Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Cây lấy sợi lâm sản ngoài gỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 17 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC……………………………………………………………………………………….1
TÀI LIỆU THAM
KHẢO…………………………………………………………………… 17 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
Phần I: 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TỰỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
I. MỤC TIÊU: 3
1. Mục êu tổng quát 3
Nhằm góp phần bảo vệ, phát triển và xử dụng bền vững tài nguyên rừng của Việt Nam 3
2. Mục êu cục thể 3
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 3
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: 3
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
1/ Nhóm tre nứa 5
2/ Nhóm mây song 6
3/ Nhóm các cây có sợi khác 7
II. MỘT SỐ LOÀI CÂY CHO SỢI THƯỜNG GẶP Ở VIỆT NAM 9
1.Bương lớn (Dendrocalamus a\. sinicus Chia et J.L.Sun,1983) 9
3. Dùng phấn - Bambusa chungii McClure,1936 10
4. Hóp nhỏ - Bambusa tuldoides Munro,1868 11
5. Hóp sào - Bambusa texlis McClure,1940 12
7. Là ngà bắc - Bambusa sinospinosa McClure, 13
8. Lồ ô - Bambusa procera A. Chev. & A. Cam. ; Họ: Hòa thảo – poaceae 13
9. Lồ ô trung bộ - Bambusa balcooa Roxb.,1932 ; Họ: Hòa thảo – poaceae 14
10. Lộc ngộc - Bambusa sp.; Họ: Hòa thảo – poaceae 14
11.Lùng - Bambusa sp. ; Họ: Hòa thảo – poaceae 15
Phần III 16
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………… 17
ĐẶT VẤN ĐỀ


LSNG (NTFP hoặc NWFP) bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh
vật, loại trừ gỗ lớn, được khai thác từ rừng, đất có rừng và từ cây gỗ ở ngoài rừng
(FAO,1999).
Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là loại tài nguyên có giá trị đặc biệt của rừng, nó
có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa của của nhấn loại,
đặc biệt đối với cộng đồng dân cư vùng sâu vùng xa sống trong rừng, gần rừng, nó
còn có ý nghĩa lớn về môi trường, giải quyết công ăn việc làm mang lại nhiều lợi
ích cho đời sống của nhân dân.
LSNG có giá trị đối với sự giàu có của hệ sinh thái rừng. Chúng đóng góp
vào đa dạng sinh học của rừng. Chúng là nguồn gen hoang dã quý, có thể bảo tồn
để phục vụ cho công nghiệp.
Từ lâu nhân dân ta đã sử dụng các loài cây có sợi như: Dùng lá cọ, lá cỏ
tranh, dừa nước để lợp nhà; dùng tre nứa, mây song để đan lát, dùng sợi gai, sợi
cói để bện thừng; lấy vỏ dướng, vỏ dó để làm giấy Càng ngày người ta càng phát
hiện nhiều loài cây có sợi để sử dụng chúng phục vụ cho các mục tiêu của con
người.
Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn quyết tâm đưa lâm sản ngoài gỗ
thành một ngành sản xuất quan trọng trong lâm nghiệp, dự kiến đến 2020 LSNG
chiếm 20% giá trị lâm nghiệp, chiếm từ 30 – 40% giá trị xuất khẩu gỗ, giải quyết
việc làm cho 1,5 triệu người dân vùng núi.
LSNG hiện bị cạn kiệt cùng với sự suy thoái của rừng do ảnh hưởng của sự
buông lỏng quản lý, của sự gia tăng dân số, mở rộng canh tác nông nghiệp, chăn
thả gia súc không kiểm soát, khai thác gỗ, thu hái gỗ củi làm chất đốt quá mức.
Hiện nay cây có sợi là nhóm LSNG có giá trị lớn nhất được dùng trong nội
địa hoặc xuất khẩu.
Để góp phần quản lý bảo vệ, phát triển và khai thác, xử dụng hợp lý nguồn
lâm sản ngoài gỗ, em cho chuyên đề: Tìm hiểu nhóm lâm sản ngoài gỗ cây lấy
sợi” làm tiểu luận môn học.
Do kiến thức của bản than và thời gian hạn chế, nên chắc chắn tiểu luận này
không tránh khổi những tồn tại, thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự góp ý

của tháy giáo và các bạn học. Xin trân trọng cảm ơn.
Phần I:
MỤC TIÊU, ĐỐI TỰỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. MỤC TIÊU:
1. Mục tiêu tổng quát.
Nhằm góp phần bảo vệ, phát triển và xử dụng bền vững tài nguyên rừng của
Việt Nam.
2. Mục tiêu cục thể.
Bước đầu tìm hiểu về lâm sản ngoài gỗ nhóm cây lấy sợi ở ở Việt nam.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Lâm sản ngoài gỗ cây lấy sợi.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
- Một số nét khái quát về lâm sản ngoài gỗ nhóm cây lấy sợi ở Việt Nam;
- Tìm hiểu sơ lược về một số lời cây thường gặp ở Việt Nam trong nhóm
lâm sản ngoài gỗ cây lấy sợi
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để thực hiện tiểu luận này, em đã dung các phương pháp nghiên cứu cụ thể
đó là:
- Phương pháp kế thừa tài liệu;
- Phương pháp chuyên gia,
Phần II.
KẾT QUẢ NGHIÊN CƯU.
I. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ LÂM SẢN NGOÀI GỖ CÂY LẤY SỢI.
Theo định nghĩa, nhóm cây có sợi bao gồm các loài thực vật trong vỏ, lá
hay gỗ có chứa tế bào sợi dài, dai, với tỷ lệ chiều dài so với chiều rộng thường gấp
hơn 100 lần.
Các cây có sợi là những loài cây được trồng hoặc khai thác trong thiên
nhiên để sử dụng vào các mục đích: đan lát, lợp nhà, bện dây hoặc được dùng
trong công nghệ chế biến sợi và công nghệ giấy.
Ở Việt Nam, do điều kiện khí hậu nhiệt đới nên thành phần loài cây có sợi

rất phong phú; chúng bao gồm cả các dạng cây gỗ, cây bụi, dây leo, cây thảo.
Chúng phân bố trong nhiều hệ sinh thái, nhiều sinh cảnh khác nhau. Từ độ cao
ngang mặt biển đến núi cao Hoàng Liên, đều có thể gặp các loài cây có sợi.
Về mặt thực vật, các loài cây có sợi thường tập trung nhiều trong các họ:
Hoà thảo (Poaceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Cau Dừa (Arecaceae), họ Đay
(Tiliaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Trôm (Sterculiaceae), họ Trầm
(Thymeleaceae)
Từ lâu nhân dân ta đã sử dụng các loài cây có sợi như: Dùng lá cọ, lá cỏ
tranh, dừa nước để lợp nhà; dùng tre nứa, mây song để đan lát, dùng sợi gai, sợi
cói để bện thừng; lấy vỏ dướng, vỏ dó để làm giấy Càng ngày người ta càng phát
hiện nhiều loài cây có sợi để sử dụng chúng phục vụ cho các mục tiêu của con
người, như dùng thân các loài dương xỉ (bòng bong, tế guột), các loài dây rừng
(tiết dê) hoặc cuống cụm quả (móc đùng đình) để đan các hàng mỹ nghệ; dùng lá
buông, mo tre để đan nón hoặc dùng lá diễn, lá mai xanh, lá chít để gói bọc thực
phẩm
Hiện nay cây có sợi là nhóm LSNG có giá trị lớn nhất được dùng trong nội
địa hoặc xuất khẩu. Chỉ riêng hàng mỹ nghệ làm từ mây tre đã xuất khẩu lượng
hàng hoá giá trị khoảng 120-150 triệu USD/năm hoặc số lượng tre yêu cầu cung
cấp cho nhà máy giấy thủ công hoặc hiện đại trong nuớc, hàng năm cũng tới hàng
triệu tấn. Vì vậy việc nghiên cứu, phát triển và bảo vệ các loài cây có sợi là một
yêu cầu cấp thiết để phát triển ngành LSNG của Việt Nam.
Dựa theo đặc tính sinh thái, sự giống nhau về sử dụng và cách chế biến của
các loài cây có sợi, chúng tôi chia chúng làm 3 nhóm chính: 1/ Nhóm tre nứa; 2/
Nhóm mây song và 3/ Nhóm các cây có sợi khác.
1/ Nhóm tre nứa
Tre nứa bao gồm các loài thuộc phân họ Tre (Bambusoideae), họ Hoà thảo
(Poaceae); Trên thế giới có khoảng 14 triệu ha rừng với trên 500 loài tre nứa, phân
bố chủ yếu ở vùng Nam và Đông Nam Á.
Việt Nam là một trong những trung tâm phân bố tre nứa của thế giới, với gần
800 nghìn ha rừng tre nứa thuần loại, hơn 700 nghìn ha rừng tre nứa hỗn giao và

hơn 2 nghìn tỉ cây tre nứa phân tán theo các vùng như sau (Bảng)
Đơn vị: 1 triệu ha
Địa phương
Diện tích tự nhiên
(ha)
DT rừng tre thuần
loại
DT rừng tre hỗn
giao
Toàn quốc 32,894 0,789 0,702
Đông Bắc 6,746 0,176 0,132
Tây Bắc 3,572 0,057 0,049
Đồng Bằng Sông Hồng 1,266 0,0 0,0
Bắc Trung Bộ 5,130 0,172 0,099
Duyên Hải Miền Trung 3,301 0,027 0,002
Tây Nguyên 4,464 0,210 0,138
Đông Nam Bộ 4,447 0,144 0,279
Đồng Bằng Sông C. Long
Nguồn: Kết quả Tổng kiểm kê rừng toàn quốc 1/2001.
Do có nhiều đặc tính quí nên tre nứa đã được sử dụng trong đời sống hàng
ngày cũng như trong thủ công nghiệp và công nghiệp hiện đại. Đã thống kê được
hơn 30 công dụng của tre nứa, trong đó những công dụng chính là: Làm hàng thủ
công, mỹ nghệ, làm vật liệu xây dựng, làm nguyên liệu trong công nghiệp giấy sợi
và sản xuất măng tre làm thức ăn tươi hoặc khô.
Theo chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, đến năm 2010, nước ta sẽ
sản xuất 2-2,5 triệu tấn giấy/năm; trong đó 30% nguyên liệu giấy có nguồn gốc từ
tre nứa; như vậy phải cần khoảng 3-4 triệu tấn tre nứa/ năm để đáp ứng cho riêng
ngành công nghiệp giấy (5-6kg tre nứa tươi cho 1kg bột giấy). Ngoài ra còn cần
rất nhiều tre nứa cho các ngành sản xuất mới như: sản xuất đúa, tăm tre; sản xuất
ván thanh, ván ép

Măng tre đã được sử dụng từ rất lâu đời; măng trúc, măng mai, măng giang,
măng nứa là các món ăn quen thuộc của mỗi người dân Việt Nam từ thành thị
đến nông thôn. Măng tre không chỉ được dùng trong nước mà còn là mặt hàng
xuất khẩu ngày càng được ưa chuộng và yêu cầu với số lượng ngày càng tăng.
Như vậy tre nứa là nhóm cây có sợi quan trọng bậc nhất. Trong Kế hoạch
hành động LSNG của Bộ Nông Nghiệp và PTNT đang soạn thảo cũng coi việc
phát triển tre nứa là một trong những mục tiêu trọng tâm của phát triển LSNG
trong thời gian tới. Vì vậy việc tập trung nghiên cứu về gieo trồng, khai thác, chế
biến và bảo quản tre nứa để đưa chúng thành một mặt hàng LSNG bền vững và
ngày càng phát triển là một nhiệm vụ cần phải sớm tiến hành.
2/ Nhóm mây song
Mây song, thuộc họ Cau Dừa (Palmae), là nhóm Lâm sản có giá trị đứng
hàng thứ 3 sau gỗ và tre nứa ở Việt Nam. Tới nay đã thống kê được trên 30 loài
mây song thuộc 6 chi, phân bố ở nước ta. Do thân mây song có các đặc tính nhẹ,
bền, dai, bóng đẹp, lại dễ uốn nên từ lâu mây song đã là nguồn nguyên liệu để làm
nhiều mặt hàng gia dụng, bàn ghế, sản phẩm mỹ nghệ dùng trong nước và xuất
khẩu. Việc phát triển mặt hàng mây song đã mang lại cho đất nước nguồn ngoại tệ
lớn và hàng chục vạn công ăn việc làm cho người dân.
Hiện nay mới thống kê được 4 loài mây song, thuộc chi Mây (Calamus)
được đưa vào trồng trọt là: Mây nếp (Calamus tetradactylus), mái (C. tenuis), mây
đắng (C. tonkinensis) và song mật (C. platyacanthus). Còn hầu hết các loài mây
khác vẫn khai thác ngoài thiên nhiên. Bảy loài được khai thác nhiều nhất là: Mây
nếp, mây đắng, song mật, song bột (Calamus poilanei), song đá hay song đen (C.
rudentrum) và mây nước (Daemonorops poilanei).
Mặt hàng chế biến từ mây song, ngày càng được ưa chuộng trên thế giới.
Theo ước tính của FAO (1995), mỗi năm, trên thế giới, mặt hàng này đạt khoảng
600 triệu USD. Việt Nam là nước xuất khẩu hàng mây song đứng thứ 3 sau
Malaysia và Indonesia. Nhưng đáng tiếc là do khai thác huỷ diệt không chú ý đến
tái sinh thiên nhiên nên nguồn mây song trong rừng của Việt Nam ngày càng cạn
kiệt, nhiều loài như song bột, song mật, song đá đang đứng trước nguy cơ bị

tuyệt chủng. Hàng năm ta phải nhập khẩu từ các nước láng giềng khoảng 1 triệu
USD nguyên liệu mây song thô để làm hàng xuất khẩu.
Trước tình hình đó, cần phải đẩy mạnh gieo trồng, đặc biệt cần trồng mây
nếp, mây nước và song mật trên một qui mô lớn, đồng thời áp dụng các biện pháp
khai thác khoa học và bền vững để bảo vệ và phát triển nguồn mây song tự nhiên.
Có như vậy chúng ta mới tự túc được nguyên liệu cho ngành sản xuất hàng từ mây
song trong thời gian tới.
3/ Nhóm các cây có sợi khác
Nhóm này bao gồm các loài cây có sợi không thuộc 2 nhóm trên. Chúng có
thể được sử dụng để làm giấy như dó, dướng; lợp nhà như cọ, lá buông, dừa nước,
cỏ tranh; đan lát hàng gia dụng hay làm hàng mỹ nghệ như: Cói, gai, tế guột
Những loài cây có sợi này cũng đóng một vai trò quan trọng vì chúng là
nguồn nguyên liệu để làm các mặt hàng tiêu dùng trong nước hoặc xuất khẩu.
Cần có những nghiên cứu đày đủ về kỹ thuật lâm sinh, chế biến và thị
trường để bảo vệ và phát triển toàn diện và bền vững nhóm cây có sợi của Việt
Nam. Đây sẽ là nhóm LSNG mũi nhọn trong chiến lược phát triển LSNG của Việt
Nam trong thời gian tới.
Loài người đã biết khai thác sử dụng sợi thực vật từ rất sớm. Người ta lấy
sợi để đan lát, may mặc, làm giấy, thuốc nổ… đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng
ngày. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, đời sống của người dân càng cao, nhu
cầu tiêu thụ giấy sợi càng nhiều.
Cần phân biệt khái niệm sợi trong thực vật học và sợi trong công nghiệp.
Sợi trong thực vật học là mạch dẫn, là loại tế bào dài, hình thoi, nhọn hai đầu, rỗng
ruột, màng dày, trên màng có lỗ thủng đơn, mức độ hoá gỗ khác nhau và có tác
dụng nâng đỡ các bộ phận của cây. Sợi công nghiệp ngoài bao gồm loại sợi trên
còn có quản bào tồn tại trong cây thuộc ngành Thông (Pinophyta), một số thuộc
ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) và các sợi liên kết thành bó mạch trong thân,
cuống lá, bẹ lá ở cây thuộc lớp Loa kèn (Liliopsida).
Thành phần chính của sợi là xenlulô. Xenlulô là hợp chất được cấu tạo từ
100 gốc glucô trở lên liên kết với nhau, công thức hoá học là (C

6
H
10
O
5
)
n
. Qua
kính hiển vi điện tử cho thấy xenlulô thể hiện dạng kết cấu tinh thể.
Ở việt nam, thực vật cho sợi phân bố rộng trong cả nước, có thể gặp chúng
mọc tự nhiên rải rác hoặc thành đám nhỏ trong nhiều trạng thái rừng. vì vậy trước
mắt chúng chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng nhỏ lẻ và không liên tục trừ một vài loài
sẵn có, phân bố tương đối tập trung như cói, nứa… được nhân dân địa phương
khai thác sử dụng và đã bước đầu gây trồng thêm để dùng tại chỗ và đáp ứng nhu
cầu của thị trường.
Dựa vào kết cấu và nguồn gốc sợi có thể phân làm 3 loại chính:
- Sợi libe: là những tế bào thường xếp thành bó ở tầng vỏ, hàm lượng
xenlulô cao, dẻo dai và dễ uốn.
- Sợi gỗ: là những tế bào nằm ở phần gỗ, hàm lượng lignin cao, dòn dễ gẫy.
- Sợi biểu bì: là những tế bào dài nằm ở phần vỏ hoặc hạt, hàm lượng
xenlulô cao, dẻo dai và dễ uốn.
Tùy từng loài cây, mỗi loại sợi có thể tồn tại nhiều hay ít ở các bộ phận
khác nhau trong đó sợi ở thân thường nhiều và có giá trị nhất. ở cây thân cỏ các
bó libe bao ngoài các bó dẫn; ở cây thân gỗ bó dẫn xếp thành vòng, phía trong là
phần gỗ gồm các sợi gỗ, phía ngoài là phần libe gồm các sợi libe. sợi còn có thể
tồn tại ở rễ cây, lá cây, quả và hạt.
Tuỳ theo độ dài, mảnh, dẻo dai, đàn hồi, mức độ ngậm nước … mà sợi có
giá trị thương phẩm và khả năng sử dụng khác nhau.
Căn cứ vào giá trị sử dụng, có thể phân làm 4 loại sau:
- Sợi dùng để dệt và đan lát, loại này tương đối dẻo dai và có tính đàn hồi

tốt như Cói, Giang, Mây…
- Sợi dùng để làm giấy, loại này có tỷ lệ xenlulô cao (gần 50%), tỷ lệ lignin
thấp (không quá 30%), kích thước sợi mảnh và tương đối dài như nhiều loài cây
thuộc họ Cỏ.
- Sợi dùng làm dây buộc, loại này thường có kích thước dài, chịu kéo, chịu
ma sát tốt như: Đay, Gai.
- Sợi dùng để nhồi đệm, gối, phao cứu sinh, tiêu bản động vật… loại này
thường không thấm nước như Bông gạo, sợi trong bẹ lá cây họ Cau Dừa,…
Người ta thường lấy sợi từ các loài cây thuộc các họ sau: Bông
(Malvaceae), Gai (Urticaceae), Trôm (Sterculiaceae), Dâu (Moraceae), Bông gạo
(Bombacaceae), Trầm (Thymelaeaceae), Đậu (Fabaceae), Cói (Cyperaceae), Cỏ
(Poaceae), Thùa (Agavaceae).
II. MỘT SỐ LOÀI CÂY CHO SỢI THƯỜNG GẶP Ở VIỆT NAM.
1.Bương lớn (Dendrocalamus aff. sinicus Chia et J.L.Sun,1983)
Họ: Hòa thảo – poaceae
Công dụng
Thân bương thường được dùng làm
cột buồm, làm nhà, làm máng dẫn nước,
làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy,
chế biến thay thế cho gỗ. Măng Bương
lớn to, ăn ngon, ăn tươi hoặc phơi khô,
cũng có thể đóng hộp.
Công dụng
Thân bương thường được dùng làm
cột buồm, làm nhà, làm máng dẫn nước,
làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy,
chế biến thay thế cho gỗ. Măng Bương
lớn to, ăn ngon, ăn tươi hoặc phơi khô,
cũng có thể đóng hộp.



1. Cành lá; 2. Mo thân; 3. Cụm hoa; 4. Bông nhỏ
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Hiện nay bương lớn trong rừng trồng bị khai thác tuỳ tiện: Chặt cây, lấy
măng không được quản lý nên ngày một thoái hoá. Cần nghiên cứu kỹ thuật gieo
trồng, khai thác thân tre và măng để bương lớn có thể phát triển bền vững. Cũng
cần hướng dẫn người trồng bương chế biến măng khô, đặc biệt là làm măng lưỡi
lợn để nâng cao giá trị và tăng thu nhập.
2. Diễn trứng (Dendrocalamus sp).
Họ: Hòa thảo – poaceae
Công dụng
Dùng làm vật liệu xây dựng như:
làm nhà, cầu phao và các đồ đạc gia
đình như bàn ghế, chiếu, mành. Là loại
nguyên liệu tốt trong công nghiệp giấy,
sợi.
Măng là loại thức ăn được nhiều
người ưa thích. Gần đây lá được sấy
khô và xuất khẩu sang Đài Loan và Hàn
Quốc rất nhiều để thay giấy gói bọc
thực phẩm. Diễn trững cũng được dùng
làm cây cải tạo rừng, cây chắn gió.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Diễn trứng là loài tre đặc hữu của
Việt Nam. Đây là loài tre có nhiều tác
dụng. Cần nghiên cứu để có kế hoạch
bảo vệ và phát triển loài tre quí này.
Đặc biệt chú ý nghiên cứu khâu chọn
giống và kỹ thuật trồng trọt.



1. Mo thân ở đoạn gốc; 2. Mo thân đoạn ngọn;
3. Lóng thân và cành; 4. Cành mang lá; 5. Cụm hoa
3. Dùng phấn - Bambusa chungii McClure,1936.
Họ: Hòa thảo – poaceae
Công dụng
Dùng để đan phên cót, tăm mành
và làm hàng mỹ nghệ. Có thể dùng làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến
ván ép, làm sợi và làm giấy. Măng ăn
được, nhưng chất lượng không cao.
Cây có dáng đẹp nên có thể trồng
làm cây cảnh trong các công viên, vườn
gia đình và ven bờ nước
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Nên phát triển dùng phấn để làm
nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến
hàng mỹ nghệ từ tre trúc, nguyờn liệu
giấy. Nên phát triển dùng phấn như một
loài cây cảnh trồng trong công viên
hoặc vườn gia đình ở các thành phố và
đô thị lớn.


1. Cành mang lá; 2. Lóng và mo;
3. Phần đầu mo thân; 4. Cụm hoa
4. Hóp nhỏ - Bambusa tuldoides Munro,1868
Họ: Hòa thảo – poaceae
Công dụng
Chủ yếu để làm cây cảnh hoặc

hàng rào quanh vườn, quanh nhà. Thân
có thể dùng làm cọc, hàng rào, đan lát,
cán nông cụ, lớp vỏ ngoài cạo ra từ thân
được dùng làm thuốc chữa cảm cúm.
Thân cũng có thể dùng làm bột giấy.
Măng có vị hơi đắng nên cần luộc
kỹ trước khi ăn.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Hóp nhỏ mới chỉ được tiêu dùng ở
mức độ nhỏ, tại từng địa phương. Hóp
nhỏ là cây kén đất và cho năng suất
thấp, nên ít có triển vọng trong sản xuất
hàng hoá.


5. Hóp sào - Bambusa textilis McClure,1940
Họ: Hòa thảo – poaceae
Công dụng
Thân hóp sào thẳng, cứng nên thường
được dùng làm đòn tay, rui mè trong xây
dựng nhà cửa. Cũng có thể dùng làm cọc
móng nhà; làm dàn leo, giàn che. Thân dùng
làm sào chống cho thuyền, mảng.
Hóp sào thường được trồng thành bụi
quanh vườn nhà để làm hàng rào bảo vệ.
Măng hóp sào ăn ngon, nhưng vì kích thước
nhỏ, lượng măng ít, nên chỉ dùng cải thiện
bữa ăn trong phạm vi gia đình.
Thân hóp sào dùng làm nguyên liệu
giấy.

Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Vì hóp sào có đường kính thân nhỏ,
chiều cao không lớn, chất lượng và năng suất
măng không cao nên ít có triển vọng trong
sản xuất hàng hoá.

Hóp sào
1. Mo thân; 2. Cành mang lá;
3. Cụm hoa
6. Là ngà – Bambusa babos(L.)Voss,1896 ; Họ: Hòa thảo – poaceae.
Công dụng
Thân cây dùng làm vật liệu xây
dựng.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Là ngà là loài tre phổ biến và có
nhiều công dụng của nước ta. Tới nay
loài tre này chưa được trồng trên qui
mô lớn. Vì vậy cần phát triển gây
trồng ở các tỉnh phía Nam, từ Quảng
Nam trở vào, đặc biệt ở Tây Nguyên
và Đông Nam Bộ. Nên trồng là ngà
thành nhiều hàng ở ven sông suối để
vừa dễ khai thác, vừa bảo vệ bờ sông
chống xói lở.



Lµ ngµ
Bambusa bambos (L.) Voss
1. Mo th©n; 2. Cµnh cã gai; 3. Cµnh mang l¸;

4. BÑ l¸; 5. Côm hoa

7. Là ngà bắc - Bambusa sinospinosa McClure,
Họ: Hòa thảo – poaceae.
Công dụng
Thân dùng làm vật liệu xây dựng, làm sàn
nhà, cột buồm, cột điện, chế biến bột giấy
ống tre làm chõ đồ sôi. Măng ăn ngon và to.
Trồng làm hàng rào ngăn trâu bò và gia súc
khác hoặc trồng rừng phòng hộ ven sông suối
chống sạt lở, xói mòn bờ nước.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Là ngà bắc là loài tre có nhiều giá trị, dễ
trồng và có thể thích ứng với nhiều điều kiện
sinh thái khác nhau. Nên phát triển trồng tre
là ngà bắc ven sông suối, dọc chân đê, bờ
nước để làm cây phòng hộ, đồng thời cung
cấp thân tre và măng.



Là ngà b?c
1. Mo thân; 2. Cành mang lá;
3. Trục cụm hoa 4. Cụm hoa; 5. Một hoa
8. Lồ ô - Bambusa procera A. Chev. & A. Cam. ; Họ: Hòa thảo – poaceae.
Công dụng
Thân được dùng làm nguyên liệu tốt cho sản
xuất giấy trắng cao cấp, có độ dai cao.
Lồ ô có tỷ trọng và độ bền đáp ứng yêu cầu
trong xây dựng. Cây có lóng dài thích hợp để chế

biến ván ép. Lồ ô được dùng phổ biến từ việc
làm đồ dùng đến măng ăn.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Lồ ô là loài LSNG đặc hữu và đa tác dụng,
là một trong những loài tre quen thuộc nhất đối
với người dân các tỉnh phía Nam. Càng ngày
người ta càng tìm ra nhiều giá trị sử dụng mới
của lồ ô (làm đũa, làm ván sàn…). Vì vậy cần
phải nghiên cứu, bảo vệ và phát triển loài tre có
nhiều giá trị này. Đặc biệt chú ý khả năng gieo
trồng bằng hạt của lồ ô để phát triển chúng trên


L? ô
1. Mo thân; 2. Cành mang lá; 3. Đầu bẹ lá
4. Cụm hoa; 5. Bông nhỏ
qui mô lớn trong tương lai.
9. Lồ ô trung bộ - Bambusa balcooa Roxb.,1932 ; Họ: Hòa thảo – poaceae.
Công dụng
Thân có kích thước lớn nên có thể
dùng trong xây dựng nhà cửa, cầu cống, kết
bè mảng đánh cá; làm nông cụ hoặc ngư cụ.
Thân cũng được dùng chẻ nan để đan lát rổ
rá, dụng cụ gia đình và làm hàng xuất khẩu.
Ở ấn Độ, thân được dùng làm nguyên
liệu trong công nghiệp sản xuất giấy. Măng
ăn ngon nên được dùng khá phổ biến. ở
Bangladesh dùng lá làm thức ăn tạm thời
cho gia súc lớn.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn

Là loài tre bản địa đã thích nghi lâu đời
với khí hậu đất đai vùng chuyển tiếp giữa 2
vùng khí hậu Bắc và Nam. Có thể chọn loài
tre này làm cây trồng chính cho các chương
trình trồng rừng từ Quảng Bình vào đến
phía Bắc của Bắc Trung Bộ và Bắc Tây
Nguyên.


L? ô trung b?
1. Mo thân; 2. Cành mang lá; 3. Đầu bẹ lá
4. Cụm hoa; 5. Bông nhỏ
10. Lộc ngộc - Bambusa sp.; Họ: Hòa thảo – poaceae.
Công dụng
Thường được dùng làm cột nhà, cột điện tạm thời; Đồng bào dân tộc vùng
cao dùng thân làm máng dẫn nước; làm cầu qua suối nhỏ, cột vó bè và làm nguyên
liệu cho công nghiệp giấy sợi. Măng lộc ngộc to, ăn ngon. Lộc ngộc là loài có thân
to, vách dày và chắc nhất trong số các loài tre có đường kính thân lớn ở Việt Nam.
Đây là nguyên liệu tốt nhất để làm cột nhà.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Lộc ngộc là loài tre đa tác dụng
giống như các loài tre gai khác. Đây lại
là loài tre đặc hữa hẹp của Việt Nam.
Cây chỉ phân bố trong một khu vực,
nên cần nghiên cứu để phát triển và bảo
vệ loài tre quí này.


L?c ng?c
1. Mo thân; 2. Cành mang gai

3. Cành lá; 4. Cụm hoa
11.Lùng - Bambusa sp. ; Họ: Hòa thảo – poaceae.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Từ trước đến nay lùng chỉ được khai thác trong
rừng tự nhiên, thiếu sự chăm sóc tu bổ nên
những đám rừng ở gần, thuận tiện giao thông bị
khai thác kiệt quệ, diện tích bị thu hẹp nhiều.
Hiện nay do các khu rừng giầu có độ tàn che cao
đã bị chặt phá nhiều nên lùng mất các sinh cảnh
thích hợp để phát triển, diện tích rừng lùng đang
bị suy thoái, đặc biệt những khu rừng lùng lớn
với trữ lượng cao ở các huyện Quì Châu, Quế
Phong (Nghệ An) đã và đang bị thoái hoá mạnh.
Vì vậy cây lùng cần được nghiên cứu toàn diện,
rừng lùng cần được qui hoạch, bảo vệ và tăng
cường quản lý, khai thác đảm bảo tái sinh để
rừng lùng phát triển và tồn tại lâu dài.



Lùng
Bambusa sp.
1……….; 2……… ; 3………


Phần III.
KẾT LUẬN
1. Kết luận:
Qua quá trình nghiên cứu đã cho ta tháy được rằng:
1. Các loài cây trong nhóm cây lấy sợi ở Việt Nam , thường tập trung nhiều trong

các họ: Hoà thảo (Poaceae), họ Cói (Cyperaceae), họ Cau Dừa (Arecaceae), họ Đay
(Tiliaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Trôm (Sterculiaceae), họ Trầm (Thymeleaceae) ,
chúng có giá trị và giá trị sử dụng rất lớn;
2. Dựa theo đặc tính sinh thái, sự giống nhau về sử dụng và cách chế biến
của các loài cây có sợi, chúng tôi chia chúng làm 3 nhóm chính: Nhóm tre nứa;
Nhóm mây song và Nhóm các cây có sợi khác.
3. Tiểu luận đã bước đầu tìm hiểu 11 loài cây thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ
cây lấy sợi.
2. Kiến nghị
Cần có nhiều nghiên cứu sâu, rộng hơn về các loài cây lâm sản ngoài gỗ để có
các giải pháp quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng hợp lý nguồn lâm sản
ngoài gỗ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mộng Chân ( 1993). Quản lý bảo tồn tài nguyên thực vật rừng (Bài giảng
dùng trong trường Đại học Lâm nghiệp).
2. Võ Văn Chi và Trần Hợp ( 1999). Cây cỏ có ích ở Việt Nam (T1), Nxb. Giáo
dục, thành phố Hồ chí Minh.
3. Vũ Văn Dũng, Jenne de Beer, Phạm Xuân Phương và cộng sự ( 2002). Tổng
quan ngành lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam, Dự án sử dụng bền vững các lâm sản
ngoài gỗ, 90 tr., IUCN.
4. Trần Ngọc Hải ( 2000). Bài giảng lâm sản ngoài gỗ. Đại học lâm nghiệp.
5. Hoàng Hoè và cộng sự (1998). Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng ở Việt
Nam. Nxb. Giáo dục. Hà Nội.
6. Triệu văn Hùng (Chủ biên), 2007. Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam. Nxb. Bản đồ,
Hà Nội.
Ilin H. M. (1996). Phương pháp điều tra ngoại nghiệp nguyên liệu thực vật (bản
dịch tiếng Trung Quốc). Nxb. KHKT Bắc Kinh.
7. Phạm Nhật và cộng sự (2003). Sổ tay điều tra và giám sát đa dạng sinh học ở
các khu bảo tồn Việt Nam. Cục kiểm lâm.
8. Lê Thị Phi và cộng sự ( 2002). Nghiên cứu thị trượng lâm sán ngoài gỗ. IUCN.

9. Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia - Viện Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật (1993). 1900 loài cây có ích ở Việt Nam. Nxb. Thế giới. Hà Nội.
_________________________

×