Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA ĐẦU NĂM 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.13 KB, 32 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
Đề tài:
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA ĐẦU NĂM 2014
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Lớp HP : 210707101
Sinh viên thực hiện : Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng
MSSV : 11065151 (DHQT7B)
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 06 năm 2014
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

CHUYÊN ĐỀ MÔN HỌC
Đề tài:
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA ĐẦU NĂM 2014
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Lớp HP : 210707101
Sinh viên thực hiện : Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng
MSSV : 11065151 (DHQT7B)
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 06 năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tiểu luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến:
• Ban Giám Hiệu trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh vì đã tạo điều
kiện về cơ sở vật chất với hệ thống thư viện hiện đại, đa dạng các loại sách thuận lợi
cho việc tìm kiếm thông tin.


• Giảng viên bộ môn, thầy Nguyễn Hữu Khoa đã giảng dạy tận tình, chi tiết để tôi có
đủ kiến thức để vận dụng chúng trong báo cáo này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài nên không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế, rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía Thầy cô để đề tài này được hoàn thiện
hơn.
Xin cảm ơn quý Thầy cô
Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
MỤC LỤC
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 5
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 6
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
GIẢI THÍCH TỪ NGỮ
Chữ viết
tắt
Nội dung
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU Liên minh Châu Âu
GDP Tổng thu nhập quốc nội
HACCP Hệ thống phân tích mối nguy và kiểm soát điểm tới hạn
NK Nhập khẩu
QTKD Quản trị kinh doanh
USD Đơn vị tiền tệ đôla Mĩ
VASEP Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 7

Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Xuất nhập khẩu là một trong những ngành mũi nhọn của nước ta trong giao thương với
quốc tế, đem lại lợi nhuận lớn hàng năm. Hiện nay Việt Nam đã mở rộng được quan hệ với
rất nhiều đối tác như Anh, Mỹ, Nhật Bản… Các mặt hàng chủ lực như như lúa gạo, thủy
sản, cà phê… vẫn được ưa chuộng cộng với sự gia tăng về số lượng của các mặt hàng điện
thoại và các loại linh kiện, phương tiện vận tải trong những năm gần đây cho thấy sự tăng
trưởng tốt trong ngành.
Ngành thủy sản trong những năm gần đây (2013 - 2014) cũng có những tăng trưởng rõ rệt.
Tuy nhiên vấn đề Biển Đông trong vài tháng trở lại đây rất có thể sẽ ảnh hưởng tới sản
lượng ngành trong thời gian tới. Báo cáo sơ bộ tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của
Việt Nam trong nửa đầu năm 2014 của Tổng cục thống kê cho thấy kim ngạch xuất khẩu
của ngành đạt 2.537 triệu USD, tăng 601 triệu USD, tương đương 31,1 % so với cùng kỳ
năm ngoái cho thấy vẫn có sự tăng trưởng tốt của thủy sản.
Hiện nay, đẩy mạnh xuất nhập khẩu đang là lối đi chính của nước ta trong những năm gần
đây. Tuy nhiên để đảm bảo giữa tăng trưởng và bền vững của ngành thì thật sự còn khá
nhiều khó khăn, bất cập. Vì lẽ đó tôi chọn ngành thủy sản và môn học xuất nhập khẩu trong
đề tài “Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn nửa đầu năm 2014” với hy vọng sẽ
phần nào làm rõ những vấn đề trên.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục đích của việc thực hiện đề tài này, trước hết là để hiểu rõ hơn về nội dung môn học,
giúp tôi có điều kiện thực tế để vận dụng chúng một cách có hiệu quả, phân tích được tình
hình hiện nay của ngành thủy sản Việt và đề xuất những giải pháp hợp lí.
Những mục tiêu mà tôi mong muốn đạt được:
• Mục tiêu 1: Hoàn thành chuyên đề mang tính thực tế, phản ánh đúng thực trạng
nghiên cứu.
• Mục tiêu 2: Vận dụng những kiến thức của môn Quản trị Xuất nhập khẩu đã được
giảng dạy để nghiên cứu và tìm hiểu tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
• Mục tiêu 3: Đưa ra những kiến nghị và đề xuất về các vấn đề gặp phải trong quá

trình chế biến và xuất khẩu thủy sản trong giai đoạn gần đây.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 8
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề này là những thuận lợi và khó khăn trong quá trình
xuất khẩu thủy sản của Việt Nam hiện nay, giai đoạn nửa đầu năm 2014.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Thực trạng ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam, những thuận lợi và mặt khó khăn gặp phải trong quy
trình xuất khẩu hàng ra nước ngoài.
- Thời gian: giai đoạn nửa đầu năm 2014.
- Nội dung nghiên cứu: Xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để xây dựng một đề tài chặt chẽ, có tính logic, dựa trên cơ sở lý luận chắc chắn và
mang tính thực tế cao, tôi đã sử dụng các phương pháp sau đây để nghiên cứu:
- Dùng Internet là phương tiện chủ đạo để tìm kiếm số liệu, thông tin và trích nguồn dẫn chứng cho
nội dung vì đây là nguồn tài liệu dễ tìm kiếm và đa dạng nhất.
- Dùng các loại sách về xuất nhập khẩu, bài giảng mình đã từng học để tìm kiếm thêm thông tin và số
liệu vì giáo trình là tài liệu chuẩn để tra cứu và tìm hiểu về thông tin.
- Dùng phương pháp suy luận trực tiếp và trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp.
- Nhờ ý kiến tư vấn của quý chuyên gia, quý thầy cô trong trường Đại học Công Nghiệp TP Hồ Chí
Minh vì các thầy cô có nhiều kinh nghiệm và kĩ năng cao có thể hướng dẫn làm báo cáo tốt, không đi
sai hướng.
KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận
CHƯƠNG 2. Thực trạng và giải pháp tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam giai đoạn nửa
đầu năm 2014
CHƯƠNG 3. Nhận xét và đánh giá môn học
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 9
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 TỔNG QUAN VỀ MÔN HỌC QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU
1.1.1 Ý nghĩa của môn học quản trị xuất nhập khẩu
Xuất nhập khẩu là hoạt động mũi nhọn của quốc gia, giúp khai thác hiệu quả lợi thế của đất
nước, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Nó còn giúp thúc đẩy phát triển quan hệ
đối ngoại với nhiều nước, giúp chuyển giao vốn và công nghệ vào trong quốc gia, phát triển
trình độ sản xuất cả doanh nghiệp và lao động, tạo ra việc làm, kinh nghiệm… Và còn nhiều
lợi ích khác. Đất nước muốn phát triển phải mở rộng ngoại thương, giao dịch xuyên biên
giới. Công cụ để thực hiện điều đó chính là xuất nhập khẩu.
Vì những vai trò to lớn trên cho thấy việc nghiên cứu và vận dụng môn học Quản trị xuất
nhập khẩu vào thực tiễn là hết sức cần thiết, cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng của bộ
môn. Chính vì vậy, tất cả các nhà quản trị đều phải nghiên cứu quản trị xuất nhập khẩu. Đây
là một môn học mà không thể thiếu trong các trường kinh tế, quản trị kinh doanh trong
nhiều nước trên thế giới.
1.1.2 Mục đích môn học
- Nghiên cứu chủ yếu vào các quy trình, thủ tục, những quy ước riêng trong hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu bao gồm những điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms), thanh toán quốc tế trong
hoạt động xuất nhập khẩu, chứng từ xuất nhập khẩu. Và các vấn đề liên quan đến việc đàm phán, ký
kết và thực hiện các hợp đồng ngoại thương.
- Giúp sinh viên có cái nhìn toàn cảnh về hoạt động xuất nhập khẩu đang diễn ra trong thực tế nhằm
có kế hoạch xây dựng, tổ chức và triển khai các hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu trong tương
lai.
1.1.3 Nội dung môn học
Nội dung chính của môn học dưới sự giảng dạy của thầy Nguyễn Hữu Khoa được truyền
tải qua 6 chương:
Chương 1: Các phương thức giao dịch trên thị trường thế giới
Chương 2: Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms)
Chương 3: Thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu
Chương 4: Chứng từ xuất nhập khẩu

Chương 5: Hợp đồng ngoại thương
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 10
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Chương 6: Chuẩn bị giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương
Sau đây là phần tóm tắt nội dung cụ thể nội dung môn quản trị xuất nhập khẩu qua tùng
chương:
Chương 1: Các phương thức giao dịch trên thị trường thế giới
Giới thiệu về các phương thức giao dịch hiện có và phổ biến trên thị trường thế giới. Thứ tự
được sắp xếp theo mức độ phổ biến giảm dần. Bao gồm chín phương thức giao dịch:
• Giao dịch thông thường
• Giao dịch qua trung gian
• Buôn bán đối lưu
• Gia công quốc tế
• Giao dịch tái xuất khẩu
• Đấu giá – đấu thầu quốc tế
• Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá
• Giao dịch tại hội chợ và triển lãm quốc tế
• Giao dịch nhượng quyền thương hiệu
Nội dung chương cho thấy mức độ đa dạng của các phương thức giao dịch. Mỗi phương
thức có ưu và nhược điểm riêng. Doanh nghiệp nên tính toán lựa chọn phương án phù hợp
nhất đảm bảo lợi nhuận cho mình.
Chương 2: Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms)
Incoterms là bộ qui tắc do Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) phát hành để giải thích các
điều kiện thương mại quốc tế. Doanh nghiệp cần phải nắm vững Incoterms để đàm phán, ký
kết và tổ chức thực hiện tốt các hợp đồng xuất nhập khẩu.
Chức năng chính của Incoterms là nhằm cung cấp một bộ qui tắc quốc tế để giải thích
những điều kiện thương mại thông dụng nhất trong ngoại thương, làm rõ sự phân chia
trách nhiệm, chi phí và rủi ro trong quá trình chuyển hàng từ người bán đến người
mua.
Incoterms được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1936, cho đến nay đã được sửa đổi, bổ sung

bảy lần, Incoterms sau thì hoàn thiện hơn Incoterms trước. Phổ biến nhất là Incoterms 2000
và 2010. Incoterms không phải là luật nên muốn áp dụng thì phải ghi rõ trong hợp đồng và
ghi rõ Incoterms năm nào.
Incoterms 2010 có 11 điều kiện, được phân chia thành 2 nhóm: 1) Áp dụng cho mọi phương
thức vận tải (EXW, FCA, CPT, CIP, DAT, DAP, DDP); 2) Áp dụng cho vận tải đường biển
và đường thủy nội địa (FAS, FOB, CFR, CIF).
Cần nghiên cứu kĩ Incoterms để lựa chọn, vận dụng thích hợp cho tình hình doanh nghiệp,
đem lại hiệu quả cao.
Chương 3: Thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 11
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Phương thức thanh toán quốc tế là điều kiện quan trọng bậc nhất trong các điều kiện thanh
toán quốc tế cũng như trong hoạt động kinh doanh ngoại thương. Doanh nghiệp cần nắm
vững các phương thức này để vận dụng tốt trong mua bán quốc tế. Các phương thức thanh
toán chủ yếu:
Trả tiền mặt (In Cash): Người mua thanh toán tiền mặt cho người bán khi người bán giao
hàng hoặc chấp nhận đơn hàng của người mua.
Phương thức ghi sổ hay phương thức mở tài khoản (Open account): Người bán mở một tài
khoản hoặc một quyển sổ để ghi nợ cho người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao
hàng hay dịch vụ, định kỳ người mua trả tiền cho người bán.
Thanh toán trong buôn bán đối lưu (Counter Trade): là hoạt động trao đổi hàng hoá trực
tiếp trong thương mại quốc tế.
Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment): là phương thức thanh toán trong
đó người bán khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho người mua
sẽ tiến hành ủy thác cho ngân hàng của mình thu nợ số tiền ở người mua nhờ thu.
Phương thức chuyển tiền (Remittance): là phương thức mà trong đó khách hàng yêu cầu
ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác ở một địa điểm nhất
định bằng phương tiện vận chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
Phương thức giao chứng từ trả tiền (Cash Against Documents – CAD): là phương thức
thanh toán trong đó nhà nhập khẩu yêu cầu ngân hàng mở tài khoản tín thác (Trust Account)

để thanh toán cho nhà xuất khẩu, khi nhà xuất khẩu trình đầy đủ những chứng từ theo yêu
cầu. Nhà xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng sẽ trình bộ chứng từ cho ngân
hàng để nhận tiền thanh toán.
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (letter of credit - L/C): Thanh toán bằng thư tín
dụng là một sự thỏa thuận mà trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở tín dụng) sẽ trả một
số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp
nhận hối phiếu do người này ký phát sinh trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình
cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quyết định để nhập khẩu
trong thư tín dụng.
Chương 4: Chứng từ xuất nhập khẩu
Bao gồm chứng từ tài chính (hối phiếu, lệnh phiếu) và chứng từ thương mại (chứng từ hàng
hóa, chứng từ vận tải, chứng từ Bảo hiểm).
Xuất nhập khẩu làm việc chủ yếu với hàng hóa hữu hình nên loại chứng từ chủ yếu là chứng
từ hàng hóa, bao gồm:
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 12
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
- Hóa đơn thương mại (Commercial Invoice),
- Giấy chứng nhận xuất xứ (Cerfiticate of Origin),
- Phiếu đóng gói (Packing List),
- Giấy chứng nhận số lượng, trọng lượng, phẩm chất (Certificate of Weight, Quantity and Quality),
- Giấy chứng nhận vệ sinh, kiểm dịch động vật, thực vật (Sanitary, Phytosanitory and Veterinary
Certificate),
- Các chứng từ khác….
Lập và kiểm tra bộ chứng từ là một công việc quan trọng của nhà nhập khẩu. Nếu biết cách
kiểm tra được bộ chứng từ sẽ giảm rủi ro được trong thanh toán. Trong từng trường hợp cần
phải nghiên cứu kĩ về chứng từ mình sẽ sử dụng để có thể tăng tốc quy trình xuất nhập
khẩu.
Chương 5: Hợp đồng ngoại thương
Hợp đồng có vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động cuộc sống kể cả xuất nhập khẩu.
Hợp đồng ngoại thương là sự thỏa thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các

nước khác nhau, theo đó một bên gọi là Bên xuất khẩu (Bên Bán) có nghĩa vụ chuyển vào
quyền sở hữu của một bên khác gọi là Bên nhập khẩu (Bên Mua) một tài sản nhất định gọi
là hàng hóa; Bên Mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng xuất nhập khẩu là: Tên hàng; Chất lượng; Số lượng;
Giao hàng; Giá cả; Thanh toán. Ngoài ra trong hợp đồng còn có các điều kiện và điều khoản
khác như: Bao bì và kí mã hiệu; Bảo hành; Phạt; Bảo hiểm; Bất khả kháng; Khiếu nại;
Trọng tài…
Hợp đồng xem như bản cam kết quyết định quyền lợi, nghĩa vụ cũng như rủi ro của hai bên.
Bất cứ điểm sơ hở nào cũng dễ dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp. Cho nên phải hết sức
cẩn thận khi ký kết hợp đồng.
Chương 6: Chuẩn bị giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương
Quá trình đàm phán hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm nhiều giai đoạn: Chuẩn bị; Tiếp xúc;
Đàm phán; Kết thúc – Ký kết hợp đồng; Rút kinh nghiệm. Mỗi giai đoạn đều có vị trí và
tầm quan trọng riêng. Muốn đàm phán thành công cần chuẩn bị kĩ càng áp dụng kĩ thuật
thích hợp trong từng giai đoạn đàm phán. Trong quá trình đàm phán cần giữ vững các
nguyên tắc sau:
• Tách con người ra khỏi vấn đề đàm phán, làm việc một cách khoa học.
• Luôn tập trung vào lợi ích đôi bên và cố gắng mở rộng lợi ích đó.
• Có nhiều phương án khác nhau để lựa chọn, đàm phán uyển chuyển đạt hiệu quả cao.
• Cần dựa vào tiêu chuẩn khách quan, khoa học để đánh giá kết quả đàm phán.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 13
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
1.2 TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
1.2.1 Sơ lược về thủy sản Việt Nam
Thủy sản nước ta chủ yếu là cá biển, giáp xác, nhuyễn thể và rong biển. Tiềm năng phát
triển nuôi trồng thủy sản nước ta rất lớn với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, 300.000 ha bãi
triều, 400.000 ha hồ chứa, sông suối, 600.000 ha ao hồ nhỏ ruộng trũng, có thể đưa vào sử
dụng để nuôi trồng thủy sản. Năng suất nuôi trồng thủy sản mới chỉ bằng 10% - 25% năng
suất của các nước trong khu vực.
Theo Bộ Thủy sản, Việt Nam có trên 2000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị

kinh tế cao. Bước đầu đánh giá trữ lượng cá biển trong vùng thềm lục địa khoảng trên 4
triệu tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 1,67 triệu/năm. Tình hình cụ thể của các loài
cá:
- Cá tầng đáy: 856.000 tấn, chiếm 51,3%.
- Cá nổi nhỏ: 694.000 tấn, chiếm 41,5%.
- Cá nổi đại dương (chủ yếu là cá ngừ): 120.000 tấn, chiếm 7,2%.
Trong đó, phân bố trữ lượng và khả năng khai thác giữa các vùng như sau:
- Vịnh Bắc Bộ: trữ lượng: 681.166 tấn, khả năng khai thác: 271.467 tấn (chiếm 16,3%).
- Biển Trung Bộ: trữ lượng: 606.399 tấn, khả năng khai thác 242.560 tấn (chiếm 14,3%).
- Biển Đông Nam Bộ: trữ lượng: 2.075.889 tấn, khả năng khai thác: 830.456 tấn (chiếm 49,3%).
- Biển Tây Nam Bộ: trữ lượng: 506.679 tấn, khả năng khai thác: 202.272 tấn (chiếm 12,1%).
Việt Nam tuy có vùng biển trải dài khắp cả nước nhưng sản lượng khai thác không đồng đều
ở các vùng. Theo ước tính, vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam có tổng trữ lượng trên
3 triệu tấn cá, 50.000 - 60.000 tấn tôm, 30.000 - 40.000 tấn mực.
Mặc dù vậy, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng như đã nêu trên, trong
thời gian hơn một thập kỷ qua, ngành thủy sản Việt Nam, đứng trước nhu cầu mạnh mẽ của
thị trường thế giới cũng như nhu cầu về thực phẩm của đất nước đã có những bước phát
triển ngoạn mục và trở thành một trong những ngành kinh tế then chốt của đất nước.
1.2.2 Vai trò của xuất khẩu thủy sản đối với nền kinh tế Việt Nam
 Đối với nền kinh tế quốc dân
- Nghề nuôi trồng thủy sản từ tự cung tự cấp đã đáp ứng được nhu cầu cho tiêu dùng trong và ngoài
nước, đáng kể là sản lượng tôm nuôi phục vụ xuất khẩu của nước ta đứng vào khoảng thứ 5 trên thế
giới; thủy sản xuất khẩu cũng đã được xác định là đối tượng chủ yếu để phát triển nuôi trồng.
- Công nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu mà chủ yếu là công nghiệp đông lạnh thủy sản, với 164 cơ
sở với tổng công suất là 760 tấn/ngày đã đóng vai trò to lớn hàng đầu về công nghiệp chế biến thực
phẩm trong cả nước và thu hút nguyên liệu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Sự đóng góp đáng kể của khoa học công nghệ, trước hết phải kể đến kỹ thuật sinh sản nhân tạo để
tạo nguồn tôm giống vào cuối những năm 80, cung cấp hơn 1 tỷ tôm giống các cỡ. Trong công
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 14
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa

nghiệp đánh cá, dần dần tạo ra các công nghệ để chuyển dịch cơ cấu nghề khai thác theo hướng hiệu
quả cao, du nhập nghề mới từ nước ngoài để có thể vươn ra khai thác xa bờ.
- Hoạt động hợp tác quốc tế trên cả ba mặt: thị trường xuất khẩu, nguồn vốn nước ngoài và chuyển
giao công nghệ đều đạt những kết quả khích lệ. Từ cơ chế “Lấy phát triển xuất khẩu để tự cân đối, tự
trang trải, tạo vốn đầu tư cho khai thác và nuôi trồng” qua các thời kỳ, Nhà nước thực hiện chính
sách mở cửa đến nay, sản phẩm thủy sản nước ta đã có mặt tại hơn 50 nước và vùng lãnh thổ với một
số sản phẩm bắt đầu có uy tín trên các thị trường quan trọng. Trao đổi quốc tế trên lĩnh vực công
nghệ đã góp phần để có kết quả vừa nêu.
Trong 5 tháng đầu năm 2014, vượt qua khó khăn, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt
Nam đang dần hồi phục. Theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt
Nam (VASEP), năm 2014, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam dự kiến đạt
khoảng 7 tỷ USD, tăng 5% so với năm 2013. Tỷ trọng tương ứng của ngành thủy sản trong
GDP sẻ giảm do có sự tăng trưởng mạnh trong các ngành khác của nền kinh tế. Song sự
đóng góp của ngành thủy sản đối với ổn định xã hội và an toàn quốc gia là quan trọng vì
tiềm năng phân phối thu nhập của ngành thủy sản ở các vùng nông thôn. Một bộ phận dân
cư ở nông thôn, thường là các vùng nghèo vẫn tiếp tục sống dựa vào nghề cá và nuôi trồng
thủy sản, bao gồm cả thiểu số ở vùng cao.
 Đối với hoạt động xuất khẩu
Nếu trong GDP, ngành thủy sản đóng góp tương đối yếu thì ngành đã có sự bù đắp lại bởi sự
đóng góp mạnh mẽ vào kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước
ta qua các năm đã không ngừng tăng lên, đóng vai trò là một trong những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam trong một số năm qua và trong nhiều năm tiếp theo, đóng góp
một phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Từ năm 2009 đến 2014, năm
nào kim ngạch xuất khẩu thủy sản cũng chiếm tỷ trọng trên dưới 10% so với tổng giá trị
xuất khẩu, đặc biệt năm 2014, tỷ trọng này là 31,1%.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 15
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
BẢNG 1.1 - Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất của Việt Nam từ
01/01 đến 15/05/2014 và so sánh với cùng kì năm 2013
(Nguồn: Tổng cục Hải Quan)

Xuất khẩu thủy sản chủ yếu là tôm và một số lượng lớn mực nang và mực đông. Năm 2012,
tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đạt 5,8 triệu tấn tăng 8,5% so với năm 2011, trong đó,
sản lượng khai thác đạt 2,6 triệu tấn, sản lượng nuôi trồng đạt 3,2 triệu tấn. kim ngạch xuất
khẩu đạt 6,09 tỷ USD.
 Vai trò của trong việc tạo công ăn việc làm
Công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đảm bảo việc làm thường xuyên cho khoảng
3,5 triệu lao động, đặc biệt là từ năm 2011, số lao động thủy sản là 3,53 triệu người. Khoảng
4 triệu người sống trong các hộ gia đình làm nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Như vậy,
khoảng 7,5 triệu người chiếm 8,3% dân số sống phụ thuộc vào ngành thủy sản như một
nguồn sinh sống.
Tổng số lao động có thu nhập từ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như từ các ngành và
các hoạt động hỗ trợ thủy sản ước tính lên tới 8 triệu người. Ngoài ra, đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản còn đảm bảo việc làm không thường xuyên và thu nhập phụ cho hơn 20 triệu
người.
Theo dự tính, số lao động trong ngành thủy sản năm 2015 sẽ là 3,6 triệu người (trong đó:
khai thác hải sản khoảng 435.000 người, nuôi trồng thủy sản khoảng 559.364 người, chế
biến thủy sản: 58.768 người, lao động dịch vụ nghề cá khoảng 1.992.868 người). Số dân số
dựa vào nghề cá đã tăng lên khoảng 8,5 triệu người vào năm 2010 và 11 triệu người vào
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 16
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
năm 2012. Hơn nữa, thu nhập trực tiếp của những người lao động thường xuyên trong nghề
cá và nuôi trồng thủy sản dự tính sẽ tăng trung bình 16%/năm trong thời gian nêu trên. Trên
1,3 triệu người trong các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng thủy sản sẽ có
thêm thu nhập vào năm 2014. Điều đó có nghĩa là số dân được ngành thủy sản hỗ trợ sẽ
tăng 3 triệu người.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 17
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY
SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN NỬA ĐẦU NĂM 2014

2.1 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
2.1.1 Về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu
Xuất khẩu (XK) thủy sản của cả nước trong tháng 4 tiếp tục tăng hơn 9,53% về kim ngạch
so với tháng 3, đạt 672,48 triệu USD; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản 4 tháng đầu
năm đạt trên 2,28 tỷ USD, tăng 31,97% so với cùng kỳ.
Trong tháng 4/2014, xuất khẩu thủy sản sang hầu hết các thị trường lớn đều tăng mạnh,
nhưng xuất khẩu giảm mạnh ở các thị trường kim ngạch nhỏ. XK tôm chân trắng vẫn duy trì
tăng trưởng khả quan 151% trong tháng 4 với 185 triệu USD, đưa tổng XK 4 tháng lên 666
triệu USD, tăng 192% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, XK tôm sú tăng 15,5%
trong tháng 4, đạt 121 triệu USD, tổng XK 4 tháng đạt 381 triệu USD, tăng 14%.
Trừ cá ngừ và nhuyễn thể hai mảnh vỏ, XK các mặt hàng hải sản khác đều tăng. XK mực,
bạch tuộc có xu hướng phục hồi mạnh, tăng 36% trong tháng 4 đạt gần 45 triệu USD. XK 4
tháng đầu năm tăng 14% đạt 136,5 triệu USD. XK cua ghẹ và giáp xác khác cùng tăng
trưởng 2 con số: tháng 4 tăng 19%, 4 tháng đầu năm tăng 14% đạt trên 26 triệu USD. XK
các loại cá biển khác cũng tăng 23% trong tháng 4 và tăng 20,5% trong 4 tháng đạt 292 triệu
USD.
XK cá ngừ tiếp tục giảm không chỉ ở phân khúc sản phẩm cá nguyên liệu mà cả sản phẩm
cá hộp. Tổng XK cá ngừ 4 tháng giảm 21% đạt 163 triệu USD, trong đó cá ngừ hộp giảm
11,4%, cá nguyên liệu giảm 27%. Nguyên nhân: sản lượng khai thác cá ngừ giảm trong quý
I, thiếu cá ngừ cho chế biến sản phẩm phẩm cấp cao.
XK cá tra giảm gần 6% trong tháng 4 và 4 tháng tăng 2,1% đạt 546 triệu USD. Diện tích và
sản lượng cá tra giảm đang tác động đến kết quả XK. Theo báo cáo của Bộ NN và PTNT,
diện tích nuôi cá tra của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 4 tháng đầu năm ước đạt 5.300
ha với sản lượng 243 ngàn tấn. Theo báo cáo của các Sở NN&PTNT thuộc đồng bằng sông
Cửu Long, diện tích và sản lượng cá tra một số tỉnh giảm so với cùng kỳ năm ngoái: Vĩnh
Long diện tích 419 ha (-3,6%), sản lượng 30.400 tấn (-27,8%), An Giang diện tích 476 ha (-
38,9%), sản lượng 45.689 tấn (- 30,8%), Đồng Tháp diện tích 1.149 ha (-0,7%), sản lượng
83.102 tấn (-7,9%)…
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 18
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Tính chung cả 4 tháng đầu năm, Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất tiêu thụ thủy sản của Việt
Nam, chiếm 23,64% tổng kim ngạch, đạt 538,65 triệu USD, tăng mạnh 62,35% so với cùng
kỳ; tiếp đến Nhật Bản chiếm 14,09%, đạt 320,97 triệu USD, tăng 8,97%; Hàn Quốc chiếm
7,79%, đạt 177,62 triệu USD, tăng mạnh 50,54%; Trung Quốc chiếm 5,91%, đạt 134,67
triệu USD, tăng 43,82%.
Nhìn chung, xuất khẩu thủy sản sang hầu hết các thị trường 4 tháng đầu năm đều tăng
trưởng dương về kim ngạch so với cùng kỳ; trong đó xuất khẩu tăng mạnh ở các thị trường
nhỏ như: xuất sang I rắc (+255,48%), Séc (+179,32%), Indonesia (+149,59%), Đông Timo
(+313,93%).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được ngành thủy sản Việt Nam vẫn đang đối mặt với ko ít
những khó khăn. Đó là việc nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn vay sản xuất,
chế biến và đặc biệt là tình trạng thiếu nguyên liệu, nhân công. Những tác động tiêu cực từ
cuộc khủng hoảng tài chính vẫn còn để lại hệ quả, làm tăng giá nguyên liệu đầu vào, cước
vận tải, bao bì, lãi suất ngân hàng… Ngoài ra là những tác động của thiên tai, dịch bệnh và
các rào cản thương mại từ các nước nhập khẩu. Do vậy nhiều chuyên gia đã cảnh báo nếu
Việt Nam không đưa ra các chính sách phù hợp để ứng phó với tình hình thị trường, đặc biệt
là làm tốt vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cho các sản phẩm thì mới hướng đến mục tiêu
phát triển bền vững cho toàn ngành, hướng đến xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm
thủy sản Việt Nam.
2.1.2 Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Về mặt hàng tôm đông lạnh
Tháng 4-2014, XK tôm tiếp tục tăng mạnh 69%, kéo XK 4 tháng đầu năm tăng tới 82% so
với cùng kỳ năm ngoái, đạt trên 1,12 tỷ USD. Tôm chân trắng tiếp tục vượt xa tôm sú với
giá trị XK đạt gần gấp đôi.
Theo thông tin từ Hiệp hội Chế biến và XK Thủy sản Việt Nam (VASEP): Quý I-2014, XK
tôm đạt trên 798 triệu USD, tăng 88% so với cùng kỳ năm ngoái. Tôm là mặt hàng có mức
tăng trưởng cao nhất trong nhóm các mặt hàng thủy sản XK chính của Việt Nam.
XK tôm sang các thị trường lớn đều tăng “chóng mặt” như sang Mỹ tăng 104,4%, sang EU
tăng 140,7% (trong đó, XK sang Bỉ tăng trên 212%), sang Trung Quốc tăng 170% Nhật
Bản là thị trường duy nhất trong nhóm 10 thị trường tiêu thụ tôm chính của Việt Nam giảm

nhập khẩu (NK) trong tháng 4-2014.
Cụ thể, 2 tháng đầu năm 2014, XK tôm sang Nhật Bản tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2013
với mức tăng trên 60%/tháng. Tuy nhiên, sang tháng 3-2014, XK tôm sang Nhật Bản chỉ
tăng 1,2% so với tháng 3-2013. Tháng 4-2014, XK tiếp tục giảm 15%.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 19
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Nguyên nhân chính dẫn đến XK tôm sang Nhật Bản sụt giảm là do phát hiện thấy
Oxytetracycline trong 2 lô lôm NK từ Việt Nam, Nhật Bản đã áp dụng chế độ kiểm tra đối
với 100% tôm nuôi và các sản phẩm chế biến từ tôm nuôi NK từ Việt Nam về chỉ tiêu chất
này với mức giới hạn 0,2ppm từ giữa tháng 3-2014.
Hiện nay, các DN đã tăng cường kiểm nghiệm Oxytetracycline trong tôm XK sang Nhật
Bản, tuy nhiên DN chế biến và XK khó có thể kiểm hết được nếu như từ khâu nuôi không
được ngăn chặn và kiểm soát chặt chẽ. Do đó, XK tôm sang Nhật Bản có thể sẽ tiếp tục
giảm trong Quý II này.
Về mặt hàng cá ngừ
Tính từ đầu năm tới giữa tháng 4/2014, XK cá ngừ của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn chưa
khả quan hơn, tiếp tục sụt giảm so với cùng kỳ năm 2013. Tổng giá trị XK cá ngừ của Việt
Nam sang đây chỉ đạt hơn 8 triệu USD, giảm gần 67% so với cùng kỳ 2013.
ĐỒ THỊ 2.1 - Nhập khẩu cá ngừ Nhật Bản (Nguồn: vasep.com)
Vấn đề của Việt Nam là ở năng lực khai thác cá ngừ và giá bán của sản phẩm. Trong số các
nước xuất khẩu cá ngừ sang Nhật Bản (Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan, Trung
Quốc và Philippines) thì giá bán của Việt Nam vẫn ở mức cao và năng lực cung cấp kém
hơn nên khả năng cạnh tranh không cao. Nguyên nhân là do các sản phẩm cá ngừ của Việt
Nam vẫn đang phải chịu mức thuế cao hơn hẳn so với các nước láng giềng như Trung Quốc,
Philippines, Thái Lan và Hàn Quốc.
Ngoài Nhật Bản thì Mỹ và EU là hai thị trường lớn của cá ngừ Việt Nam. Trong khi XK cá
ngừ của Việt Nam sang Mỹ vẫn chưa có dấu hiệu khả quan, nhưng mức xuất sang thị trường
EU vẫn duy trì tăng trưởng dương, dù chỉ với mức tăng khiêm tốn 1,7% trong quý I/2014.
Tổng giá trị XK cá ngừ của Việt Nam sang các nước EU trong 3 tháng đầu năm đạt hơn
33,4 triệu USD. Như mọi năm, trong quý đầu năm, EU chủ yếu NK thăn cá ngừ đông lạnh

SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 20
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
nguyên liệu phục vụ cho sản xuất cá ngừ đóng hộp của Việt Nam (mã HS0304), nên tổng
giá trị NK mặt hàng này của Việt Nam tăng hơn 54% so với cùng kỳ năm trước, đạt hơn
20,7 triệu USD. Còn lại XK các mặt hàng cá ngừ khác của Việt Nam sang EU đều giảm. XK
cá ngừ tươi/sống/ đông lạnh giảm 95%, cá ngừ đóng hộp giảm 24%, cá ngừ chế biến khác
giảm 76%.
Dự báo XK cá ngừ Việt Nam sang EU trong những tháng tới sẽ tiếp tục phát huy thế mạnh
trong phân khúc sản phẩm tươi/sống/đông lạnh, tuy nhiên do nguồn nguyên liệu hạn chế
nên mức tăng trưởng sẽ không cao như năm ngoái.
Về mặt hàng cá tra
Kết thúc quý I/2014, XK cá tra đạt giá trị 388,49 triệu USD, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm
2013. Cá tra được XK sang 126 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng so với 123 thị trường NK
của cùng kỳ năm 2013.
Mặc dù, các DN sản xuất và chế biến cá tra Việt Nam rất năng động nhưng XK mặt hàng cá
tra vẫn mới chỉ dừng lại ở phân khúc XK philê đông lạnh. XK cá tra philê đông lạnh trong
quí I/2014 đạt 405,011 triệu USD, chiếm 99% tỷ trọng XK cá tra Việt Nam, tăng 4,9% so
với quý I/2013. Trong khi đó, XK cá tra hàng giá trị gia tăng vẫn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ
và chỉ có những DN lớn mới tham gia sản xuất và XK mặt hàng này. Tuy nhiên, XK cá tra
hàng giá trị gia tăng đã tăng mạnh trong quý đầu năm nay. Trong quý I/2014 XK cá tra hàng
GTGT đạt 3,55 triệu USD, chiếm 1% tỷ trọng XK cá tra Việt Nam, tăng 54,9% so với cùng
kỳ năm 2013. Đây cũng là mức tăng trưởng cao của mặt hàng này trong những năm gần
đây.
XK cá tra sang EU và Mỹ vẫn giữ vai trò quan trọng, góp phần vào tăng trưởng kim ngạch
XK cá tra chung. Mỹ vẫn là thị trường NK cá tra lớn nhất, chiếm 20,5% tổng kim ngạch,
với giá trị đạt gần 84 triệu USD, tiếp đến là thị trường EU với giá trị đạt 83 triệu USD,
chiếm 20,3% tổng kim ngạch XK cá tra của Việt Nam. Mỹ và EU hiện là 2 thị trường có tỷ
trọng XK cá tra gần tương đương nhau. Tuy nhiên, XK cá tra sang EU vẫn chưa có dấu hiệu
khởi sắc, trong khi thị trường Mỹ có khả năng sẽ NK cá tra chậm lại trong thời gian tới.
Tại thị trường Mỹ, trong quý đầu năm đã có 2 "sự kiện" tác động tới cá tra Việt Nam. Ngày

7/2/2014, Tổng Thống Obama đã chính thức ký quyết định ban hành Luật Nông trại 2014,
trong đó có nội dung chuyển chức năng giám sát cá da trơn, trong đó có cá tra của Việt
Nam, từ Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Mỹ (FDA) sang Bộ Nông nghiệp Mỹ
(USDA). Mặc dù, Farm Bill chưa ảnh hưởng đến DN cá tra trong năm nay nhưng cũng là
một trở ngại đối với cá tra trong tương lai gần. Trong khi đó, ngày 31/3/2014, Bộ Thương
mại Hoa Kỳ (DOC) công bố kết quả cuối cùng của đợt xem xét hành chính lần thứ 9
(POR9) vụ kiện chống bán phá giá cá tra tại thị trường Hoa Kỳ áp dụng đối với các lô hàng
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 21
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
XK trong giai đoạn từ 1/8/2011- 31/7/2012. Hầu hết các DN đều bị áp mức thuế cao, chính
vì vậy chỉ có một số DN có mức thuế suất thấp vẫn XK cá tra vào thị trường này.
Về mặt hàng mực, bạch tuột
So với quý I/2013, XK mực, bạch tuộc 3 tháng đầu năm nay đã có dấu hiệu hồi phục. Tính
đến hết giữa tháng 4/2014, tổng giá trị XK mực, bạch tuộc đạt 111,8 triệu USD, tăng 8,2%
so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trong tháng 3, giá trị XK đạt 38,9 triệu USD, tăng 21%
so với cùng kỳ năm 2013.
ĐỒ THỊ 2.2 – Xuất khẩu mực, bạch tuột 3 tháng đầu năm 2012-2014
(Nguồn: vasep.com)
Mặc dù, giá trị XK tăng so với cùng kỳ năm trước nhưng tình hình XK sang 3 thị trường
chính vẫn chưa thực sự tốt (nhất là sang Nhật Bản và EU) do các tiêu chuẩn chất lượng khắt
khe. Trong khi đó, giá trị XK sang các thị trường XK tiềm năng lớn là: Nga, Đài Loan,
Australia và Mỹ vẫn tiếp tục nằm trong mức tăng trưởng âm.
Tính đến giữa tháng 4/2014, Hàn Quốc là thị trường NK lớn nhất của mực, bạch tuộc Việt
Nam, chiếm gần 36,1% tổng giá trị XK với giá trị XK đạt 40,35 triệu USD, tăng 19,2% so
với cùng kỳ năm trước. Chiếm tỷ lệ này, Hàn Quốc đã vượt xa thị trường Nhật Bản trong cơ
cấu thị trường XK nhuyễn thể chân đầu của Việt Nam. Tuy nhiên do bị đánh thuế cao, sản
lượng của Việt Nam vẫn kém Trung Quốc tại đây.
Trong quý I/2013, thì có đến 2 tháng liên tiếp giá trị XK sang 4 thị trường đều giảm từ 5,8 -
56% so với cùng kỳ năm trước. Dự báo, trong quý II/2014, giá trị XK sang Nga và Australia
tăng dần, tuy nhiên XK sang Đài Loan chững. Do sự bấp bênh của những “hướng đi” đi này

nên nhiều DN XK nhuyễn thể chân đầu Việt Nam vẫn tiếp tục chọn 3 thị trường chính là:
Hàn Quốc, Nhật Bản và EU để đẩy mạnh hoạt động XK và gia tăng kim ngạch.
2.1.3 Về thị trường xuất khẩu
Ba khối thị trường xuất khẩu thủy sản chính của Việt Nam là EU, Mỹ, Nhật Bản chiếm
khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản hàng năm của Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ 3
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 22
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
tháng đầu năm 2014 thị trường EU vẫn đang dẫn đầu với 150,856 triệu USD, tiếp theo là
Mỹ với 146,474 triệu USD và Nhật Bản với 101,315 triệu USD. Các thị trường quan trọng
khác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Koong, ASEAN, Australia, Canada,… Ngoài ra,
hàng thủy sản Việt Nam cũng đang bắt đầu thâm nhập vào thị trường mới phát triển như
Đông Âu, Trung Đông, Châu Mỹ La Tinh.
ĐỒ THỊ 2.3 - Xuất khẩu thủy sản sang 4 thị trường chính 4 tháng đầu năm giai
đoạn 2012-2014 (Nguồn: vasep.com)
2.2 NHẬN XÉT
2.2.1 Thuận lợi
- Điều kiện tự nhiên thuận lợi của nước ta: Bờ biển dài hơn 3260 km. Vùng biển Việt Nam nằm trong
vùng có nguồn lợi phong phú, đa dạng. Nước ta còn có nhiều sông suối, ao, hồ, ruộng trũng, rừng
ngập mặn… thích hợp nuôi trồng thủy sản cả nước ngọt lẫn nước mặn hoặc nuôi ở biển đều được.
- Chất lượng ngày càng được nâng cao: Các doanh nghiệp Việt ngày càng nâng cao tính chuyên
nghiệp trong khai thác và chế biến thủy sản, ngang với các nước trong khu vực và bước đầu tiếp cận
với công nghệ của thế giới. Những điểm mạnh của các doanh nghiệp Việt là: nhanh nhạy hơn với
công nghệ, nắm bắt thông tin thị trường, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, cở sở hạ tầng nâng cấp
thường xuyên, công nghệ chế biến được cải tiến đáp ứng tiêu chuẩn HACCP. Điểu đó giúp thủy sản
Việt Nam có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế, đáp ứng các thị trường khắc khe như Mỹ,
Nhật Bản, EU.
- Sản lượng khai thác của các nước nhập khẩu giảm: Nhật Bản vừa qua phải chịu đợt thảm họa động
đất sóng thần làm năng lực khai thác thủy sản phục vụ nhu cầu trong nước giảm nên buộc phải tăng
mạnh nhập khẩu từ các nước khác trong đó có Việt Nam. Hoặc ở các nước khác những quy định liên
quan đến bảo vệ nguồn lợi và môi trường ngày càng nghiêm ngặt nên cũng trở nên phụ thuộc nhiều

hơn vào nhập khẩu.
- Thuận lợi về chính sách: Việt Nam có lợi thế khi xuất khẩu thủy sản ở một số thị trường. Ở EU, Việt
Nam được hưởng chế độ thuế GSP do đáp ứng được các tiêu chuẩn của EU nên làm giảm thuế nhập
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 23
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
khẩu khi với hàng thủy sản Việt Nam. Một phần cũng do EU có nhu cầu nhập khẩu thủy sản cao nên
thường không dùng biện pháp chống bán phá giá như ở Mỹ.
- Thủy sản Việt Nam đa dạng về chủng loại và có mức trung bình khá rẻ: do điều kiện nuôi trồng
nhiều, nguồn nhân lực rẻ và được thiên nhiên ưu đãi nên rất có lợi thế khi xuất khẩu sang thị trường
nước ngoài.
- Chính sách khuyến khích xuất khẩu từ chính phủ cũng là một yếu tố thúc đẩy sản lượng xuất khẩu
thủy sản. Việc đánh thuế xuất khẩu bằng 0 cho đa số mặt hàng xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan đơn
giản hóa đang là những nỗ lực của nhà nước Việt Nam nhằm kích thích xuất khẩu trong nước phát
triển đặc biệt là ngành thủy sản.
2.2.2 Khó khăn
Có những khó khăn chính đối với ngành thủy sản nước ta cần khắc phục như sau:
Thứ nhất là thiếu nguyên liệu đầu vào, do:
- Mặc dù có thuận lợi về tự nhiên cho việc khai thác và đánh bắt thủy sản nhưng cũng chính tự nhiên
gây bất lợi cho nước ta. Giai đoạn 2013 – 2014, biến đổi khí hậu đẩy nước mạnh xâm nhập vào đất
liền gây đe dọa đến nghề nuôi thủy sản trong nước vì đa số thủy sản nước ta thuộc loại nước ngọt.
- Dịch bệnh: dịch bệnh với giống tôm đã gây nhiều thiệt hại cho ngành vì tôm là một trong những mặt
hàng thủy sản chủ lực của nước ta.
- Việc ứng dụng khoa học kĩ thuật tuy có phát triển nhưng chưa đồng bộ. Đa số ngư dân vẫn đánh bắt
theo hình thức nhỏ lẻ, đặc biệt là việc nuôi trồng và đánh bắt xa bờ vẫn còn quy mô nhỏ, kĩ thuật còn
hạn chế nên sản lượng thu được không cao, thậm chí còn hư hỏng trên đường về vì không có biện
pháp bảo quản tốt.
- Về chính sách phát triển: Mô hình công nghiệp còn ít, vấn đề quy hoạch còn chồng chéo nên không
thể ổn định việc nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu.
Thứ hai là sự không ổn định về giá. Vấn đề này đã được nói vài lần trong phần thực trạng
nêu trên. Nguyên nhân là do:

- Sự liên kết lỏng lẻo giữa các chủ thể trong ngành (đối với mặt hàng cá tra) gây nhiều đợt đỉnh giá,
tạo nên biên độ giá lớn.
- Dịch bệnh gây khan hiếm nguyên liệu xuất khẩu (đối vói mặt hàng tôm) gây tăng giá tôm lên cao
ngất ngưởng.
- Giá thức ăn thủy sản tăng hơn 7 lần (03/2014), mỗi lần 200-300 đ/kg, tăng 40% so với đầu năm.
Ngoài ra theo thống kê của Tổng cục Thủy sản, gần 80% thị trường thức ăn chăn nuôi do cá công ty
có yếu tố nước ngoài kiểm soát. Đây cũng là nguyên nhân gây tăng giá thức ăn.
Thứ ba là mẫu mã, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, chất lượng chưa đảm bảo. Nguyên
nhân do:
- Công nghệ chế biến thủy sản tuy có tiến bộ nhưng so với mặt bằng chung thế giới thì còn tụt hậu khá
xa. Hàng chúng ta đem đi xuất khẩu vẫn chỉ là thủy sản thô, sơ chế nên không đạt lợi nhuận cao và
không được hưởng ưu đãi về thuế mà hiệp định khung đem lại cho các mặt hàng chế biến sâu, giá trị
gia tăng.
- Các mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng như là cá tra, ca basa, cá mực và cá ngừ.
- Mẫu mã còn đơn điệu chưa hấp dẫn khách hàng. Chất lượng chưa được kiểm định chặt chẽ.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 24
Chuyên đề môn học GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Thứ tư là do ngành sản xuất thủy sản Việt Nam chủ yếu theo hộ gia đình, quy mô nhỏ, tài
chính hạn chế, năng suất lao động thấp, nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất không ổn
định. Thêm vào đó các doanh nghiệp Việt Nam ít có sự liên kết với nhau, hầu như đơn độc
trước các đối thủ nước ngoài gây thiếu thông tin cà dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh
làm hạn chế phát triển.
Thứ năm là do những hạn chế về năng lực quản lý và thông tin. Nguyên nhân do:
- Đội ngũ cán bộ quản lý và lực lượng công nhân chế biến chưa được quan tâm đúng mức, đảm bảo
các kĩ năng cần thiết, làm giảm hiệu quả sản xuất.
- Nước ta luôn ở trong tình trạng thiếu thông tin thị trường, khả năng phát triển hệ thống kinh doanh
và phản ứng với sự thay đổi chính sách thị trường chậm.
Thứ sáu, quy định về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước phát triển ngày
cảng chặt chẽ hơn. Tuy được giảm thuế, dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan nhưng điều này lại
tạo ra nhiểu bất lợi cho các nước đang phát triển:

- Làm tăng chi phí sản xuất, trở thành rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu nước ta.
- Sản phẩm theo quy định mới phải sạch ngay từ giai đoạn con giống ko như trước. Nhật Bản thì tăng
cường tần suất kiểm tra enroflosaxin từ 30% lên 100% tháng 06/2011. EU cũng đưa ra quy định quy
định doanh nghiệp áp dụng hiệu quả HACCP thì mới được phép xuất khẩu sang thị trường này.
Thứ bảy, sức cạnh tranh của thủy sản Việt Nam còn yếu. Hiện nay các thị trường lớn đang
nới lỏng quy định xuất khẩu. Thủy sản Việt Nam sẽ phải gặp phải cạnh tranh nhiều hơn từ
các nước khác như Trung Quốc, Hà Lan, Ấn Độ,… Hơn nữa thị trường tự do thương mại
còn làm nhều đối thủ xuất hiện hơn nữa. Nguyên nhân là do:
- Năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế còn yếu.
- Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn bất hợp lí, cơ chế thị trường còn nhiều vấn đề chưa được giải
quyết.
- Hệ thống tài chính còn nhiều bất cập.
- Trình độ công nghệ còn thấp, cải cách chậm chạp, tư duy còn thấp gây hạn chế trong tiếp cận, thâm
nhập thị trường nước ngoài.
- Cơ sở vật chất lạc hậu, vận dụng yếu kém yếu tố công nghệ, tiến bộ kĩ thuật, nuôi trồng thủy sản còn
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
- Sản xuất chưa tự động hóa, giá thành chưa ổn định.
- Sản phẩm mới chỉ qua sơ chế hay đông lạnh.
- Chưa xây dựng được thương hiệu có uy tín nhưng bán giá thấp làm ảnh hưởng gây ảnh hưởng tới
hình ảnh thủy sản Việt Nam.
Thứ tám, vấn đề đăng kí nhãn hiệu và thương hiệu hàng thủy sản vẫn chưa được quan tâm
đúng mức. Ngoài nước mắm Phú Quốc chưa có nhãn hiệu nào được đăng kí chính thức trên
thị trường quốc tế. Nếu có nhãn hiệu và thương hiệu chắc chắn sẽ giảm thiểu được nhiều rủi
ro và nâng cao được uy tín của hàng thủy sản Việt Nam trên thương trường quốc tế.
SVTH: Hoàng Nguyễn Ngọc Hưng 25

×