lý, phân phối được thể hiện qua quan hệ lợi
ích kinh tế.
4
Nội dung sở hữu khi được thể chế hóa về mặt pháp lý gọi là chế độ sở hữu. Nói cách
khác, chế độ sở hữu là tập hợp các thể chế về mặt pháp lý, bảo đảm cho các quyền sở hữu
được thực hiện. Còn sở hữu thông qua đời sống xã hội gọi là quyền sở hữu.
Chế độ sở hữu bao gồm nhiều quyền, trong đó đáng chú ý nhất là quyền sở hữu và
quyền sử dụng. Đây là hai nhóm quyền vừa phân cực, vừa thống nhất với nhau. Sự phát
triển kinh tế – xã hội càng phức tạp thì sự phân chia, sự tác động giữa hai nhóm trên càng
phong phú và đa dạng. Lý luận về sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sử
dụng cùng với việc xuất hiện vấn đề quyền sở hữu thực tế và quyền sở hữu danh nghĩa đã
mở ra phương hướng mới cho các giải pháp về vấn đề sở hữu nhà nước trong các nước xã
hội chủ nghĩa và trong một số nước đang phát triển hiện nay.
Hình thức sở hữu cũng là một nội dung quan trọng khác của sở hữu. Nó là cơ sở khách
quan của sở hữu, tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho đến nay, loài người đã trải qua nhiều hình thức sở hữu, phát triển qua các giai
đoạn khác nhau từ sở hữu bộ lạc, đến các hình thức sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội chủ
nghĩa. Trong xã hội hiện đại ngày nay, phần lớn các quan điểm đều cho rằng, mặc dù rất
phong phú, đa dạng, nhưng trên thực tế chỉ tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu nhà
nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hôn hợp.
1.1.2 Thế nào là sở hữu tư nhân?
Điều 211 Bộ luật dân sự nước ta (2005) cho rằng: sở hữu tư nhân là sở hữu của cá
nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu cá thể, sở hữu
tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân.
Đây là khái niệm mang tính khái quát cao. Nó cho thấy sở hữu tư nhân bao hàm hai
lĩnh vực: lĩnh vực tiêu dùng cá nhân (sở hữu cá nhân) và sở hữu nguồn lực được đưa vào
sản xuất (sở hữu tư nhân). Thực tế cho thấy: sở hữu cá thể, tiểu chủ và sở hữu tư bản tư
nhân là một thể thống nhất, không có sự chia cắt, chúng có cùng một nội dung sở hữu: sở
hữu tư nhân.
5
Như vậy, sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của cá nhân những nhà sản xuất kinh
doanh trong hoặc ngoài nước về các nguồn lực sản xuất được đầu tư vào các ngành, các
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế.Cá nhân tự quyết định,tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hành vi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.Những nguồn lực sản
xuất này thuộc quyền sử dụng, định đoạt và hưởng lợi của cá nhân người sở hữu.Vốn và
tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngoài kinh doanh tư nhân, còn có thể trở thành góp vốn vào
các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế khác.
Thực chất xét về nguồn gốc lịch sử, sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu tồn tại lâu đời
qua nhiều phương thức sản xuất, chúng là hệ quả quan trọng và trực tiếp của quyền tự do
cá nhân, quyền được phát huy mọi tiềm năng vốn có của mỗi cá nhân. Kể từ khi xuất hiện
xã hội có giai cấp, thực tiễn cho thấy khó có thể thay thế sở hữu tư nhân bằng một động
lực nào có thể lớn hơn hoặc bằng nó trong phát triển kinh tế.Chỉ trong một thời gian ngắn,
cùng với sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, loài người đã có những bước tiến khổng lồ về
thành tựu kinh tế.Cho đến nay, những động lực do sở hữu tư nhân tạo ra vẫn phát huy
mạnh mẽ vai trò của nó.
1.2 Sở hữu – nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất xã hội
1.2.1 Sở hữu - nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất, là nền móng của chế độ kinh tế xã
hội
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản của mỗi phương thức sản
xuất, chúng tồn tại không tách rời nhay mà tác động biện chứng với nhau, hình thành quy
luật phổ biến của toàn bộ loài người – quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Chính sự phù hợp đó là động lực
làm cho lực lượng sản xuất phát triển.Trong mối quan hệ giữa chúng, lực lượng sản xuất
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.Tuy nhiên, quan hệ sản xuất không phải là mặt hoàn
toàn thụ động, nó có tác dụng to lớn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.Trong sự tác
động đó của quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất luôn giữ vai trò quyết định nhất.
Vai trò của sở hữu được thể hiện ở những mặt cơ bản sau đây:
6
Thứ nhất, sở hữu quyết định mục đích của sản xuất và toàn bộ cơ chế điều tiết của nền
sản xuất xã hội.Nó quy định quy mô và phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong quá
trình sản xuất xã hội.Nó quyết định quan hệ lợi ích vật chất của thành viên khác nhau
trong xã hội.
Thứ hai, sở hữu là nhân tố cơ bản của quan hệ sản xuất khi nó giữ vai trò chi phối hai
mặt còn lại của quan hệ sản xuất, tức là nó quyết định đến phương thức, phương pháp của
việc tổ chức và quản lý sản xuất, nó cũng quyết định đến tính chất và hình thức phân phối
sản phẩm.
Thứ ba, chế độ sở hữu quyết định vị trí khác nhau của con người, của giai cấp và các
mối quan hệ lẫn nhau của họ trong quá trình sản xuất.Từ đó, nó quyết định các mối quan
hệ trong trao đổi và phân phối.Chế độ sở hứu còn quy định cả đặc điểm, hình thức và cơ
cấu của giai cấp, tầng lớp xã hội.
Thứ tư, sở hữu vừa là quan hệ kinh tế, vừa là quan hệ pháp lý, vì vậy nếu không có sự
biến đổi của chế độ sở hữu phù hợp thì lực lượng sản xuất khó có thể phát triển bình
thường.
Thứ năm, mỗi phương thức sản xuất được đặc trưng bởi một quan hệ sản xuất riêng,
tạo thành một chế độ kinh tế xã hội, do chế độ sở hữu quyết định.Trong mối quan hệ đó,
sở hữu là cái quyết định bản chất của chế độ kinh tế xã hội, còn quan hệ sản xuất là tiêu
chí hàng đầu để phân biệt các hình thái kinh tế xã hội.
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội của xã hội có giai cấp, sở hữu liên quan đến cơ sở
hạ tầng của xã hội như là tổng hợp các kiểu quan hệ sản xuất, các loại hình kinh tế…Cơ
sở hiện thực của sở hữu gồm 3 loại hình cơ bản:
- Loại hình sở hữu điển hình, giữ vai trò chủ đạo, nó ứng với quan hệ sản xuất thống trị.
- Loại hình sở hữu gắn với quan hệ sản xuất tàn dư.
- Loại hình sở hữu gắn với quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.
7
Do đó việc duy trì cùng một lúc nhiều loại hình sở hữu trong một hình thái kinh tế xã
hội là một tất yếu khách quan.
1.2.2 Quan hệ giữa sở hữu và lợi ích – nguồn nuôi dưỡng động lực kinh tế và tiền đề cho
lực lượng sản xuất phát triển
Trong quá trình vận động của mình, sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sở hữu và hình
thức kinh tế được nối liền qua khâu trung gian là lợi ích kinh tế.Có thể nói lợi ích kinh tế
của mỗi người, mỗi tập đoàn, mỗi giai cấp được quy định trước do mối quan hệ của nó
đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất.Lợi ích kinh tế là quan hệ sản xuất trong hành
động, đang biến thành các nhân tố kích thích hoạt động kinh tế.
Trong mối quan hệ của mình mặc dù sở hữu không phải là động lực trực tiếp, nhưng
chính quan hệ sở hữu lại quyết định bản chất, cơ cấu hệ thống lợi ích kinh tế.Vì vậy quan
hệ sở hữu luôn là nguồn gốc sâu xa của động lực kinh tế.
Nhận thức được tính phức tạp, phong phú của nội dung sở hữu và tìm cách vận dụng
chúng là đòn bẩy quan trọng, là nguồn tiềm năng to lớn mở đường thúc đẩy sản xuất, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.Bản chất của sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là góp phần giải
phóng mọi năng lực sản xuất, là phát triển lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao
đời sống nhân dân.Trong công cuộc cải cách và đổi mới hiện nay, việc nhận thức sở hữu
theo tư duy mới là vấn đề quan trọng để phát huy bản chất, vai trò động lực của sở hữu
trong chủ nghĩa xã hội.
2. Kinh tế tư nhân và các loại hình kinh tế tư nhân
2.1 Kinh tế tư nhân:
Theo cấp độ khái quát nhất: Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh
( ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước
trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư.
Theo cấp độ hẹp hơn, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân.
8
Như vây, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với các loại hình sở hữu tư
nhân.Trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh vì lợi ích trực tiếp
của cá nhân hay tập thể cá nhân hoạt động dưới các hình thức kinh tế khác nhau, dù có
thuê hay không thuê lao động.
2.2 Các loại hình kinh tế tư nhân:
Khu vực kinh tế tư nhân hiểu theo góc độ khái quát bao gồm các loại hình: kinh tế cá
thể của nông dân, thợ thủ công và tiểu thương; kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư nhân
trong kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có nguồn vốn đầu tư nước ngoài (nếu thuộc sở
hữu tư nhân)…Đại hội IX của Đảng đã tách kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thành một
loại hình kinh tế độc lập, không nằm trong khu vực kinh tế tư nhân.Hiện nay, quan niệm
phổ biến ở nước ta về kinh tế tư nhân gồm hai loại hình kinh tế:
Một là, kinh tế cá thể, tiểu chủ: bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên cơ sở sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp tư nhân,
hoạt động chủ yếu dựa vào sức lao động của chính họ. Kinh tế cá thể,tiểu chủ tồn tại độc
lập dưới hình thức xưởng thợ gia đình, công ty tư nhân nhỏ, hộ kinh doanh thương mại,
dịch vụ, hộ làm kinh tế trang trại, hoặc tham gia liên doanh, liên kết với các loại hình kinh
tế khác.
Hai là, kinh tế tư bản tư nhân: đây là loại hình kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ, có sử dụng lao động làm thuê hoạt động
một cách độc lập, trong đó chủ thể tư bản đồng thời là chủ doanh nghiệp.
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân thường được nhận thức theo cách xác
định của luật doanh nghiệp (1999) gồm có: Công ty trách nhiêm hữu hạn, doanh nghiệp tư
nhân,công ty cổ phần và công ty hợp doanh được thành lập theo luật doanh nghiệp.
II.VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA SỞ HỮU TƯ NHÂN, KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Vị trí của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
9
1.1 Lợi thế về động lực phát triển của kinh tế tư nhân trong quan hệ với khu vực nhà
nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất nào, muốn đạt hiệu quả tăng trưởng
cao đều phải thực hiện nền kinh tế thị trường.Bởi vì,với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất hiện có của thế giới thì việc theo đuổi ích thiết thân của bản thân con người vẫn
chưa thể mất đi, do đó nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế kích thích con người, đồng
thời với việc thực hiện mục tiêu xã hội.Đó chính là cơ chế thị trường, với sự tồn tại khách
quan của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó động lực cao nhất cho sự phát
triển vẫn thuộc về sở hữu tư nhân.
Bên cạnh sự phù hợp với quan hệ sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường cũng có vai trò
hết sức cần thiết và có khả năng thực hiện được trong chủ nghĩa xã hội, mặc dù ở đó chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ đạo,Trình độ lực lượng sản xuất xét đến
cùng bao giờ cũng quy định trình độ phát triển con người; khi thừa nhận kinh tế thị trường
là cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì có nghĩa là cũng phải thừa nhận
sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa xã hội.Đó chính là thừa nhận một động lực
quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa.Nhưng
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường và vận dụng nguyên tắc của bản thân nền
kinh tế thị trường sẽ rất có thể xảy ra mâu thuẫn giữa những quy định thuộc bản chất xã
hội chủ nghĩa với những mục tiêu kinh tế cần đạt được:
Thứ nhất,kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế, là sự điều hòa lợi ích và
phân bố các tài nguyên thông qua thị trường.Trong quá trình vận động nó chỉ tạo ra sự
công bằng trong quá trình cạnh tranh chứ không tạo ra sự công bằng trên kết quả phân
phối cuối cùng.
Thứ hai, thị trường đã đặt ra những vấn đề như công bằng, hiệu quả và mạnh thắng,
yếu thua thì cũng phải chấp nhận những hậu quả vận hành kinh tế thị trường là nẩy sinh
phân hóa giàu,nghèo, bất bình đẳng và thất nghiệp.
10
Đó là những mâu thuẫn mà chúng ta cần tính tới và cần nhận thức được khi thực hiện
nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội.Từ đó có biện pháp từng bước tháo gỡ, trong
đó phải tính đến động lực của kinh tế tư nhân nhằm đưa nên kinh tế xã hội chủ nghĩa có
thể phát triển bình thường và hiệu quả hơn trong nền kinh tế hiện đại.
1.2 Nhận thức lại vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế đổi mới ở chủ
nghĩa xã hội
Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, kinh tế tư nhân được coi là khu vực kinh tế đang
hàng ngày hàng giờ làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản.vì vậy, nó luôn trở thành đối tượng của
cách mạng xã hội chủ nghĩa.Ở đây, nhà nước coi việc loại bỏ kinh tế tư nhân càng nhanh,
càng triệt để bao nhiều thì càng nhanh có chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu, bất kể những đóng
góp của nó đối với nền kinh tế như thế nào.
Với những quan điểm trên đã dẫn đến việc thực hiện cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế xã
hội chưa hợp lý, cộng với nhiều ảnh hưởng khách quan, chủ quan khác nên mô hình kinh
tế kế hoạch tập trung đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.Thực tế đòi hỏi phải tiến
hành đổi mới và trong quá trình đổi mới đó,nhận thức về vị trí của các khu vực kinh tế đã
có sự thay đổi căn bản so với trước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân được coi là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân,
Kinh tế tư nhân luôn là bạn đồng hành và hoạt động bình đẳng với các khu vực kinh tế
khác, không còn là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa nữa.
Việc đổi mới nhận thức về vị trí của kinh tế tư nhân như trên chính là sự đánh giá một
cách đầy đủ, khách quan và khoa học hơn về khu vực kinh tế này.Với sự tương hợp của
mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chắc chắn khu vực kinh tế
tư nhân sẽ đóng góp xứng đáng hơn nữa cho việc tăng trưởng và tăng tiềm lực kinh tế đất
nước, và như vậy, vai trò và vị trí của kinh tế tư nhân cũng chắc chắn sẽ được tăng lên
trong thời gian mới.
1.3 Từ vị trí mới, kinh tế tư nhân đang tạo thành một đối chứng hiện thực năng động
để các khu vực kinh tế khác đối chiếu và luôn tự đổi mới,hoàn thiện.
11
Trong quá trình đổi mới chúng ta đã hình thành mô hình “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”.Dù có những mặt trái cố hữu nhưng cho tới nay và cả trong
tương lai, cơ chế thị trường vẫn tỏ ra đầy sức sống và là cơ chế ưu việt nhất, bởi kinh tế
thị trường kích thích sự phát triển trên nhiều lĩnh vực như:
- Gắn các chủ thể hành vi lại với nhau trong hệ thống phân công lao động xã hội, tạo nên
sự hiệp tác hữu cơ của nền sản xuất xã hội.
- Truyền dẫn thông tin, thông qua giá cả, thị trường cung cầu của các bên, chỉ cho người
sản xuất biết nên sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, hướng dẫn họ đưa ra những lựa chọn
“theo điều có lợi, tránh điều có hại” cho bản thân và xã hội.
- Kích thích đổi mới, thông qua sức ép của cạnh tranh, nhờ đó không ngừng đổi mới công
nghệ, quản lý, sản phẩm, nâng cao hiệu suất.
- Lựa chọn cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn, qua việc sàng lọc đào thải của cạnh tranh thị trường.
- Chính động lực cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận đã tạo nên ‘áp lực’ buộc các doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải tính toán, cân nhắc để phân bố các
nguồn lực có giới hạn theo những tỷ lệ cân đối, cần thiết nhất…
Kinh tế tư nhân rất nhạy cảm với những yếu tố đặc trưng trên, bởi sự ‘thẩm thấu’ của
chúng với hệ thống quy luật của kinh tế thị trường trong quá trình vận hành và phát
triển.Bởi vậy, kinh tế tư nhân luôn tỏ ra là khu vực kinh tế đầy sức sống, đầy năng động
và luôn trở thành đối chứng cạnh tranh hấp dẫn.Từ đó, khu vực kinh tế này luôn kích
thích và buộc kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể phải tìm cách đổi mới, hoàn thiện mình.
2.Vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.Khu vực kinh tế tư nhân góp phần khơi dậy một bộ phần quan trọng tiềm năng của
đất nước, tăng nguồn nội lực, tham gia phát triển nền kinh tế quốc dân
Tính từ năm 1999-2003 mức huy động vốn của tư nhân đầu tư vào sản xuất kinh
doanh tăng liên tục, đặc biệt kể từ khi Luật doanh nghiệp ra đời (2000),trong gần 4 năm
12
,chỉ tính riêng các loại hình doanh nghiệp tư nhân tổng vốn đầu tư của nó đặt 145.000 tỷ
đồng, gần bằng tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tín dụng nhà nước đăng
ký trong cùng thời kỳ,cao hơn vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy,có thể thấy khu vực kinh tế tư nhân đang và sẽ duy động ngày càng nhiều
nguồn vốn trong xã hội nhằm đầu tư và phát triển.Bên cạnh đó, khu vực kinh tế này còn
đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
Theo tổng cục thuế,năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân đã nộp ngân sách 11.003 tỷ
đồng, chiếm 16,1% tổng thu ngân sách.Ngoài đóng góp vào nguồn thu ngân sách,các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân còn có sự đóng góp đáng kể vào việc xây
dựng các công trình văn hóa, đường sá, cầu cống…
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển làm cho các quan hệ sở hữu của nền kinh tế nước ta
trở nên đa dạng hơn.Sự biến đổi của quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi quan hệ quản
lý và phân phối làm cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất còn thấp và phát triển không đều giữa các vùng, các ngành trong
cả nước.Nhờ vậy, phát huy được tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm của sản
xuất.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư
nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất kinh doanh đẩy lùi tình trạng độc quyền
của một số doanh nghiệp nhà nước, tăng thêm đối tác cạnh tranh thúc đẩy sự phân công
lao động xã hội.Điều đó làm sản xuất hàng hóa phát triển, thị trường mở rộng, các quy
luật kinh tế thị trường được phát huy tác dụng, đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan, bao
cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm thức xã hội.
2.2. Khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
-Kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng nhanh, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế cả nước.
13
Nhìn chung tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân là đều đặn và xấp xỉ
tốc độ tăng GDP toàn bộ nền kinh tế, trong đó riêng kinh tế tư bản tư nhân bao giờ cũng
thuộc bộ phận có tốc độ tăng trưởng cao nhất.
- Kinh tế tư nhân đã góp phần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo
hướng hiện đại.
Thứ nhất, xét về cơ cấu ngành, khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần chuyển dịch kinh
tế chung của cả nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thứ hai, về cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự biến chuyển tích cực theo hướng
phát huy ngày càng hiệu quả sự đóng góp của các loại hình kinh tế mới trong nền kinh tế
quốc dân.
2.3.Kinh tế tư nhân phát triển góp phần thu hút một bộ phần lớn lực lượng lao động và
đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động.
Năm 2000, lao động trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm 56,3% lao động có việc làm
thường xuyên trong cả nước.Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế có khả năng thu hút lao
động nhiều nhất, góp phần to lớn trong việc tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.Tốc
độ chuyển dịch cơ cấu lao động ngày càng phát triển phù hợp với trình độ phát triển
chung của đất nước.
2.4. Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường thế giới
-Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy đất nước hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể nói kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong quan hệ hợp tác này, được coi
như chiếc cầu nối trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.Nếu có chính
sách hợp lý trong việc sử dụng những nhân tố tích cực và hạn chế các yếu tố tiêu cực của
kinh tế tư nhân, sẽ tạo được sự tác động biện chứng trong thực hiện mục tiêu kinh tế xã
hội trong thời kỳ quá độ, tiến tới thiết lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa.Ngoài ra,
kinh tế tư nhân còn có mối quan hệ rộng khắp ở nước ngoài, đặc biệt ở những nước phát
triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút ‘ngoại lực’ bằng nhiều con đừơng khác
14
nhau như: đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, liên doanh, liên kết,hoặc trợ giúp kinh tế tư
nhân về vốn, kinh nghiệm, công nghệ để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc
làm trung gian trong giao lưu kinh tế.Mặt khác, với nhiều chủ thể tham gia vào thị trường
quốc tế, trong đó kinh tế tư nhân đóng vai trò đáng kể, sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh
ngay trong nội bộ kinh tế.Từ đó sẽ tạo động lực mạnh mẽ để khai thác tối ưu tiềm năng
nội sinh của nền kinh tế, đồng thời đẩy nhanh, mở rộng, giao lưu và cạnh tranh thương
mại giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, góp phần phân công lại lao
động và hợp tác quốc tế theo hướng toàn cầu hóa kinh tế.
-Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hợp tác đào tạo nguồn nhân
lực và kinh nghiệm quản lý.
Trong bối cảnh hiện nay, một trong những khiếm khuyết lớn của nền kinh tế Việt Nam
là trình độ khoa họa và công nghệ còn ở điểm xuất phát lạc hậu 50-70 năm so với thế
giới.Trong lĩnh vực này kinh tế tư nhân đã, đang và sẽ hoạt động có hiệu quả trên các
phương diện: (1) - Chủ động đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, trên cơ sở này nâng cao năng lực cạnh tranh: (2)- Lựa
chọn công nghệ nhập thích hợp để giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường.
Kinh tế tư nhân có nhiều khả năng và lợi thế về đổi mới và tham gia phát triển công
nghệ trên các lĩnh vực: chế biến thực phẩm, công nghiệp nhẹ… kể cả một số ngành công
nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…Tuy nhiên, do điểm xuất phát
thấp, kinh nghiệm và nguồn vốn chưa nhiều nên việc đổi mới và phát triển công nghệ ở
khu vực kinh tế tư nhân trong nước vẫn còn nhiều hạn chế, còn ở dạng triển vọng, tiềm
năng nhiều hơn là ở dạng thực tiễn.
-Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy thương mại Việt Nam phát triển và hội nhập nhanh
vào nên kinh tế thế giới
Nhìn chung, khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng vào việc tăng
kinh ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa.Ví dụ, năm 2001 nhập khẩu trực tiếp của khu vực
kinh tế tư nhân phi nông nghiệp đạt 3,336 tỷ $, xuất khẩu đạt 2,851 tỷ $.Một số sản phẩm
15
xuất khẩu chủ yếu nước ta hiện nay như các sản phẩm nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ…
đều do khu vực kinh tế tư nhân sản xuất; khu vực kinh tế tư nhân còn chiếm tỷ trọng đáng
kể trong xuất khẩu hàng may mặc, hàng thủy sản,…Báo cáo của Bộ Thương mại cho thấy
khu vực kinh tế tư nhân đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, quy mô xuất khẩu của nước ta còn hạn chế so với các
nước trong khu vực, nếu tính theo đầu người thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam bằng
1/5 của Thái Lan, cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu, loại hình dịch vụ thu ngoại tệ chưa
phát triển, thị trường nước ta mới có chiều rộng chưa có chiều sâu, quá trình hội nhập
kinh tế còn lúng túng chưa thành lộ trình rõ ràng, nhiều doanh nghiệp chưa chuẩn bị tích
cực cho hội nhập mà còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước…Những thực tế đó đòi
hỏi khu vực kinh tế tư nhân phải đầu tư phát triển mạnh hơn nữa vào lĩnh vực kinh tế
quan trọng này, bởi vì ở đây kinh tế tư nhân luôn có một lợi thế cao và toàn diện.
III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BIẾN ĐỘNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Trong thời kỳ này, kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo, phải xóa bỏ, do đó nó không
có cơ sở pháp lý để tồn tại.Nhưng thực tế cho thấy, kinh tế tư nhân lúc đó vẫn tồn tại và
phát triển như những mạch nước ngầm trong lòng đất, không bao giờ cạn và nó thực sự đã
có những đóng góp quan trọng về hàng hóa cho sản xuất và cho tiêu dùng.
- Trong nông nghiệp:
Các hộ nông dân đã vào hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất nhưng đó chỉ là hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất mang tính hình thức.Thực chất họ vẫn làm ăn cá thể.Thực trạng này là
khá phổ biến.Kinh tế phụ gia đình đã đem lại cho các hộ nông dân hơn 70% thu nhập.
- Trong các ngành sản xuất phi nông nghiệp:
Kinh tế tư nhân cũng không mất đi vì nhu cầu các loại hàng hóa, dịch vụ xã hội rất cần
mà khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể không thỏa mãn được.Bởi vậy, kinh tế tư
nhân ở đây vẫn còn nhu cầu khách quan để tồn tại và phát triển cho dù trình độ sản xuất
16
hàng hóa còn rất sơ khai và phải tự điều chỉnh về hình thức tổ chức, quy mô và phương
thức hoạt động trong môi trường không được pháp luật thừa nhận.
Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh các ngành nghề phi nông nghiệp chủ yếu là hộ
cá thể, các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, các hợp tác xã hình thức, các tổ hợp núp bóng
quốc doanh.Hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân thời kỳ này gặp không ít
khó khăn.Họ không được cung ứng các yếu tố của sản xuất: nguyên liệu, vốn…từ hệ
thống cung ứng của Nhà nước.Để khắc phục khó khăn, họ phải tự điều chỉnh và hình
thành cho mình một hệ thống thị trường mà lúc đó được gọi là ‘thị trường tự do’ hay ‘thị
trường chợ đen’ đối lập với thị trường Nhà nước.Đối tượng giao dịch của ‘thị trường tự
do’ là các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân.Quan hệ giao dịch dựa trên cơ sở gía cả thị
trường ‘thuận mua vừa bán’.Các luồng luân chuyển hàng hóa tiền tệ song song tồn tại với
hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước. Mặc dù phải hoạt động trong môi trường
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, không có những điều kiện cơ bản để
tồn tại, nhưng kinh tế tư nhân trong nước đã vượt qua cơn lốc của giai đoạn ‘cải tạo xã hội
chủ nghĩa’ để tồn tại , phát triển đáp ứng được một phần quan trọng sản phẩm cho nhu
cầu của xã hội.
2.Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay
2.1.Các giai đoạn phát triển
2.1.1 Từ năm 1986-1990:
Nhà nước bắt đầu soạn thảo và ban hành một số đạo luật cho sở hữu tư nhân, kinh tế
tư nhân phát triển.Tuy nhiên, trong giai đoạn này, do hậu quả của những sai lầm cũ chưa
được khắc phục, chúng ta lại gặp phải những khó khăn mới do những khiếm khuyết mới
nảy sinh trong những năm đầu đổi mới: giá, tiền lương, vỡ tín dụng…Trong bối cảnh như
vậy, sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân của nước ta trong giai đoạn này chỉ mới được bắt đầu
tái lập, còn phát triển thì chưa mạnh, chưa rõ nét.
2.1.2 Từ năm 1991-1999
17
Đây là giai đoạn Luật Cty và luật doanh nghiệp phát huy tác dụng, vì thế sở hữu tư
nhân, kinh tế tư nhân phát triển khá mạnh.
Trong nông nghiệp, có 37,3% hộ tham gia các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và 62,7%
hộ sản xuất cá thể có tham gia các hình thức tổ kinh tế hợp tác giản đơn.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh,các ngành nghề phi nông nghiệp có 2.137.713 hộ
sản xuất kinh doanh cá thể,tăng 6,02% so với năm 1996.Năm 1991 cả nước mới có 414
doanh nghiệp được thành lập đến năm 1999 tăng lên 33.521 doanh nghiệp.
2.1.3 Từ năm 2000 đến nay
Đây là giai đoạn luật doanh nghiệp ra đời tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân, kinh tế tư
nhân phát trỉên mạnh hơn so với giai đoạn 1991-1999.Tính từ ngày 1-1-2000 đến đầu
tháng 9-2003,cả nước có khoảng 2,5 triệu hộ sản xuất, kinh doanh các ngành nghề phi
nông nghiệp và đã thành lập thêm 72.601 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân,
đưa số doanh nghiệp lên 120.000 cơ sở và gấp hơn ba lần số doanh nghiệp có đến cuối
năm 1999.
2.2.Một số đặc điểm về động thái phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta trong quá trình
chuyển đổi cơ chế kinh tế từ năm 1986 đến nay
2.2.1 Kinh tế tư nhân phát triển đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh
Nếu tiếp cận dưới góc độ loại hình kinh tế thì khu vực kinh tế tư nhân theo nghĩa rộng
của nước ra hiện nay có các hình thức sở hữu và tương ứng với các hình thức sở hữu là:sở
hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, tương ứng với thành phần kinh tế cá thể, tỉêu chủ: sở hữu tư
bản tư nhân trong nước, tương ứng với loại hình kinh tế tư bản tư nhân; sở hữu tư bản tư
nhân của người nước ngoài, tương ứng với loại hình kinh tế có 100% vốn của nước
ngoài.Ngoài ra, còn có hình thức sở hữu hỗn hợp, tương ứng với loại hình kinh tế tư bản
nhà nước.
Nếu tiếp cận dưới góc độ hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế tư
nhân của nước ta hiện nay có các hình thức:
18
- Trong nông, lâm, ngư nghiệp là: Kinh tế hộ nông dân độc lập tự chủ, hộ sản xuất nông
lâm ngư nghiệp cá thể, kinh tế trang trại
- Trong các ngành nghề phi nông nghiệp có các hình thức: Hộ sản xuất kinh doanh dịch
vụ cá thể,9-2003 cả nước có 2,5 triệu hộ; Loại hình doanh nghiệp tư nhân, theo thống kế
đến 9-2003 cả nước có 40.800 doanh nghiệp, chiếm 34% doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân; Cty TNHH, có 67.200 cty, chiếm 56% doanh nghiệp khu vực kinh tế tư
nhân; Cty cổ phần, đến 9-2003 có 7000 cty, chiên 10% doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế tư nhân.
2.2.2 Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân phát triển đa dạng,
trong đó kinh doanh thương mại dịch vụ là lĩnh vực có nhiều chủ thể tham gia nhất
Hoạt động thương mại dịch vụ của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay đã chiếm tỷ trọng
cao trong một số ngành kinh doanh như: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng…Thương
mại dịch vụ tư nhân thực sự đã trở thành đối tác cạnh tranh và thay thế hoạt động thương
mại quốc tế và hợp tác xã trên lĩnh vực bán lẻ hàng hóa.Sở dĩ có tình hình trên là do:
Kinh tế tư nhân mới được tái lập và phát triển nên các chủ thể kinh doanh thường chọn
lĩnh vực thương mại dịch vụ để đầu tư, vì lĩnh vực này không đòi hỏi nhiều vốn, vòng
luân chuyển vốn nhanh…
Một khía cạnh của nhà đầu tư trong nước vẫn còn giữ thế thủ, chỉ muốn đầu tư vào
lĩnh vực có thể ‘đánh nhanh thắng nhanh’, ‘rút gọn, rút lẹ’ khi có tình huống bất lợi xảy
ra.
Mặt khác do chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực sản xuất
công, nông nghiệp chưa đủ mức kích thích so với lĩnh vực thương mại dịch vụ dù không
được kích thích nhiều mà vẫn thu được lợi nhuận cao.
2.2.3 Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đang có sự biến động
theo hướng xã hội hóa sản xuất trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Từ năm 2000 trở lại đây, tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân đang giảm xuống, từ 72%
năm 1998 xuống còn 34% năm 2003.Trong khi đó cty TNHH có chiều hướng tăng lên, từ
19
27% năm 1998 lên 56% năm 2003.Số cty cổ phần tăng lên rõ rệt từ chưa đầy 1 % năm
1998 lên 10% năm 2003.Sự biến động nói trên chứng tỏ các nhà đầu tư trong nước đã ý
thức được những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp; có xu hướng lựa
chọn các loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể ổn định, phát
triển không hạn chế về quy mô và thời gian họat động. Điều này trước hết là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất đã được nâng lên thông qua quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đã thúc đẩy quan hệ sản xuất biến đổi theo hướng xã hội hóa ngày một
cao hơn, nên loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu ra đời ngày càng nhiều.Đây là xu
hướng biến động phù hợp với quy luật khách quan trong tiến trình phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2.4Hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực
Trong lĩnh vực sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp chủ yếu là kinh tế hộ, trong đó có một
số đã tích tụ phát triển thành kinh tế trang trại, nhưng hơn 97% vẫn là trang trại gia đình.
Trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp số hộ kinh doanh cá thể có
2,5 triệu hộ trong khi đó các loại hình doanh nghiệp chỉ có 120.000 đơn vị, trong đó có
hơn 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thực trạng trên phản ánh đúng trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta hiện
nay, đồng thời cho thấy các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân không chỉ hiện tại mà còn lâu dài trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.2.5 Kinh tế tư nhân phát triển không đều giữa các vùng, các địa phương trong cả nước
- Trong nông nghiệp: Kinh tế hộ giữa các vùng trong cả nước có sự khác nhau về quy mô
và tính chất sản xuất hàng hóa.Ở các vùng núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Khu IV
cũ, Duyên hải miền Trung vẫn chưa thóat khỏi tình trạng tự cung tự cấp.Trong khi đó ở
Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long tính chất sản xuất nông
nghiệp hàng hóa đã có sự phát triển rõ hơn, nhưng nhìn chung vẫn ở trình độ thấp.Sự hình
thành kinh tế trang trại trong nông nghiệp là một bước tiến nhưng quy mô, phương hướng
20
sản xuất kinh doanh, mức độ sản xuất hàng hóa của kinh tế trang tại trong cả nước cũng
rất đa dạng.
- Trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, sự phát triển kinh tế tư
nhân cũng không đều giữa các địa phương,các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân chủ yếu tập trung ở miền Nam,chiếm 75% , miền Bắc chiếm 17%, các tỉnh miền
Trung chiếm 8,3%.
2.2.6 Lực lượng xã hội tham gia làm kinh tế tư nhân là đông đảo các tầng lớp nhân dân
- Trong sản xuất nông- lâm – ngư nghiệp, đó là hơn 11 triệu hộ với gần 60 triệu nông dân
tham gia,bình quân mỗi hộ gần 0,5 ha đất đai và 2 lao động.
- Trong các ngành nghề phi nông nghiệp: tham gia làm kinh tế tư nhân là các người thợ
thủ công, buôn bán nhỏ, cán bộ công nhân viên chức nhà nước.
2.3. Những tác động tích cực của kinh tế tư nhân
2.3.1 Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ về chiều
rộng và hoàn thiện về tổ chức sản xuất kinh doanh
Khu vực kinh tế tư nhân gồm nhiều loại hình kinh tế phát triển đa dạng và phong
phú.Nó có thể thích ứng với mọi ngành nghề, mọi địa bàn và bản thân nó cũng tạo ra
nhiều ngành nghề mới, hoạt động trên các lĩnh vực, ở các cấp độ khác nhau, đáp ứng mọi
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và của thị trường góp phần khắc phục sự đơn điệu
về chủng loại, kiểu dáng, khan hiếm hàng hóa trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Nhưng bên cạnh đó khu vực kinh tế này lại mang tính tự phát cao, dễ dẫn đến khủng
hoảng kinh tế và phân hóa xã hội khá sâu sắc.Vì vậy,cần điều chỉnh hài hòa khu vực kinh
tế nhà nước và kinh tế tư nhân để đảm bảo nền kinh tế phát triển lành mạnh, bền vững,
tăng cường ổn định về mặt xã hội.
2.3.2 Kinh tế tư nhân tác động tích cực, tạo điều kiện để kinh tế nước ta phát triển theo
chiều sâu theo hướng công nghiệphóa, hiện đại hóa
21
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp
mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành,lĩnh vực và tòan bộ nền kinh
tế theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.Về mặt này có thể nói kinh tế tư nhân có
khả năng đáp ứng rất nhanh và hiệu quả.Kinh tế tư nhân đang tích cực tham gia vào quá
trình từng bước phát triển các ngành công nghệ mũi nhọn,hiện đại cho đất nước,nó cũng
là đối tác tích cực trong việc tham gia hội nhập kinh tế thế giới về khoa học công nghệ.
Thứ hai,vấn đề bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người với tư cách là mục tiêu và
động lực của sự phát triển.Trong phát triển kinh tế hiện đại, chất lượng của người lao
động là nhân tố quyết định, là nhân tố nội sinh không có gì có thể thay thế.Về vấn đề này,
sở hữu tư nhân cũng có sự tác động hết sức hiệu quả.Bởi việc phát triển nhân tố con
người suy cho cùng trước hết vẫn là phát huy động lực của sở hữu tư nhân của mỗi cá
nhân con ngừoi cụ thể, sau đó mới đến động lực tập thể.
2.3.3 Kinh tế tư nhân có sự đóng góp toàn diện và hiệu quả trên các lĩnh vực
Kinh tế tư nhân tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, qua đó làm tăng thu nhập,
cải thiện đời sống, góp phần thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn của các tầng lớp nhân
dân cho đầu tư phát triển
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo hương tiến
bộ, đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước,góp phần mở rộng thị
trường, thu hút nguồn vốn đầu tư nứơc ngoài tại Việt Nam, góp phần xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp, thúc đẩy lực lựợng sản xuất phát triển và mở rộng dân chủ chủ nghĩa xã
hội.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
1. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều hiện để huy động mọi nguồn lực của
dân cư vào đầu tư phát triển, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh doanh
Trong những năm qua, chúng ta đã có những tiến bộ trong việc tạo lập môi trường
kinh doanh thích hợp với kinh tế tư nhân.Tuy nhiên, do kinh tế tư nhân mới tới lập và
22
phát triển nên luôn luôn đặt ra những yêu cầu mới mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng
‘xin- cho’ thời bao cấp, nên cơ chế hiện tại chưa đủ thông thoáng, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợ cho kinh tế tư nhân phát triển.Vì vậy, trong thời gian tới, phải tiếp tục
hoàn thiện môi trường kinh doanh, hướng vào những vấn đề chủ yếu sau:
1.1 Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý
Để điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân, mà trước hết là
khuyến khích, ủng hộ những nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân, Nhà nước phải tạo môi
trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân, xây
dựng một hành lang pháp lý đúng đắn, thông thoáng thuận lợi cho mọi tầng lớp dân cư có
điều kiện để yên tâm đầu tư kinh doanh mọi lĩnh vực mà Nhà nước không cấm, đồng thời
bảo đảm cho kinh tế tư nhân vận động phù hợp với định hướng phát triển của đất nước,
ngăn ngừa những hoạt động tiêu cực vượt qua khỏi những khuôn khổ của những giới hạn
hợp pháp.Tuy vậy, việc xây dựng môi trường pháp lý cho sự phát triển của kinh tế tư
nhân còn bộc lộ nhiều hạn chế.Do vậy, việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh tế tư
nhân cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Tiếp tục hoàn thiện Luật doanh nghiệp
- Xúc tiến việc xây dựng các luật về kinh doanh cá thể và nhóm kinh doanh cá thể trong
công nghiệp, thương mại và dịch vụ các loại
- Việc tạo lập hành lang pháp lý phải rõ ràng, quy định rõ những việc mà tư nhân được
làm và không được làm
1.2 Hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô, bảo đảm cho kinh tế tư nhân phát triển ổn
định và bền vững
- Nâng cao chất lượng các quy hoạch và kế hoạch, hạn chế đến mức tối thiểu những điều
chỉnh, thay đổi khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân
- Giữ vững sự ổn định về tài chính tiền tệ, giá cả.Có những dự báo về những biến động
trên lĩnh vực này và phương án xử lý những ảnh hưởng xấu có thể phát sinh, tạo điều kiện
cho khu vực kinh tế tư nhân tham gia tích cực bào thị trường tài chính tiền tệ…
23
- Trên cơ sở ban hanh luật chống độc quyền, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng,
lành mạnh.Kiểm soát chặt chẽ giá cả của một số mặt hàng có tính chất đọc quyền để
không gây những biến động đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp, thủ tiêu hoặc hạn chế năng
lực cạnh tranh của sản phẩm do kinh tế tư nhân sản xuất ra
- Nghiên cứu chế độ thuế hợp lý với những sắc thuế thống nhất cho mọi cơ sở kinh doanh
1.3 Tiếp tục ổn định môi trường chính trị- xã hội trong nước, tạo môi trường quốc tế
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh
- Xóa bỏ những thiên kiến về giai cấp, giai tầng, tạo môi trường tâm lý thuận lợi cho kinh
doanh
- Tăng cường an ninh chính trị, xã hội, đặc biệt coi trọng an ninh kinh tế, hạn chế đến
mức thấp nhất những tai nạn gây tổn thất lớn về kinh tế
- Tạo điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân có thể tiếp cận một cách thuận lợi môi trường
quốc tế để tìm kiếm cơ hội và các điều kiện kinh doanh
Tóm lại, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi là điều kiện tiên quyết để huy động
mọi nguồn lực trong dân cư phát triển khu vực kinh tế tư nhân
2. Đổi mới quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một khu vực kinh tế do tư nhân tự bỏ vốn đầu tư để sản xuất kinh
doanh và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.Nhà
nước không thể áp đặt quan hệ quản lý trực tiếp mà chỉ có thể tác động bằng định hướng
và các đòn bẩy kinh tế.
2.1 Đổi mới quan niệm về quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Nhà nước chỉ nên giới hạn sự quản lý ở những nội dung:
- Định hướng cho kinh tế tư nhân phát triển bằng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát
triển và bằng các đòn bẩy kinh tế
- Xây dựng hành lang pháp lý thích hợp cho kinh tế tư nhân tự do hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật
24
- Điều tiết các hoạt động của kinh tế tư nhân khi nó vượt ra khỏi khuôn khổ pháp luật
Với những quan niệm như vậy, Nhà nước không cần và cũng không thể quan thiệp
quá sâu vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.
2.2 Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực thực thi của pháp luật trong quản lý kinh tế tư
nhân
- Do khu vực kinh tế tư nhân bao gồm nhiều loại doanh nghiệp thuộc nhiều ngành khác
nhau, nên ngoài việc xây dựng một hệ thống luật chung cần sớm xây dựng một mặt bằng
pháp luật cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, để cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động
trên lĩnh vực nào đều bị điều chỉnh bởi những điều luật chung, đảm bảo dân chủ, bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử
- Kịp thời phát hiện và điều chỉnh những vấn đề phát sinh trong qúa trình thi hành luật,
bao gồm cả việc sửa đổi luật và tổ chức thực hiện luật
2.3 Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, làm công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu
lực đối với kinh tế tư nhân
- Đổi mới hoạt động của hệ thống tài chính Nhà nước
- Đổi mới hoạt động của các tổ chức tín dụng để tiếp sức cho kinh tế tư nhân mở rộng sản
xuất kinh doanh hoặc đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới
- Các tổ chức kinh tế của Nhà nước có thể bảo lãnh cho doanh nghiệp tư nhân trong các
hoạt động kinh tế quốc tế
3. Thực hiện thường xuyên việc giao lưu đối thoại giữa cơ quan nhà nước, các ngành
liên quan với các doanh nghiệp tư nhân để tháo gỡ những vướng mắc trong sản xuất
kinh doanh
- Định chế hóa về mặt pháp lý việc đối thoại trao đổi giữa doanh nhân và các cơ quan
quản lý của Nhà nước
25
- Nâng cao chất lượng đối thoại và xử lý tốt các vấn đề đặt ra để cuộc đối thoại đạt hiệu
quả thì cần phải có sự hướng dẫn của các cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp về các
vấn đề cơ bản và phổ biến nhất đang vướng mắc, cản trở hoạt động của doanh nghiệp
4.Giải pháp về phát triển các loại hình kinh tế tư nhân
Đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn
- Đối với kinh tế hộ:khuyến khích nông hộ tích tụ ruộng đất để phát triển thành kinh tế
trang trại và được coi như là loại hình kinh tế phổ biến trong nông nghiệp
- Đối với kinh tế trang trại: kinh tế trang trại phải được coi là loại hình kinh tế tư nhân cơ
bản trong nông nghiệp, là cơ sở để hình thành và phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hóa
lớn trong nông nghiệp
-Khuyến khích phát triển công nghệp chế biến, sơ chế nông lân hải sản, nâng cao gí trị
hàng hóa và liên kết với các doanh nghiệp có chức năng để tiêu thụ và xuất khẩu các hàng
hóa đó
- Đối với dịch vụ nông thôn phần lớn cũng do kinh tế tư nhân đảm nhân, cần phát triển
mạnh các lĩnh vực: giống cây trồng vật nuôi.
- Đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ
Khuyến khích mở rộng quy mô hoạt động, tận dụng mọi trình độ công nghệ.Thực hiện
liên kết với các thành phần kinh tế khác trong quá trình tích tụ, nếu hội tụ điều kiện cần
thiếtcó thể phát triển thành các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hoặc vừa hoặc hợp vốn
thành cty TNHH và tiếp tục tìm cơ hội tích tụ cao hơn
4.3 Đối với loại hình doanh nghiệp vừa và lớn (tư bản tư nhân)
Khuyến khích đầu tư vào các ngành quan trọng có trình độ công nghệ hiện đại.Mở
rộng các hình thức liên doanh liên kết với nước ngoài.Hướng các loại hình doanh nghiệp
này hình thành các cty cổ phần có quy mô lớn với trình độ công nghệ cao
5.Giải pháp hạn chế tiêu cực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế
tư nhân