Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Hệ thống tài chính và những góc khuất! doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.92 KB, 11 trang )

Hệ thống tài chính và những góc khuất!

Cách đây một năm, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhiều người kỳ vọng
rằng hệ thống tài chính sẽ có cơ hội đột phá để bước lên một tầm
cao mới.

Sự sôi động của thị trường chứng khoán, sự mở rộng của các
ngân hàng, các công ty chứng khoán… cho thấy dường như điều
dự đoán đang xảy ra. Tuy nhiên, nếu nhìn chi tiết hơn những thay
đổi liên quan đến bốn thành tố cơ bản của hệ thống tài chính
gồm: các thị trường tài chính, các tổ chức tài chính,các công cụ
tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính, nhất là hạ tầng mềm, có thể
thấy được nhiều góc khuất của bức tranh.

Thị trường tài chính tăng trưởng đột biến về lượng

Đối với thị trường cổ phiếu, nếu không có gì thay đổi, kết thúc
năm 2007, giá trị thị trường của gần 250 doanh nghiệp niêm yết
trên hai sàn giao dịch sẽ vào khoảng 470.000 tỉ đồng, gấp hơn
hai lần năm 2006 và bằng 41% GDP.

Nếu tính thêm Vietcombank với giá cổ phiếu bằng mức giá khởi
điểm khi IPO, cộng với Bảo Việt và Công ty Tài chính Dầu khí,
những doanh nghiệp sẽ niêm yết cổ phiếu trong một tương lai
gần, sẽ được con số gấp ba lần năm 2006 và bằng 60% GDP,
cao hơn mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
đến năm 2010.

Ở khu vực ngân hàng, tín dụng cũng có sự đột biến với tốc độ
tăng trưởng có thể lên đến 40%. Một lượng tiền gần 300.000 tỉ


đồng được đưa vào nền kinh tế, cao hơn rất nhiều nguồn vốn
được cung ứng qua kênh chứng khoán và trở thành năm các tổ
chức tín dụng cho vay nhiều nhất từ trước đến nay để đưa tổng
dư nợ tín dụng cho nền kinh tế xấp xỉ 1 triệu tỉ đồng, bằng 90%
GDP.

Trên thị trường trái phiếu, sự khởi sắc của những phiên giao dịch
đầu năm không giúp thị trường ấm lên khi mà tình trạng ế hàng
đã liên tục xảy ra ở giai đoạn cuối năm và nhiều tổ chức phát
hành phải trì hoãn kế hoạch của mình. Thêm vào đó, 2007 có lẽ
lại là một năm không thành công đối với ngành bảo hiểm.

bank01.jpgNhư vậy, tính toán sơ bộ, đến cuối năm 2007, dư nợ
cho vay của các ngân hàng và giá trị thị trường của các doanh
nghiệp niêm yết đã bằng 1,5 GDP, một mức tiệm cận khá gần so
với Thái Lan và Hàn Quốc. Tuy nhiên, sự nở ra của thị trường tài
chính đang bị lệch về phía tín dụng ngân hàng và cổ phiếu, trong
khi trái phiếu và bảo hiểm vẫn chưa thể cất cánh.

Các tổ chức tài chính mở rộng quá mức và xuất hiện yếu tố
không lành mạnh

Trừ thời của các hợp tác xã tín dụng, chưa bao giờ Việt Nam lại
có nhiều các tổ chức tài chính như hiện nay với hơn 80 ngân
hàng (trong nước và nước ngoài), trên 100 công ty chứng khoán
(kể cả những hồ sơ đã nộp, đang chờ cấp phép). Một con số quá
lớn so với nền kinh tế 72 tỉ đô la và chưa đến 250 công ty niêm
yết, những con số chưa bằng phân nửa Thái Lan trước khủng
hoảng năm 1997.


Bên cạnh đó, việc các tổ chức tài chính đua nhau mở rộng mạng
lưới (nhiều người nói rằng ngân hàng đang nhiều hơn khách
hàng) và xu hướng thành lập ngân hàng trực thuộc các tập đoàn
cũng là điều đáng báo động.

Sự mở rộng quá nóng nêu trên đã đặt ra thách thức rất lớn về
nguồn lực cũng như quản lý rủi ro. Sự cạnh tranh không lành
mạnh đã xuất hiện. Những diễn biến bất thường của lãi suất là
một dấu hiệu.

Trong ba quí đầu năm, cho dù các ngân hàng thừa tiền đồng và
lãi suất ngoại tệ trên thế giới giảm nhưng lãi suất trong nước (cả
tiền đồng và ngoại tệ) không những không đi xuống mà còn có
chiều hướng ngược lại với nguyên nhân là do các chi nhánh
ngân hàng mới được thành lập cần phải có nguồn vốn, kiểu gì
cũng phải giữ, thậm chí tăng lãi suất để thu hút khách hàng.

Những hiện tượng tương tự đã xảy ra ở các nước Đông Á trước
khủng hoảng năm 1997 và điều gì phải đến đã đến. Thái Lan hiện
chỉ còn 17 ngân hàng trong nước, 17 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài và 39 công ty chứng khoán và Hàn Quốc còn khiêm tốn
hơn, trong khi quy mô thị trường tài chính cũng như nền kinh tế
của họ lớn hơn Việt Nam rất nhiều.

Một điều đáng quan tâm khác là sự nhầm lẫn giữa mục tiêu có
những tổ chức tài chính mạnh làm nền tảng cho một hệ thống tài
chính phát triển và việc bán cổ phần được giá cao. Diễn tiến quá
trình IPO của Bảo Việt và Vietcombank cũng như việc dãn tiến độ
cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà nước cho thấy có vẻ như
mục tiêu thứ hai được quan tâm hơn.


Công cụ tài chính không có nhiều tiến triển

Trong khi thị trường và các tổ chức tài chính cứ lớn lên từng ngày
thì ngoài tín dụng tiêu dùng được các ngân hàng đẩy mạnh, trong
năm không có nhiều loại hình sản phẩm tài chính được triển khai.

Tệ hại hơn là việc lợi dụng khách hàng chưa hiểu rõ về cách tính
toán lãi suất và sự không rõ ràng của các quy định mà một số tổ
chức tài chính đang cho vay tiêu dùng với một lãi suất cắt cổ với
điển hình là cách tính lãi suất phẳng (flat rate). Con số khách
hàng được cung cấp chỉ là 10%, nhưng con số phải trả thực tế
trên 18% một năm.

Một số chính sách có thể làm tình trạng bong bóng trầm
trọng hơn

Việc nóng lên của thị trường chứng khoán, bất động sản trong
thời gian qua chủ yếu là do yếu tố kỳ vọng quá mức, do đầu cơ
nhiều hơn là thực lực của các doanh nghiệp cũng như nhu cầu
thực tế. Điều này sẽ tác động không tốt đến mục tiêu ổn định và
phát triển kinh tế dài hạn.

Về nguyên tắc, Chính phủ là người có đủ thông tin và nguồn lực
để đánh giá được tình trạng thực tế cũng như bản chất vấn đề để
đưa ra những chính sách điều chỉnh. Tuy nhiên, nhìn một số
quyết sách trong thời gian qua có vẻ như điều ngược lại đã xảy
ra khi mà tình trạng bong bóng giá cả ngày một trầm trọng
hơn.save_key_bank.jpg


Ngoài những lúng túng trong điều hành chính sách tiền tệ, kể cả
giải pháp chống lạm phát, việc trì hoãn cổ phần hóa cũng như
bán nhỏ giọt cổ phiếu của các doanh nghiệp Nhà nước ra bên
ngoài với những mức giá quá cao và việc không cho các doanh
nghiệp kinh doanh bất động sản nhận tiền ứng trước của người
mua đã làm cho sự mất cân bằng cung cầu gia tăng, kích thích
các hoạt động đầu cơ hơn là đầu tư dài hạn.

Điều này tạo ra rủi ro rất lớn vì những nhà đầu tư thực sự khó có
thể tham gia mà chỉ là những đồng tiền nóng (hot money) của các
nhà đầu cơ được đổ vào tạo ra bong bóng thị trường rồi họ rút đi
để lại hậu quả cho nền kinh tế.

Điều đáng quan tâm

Sự kỳ vọng quá mức có thể phải trả một giá rất đắt. Nhìn bối
cảnh hiện tại ở Việt Nam có thể liên tưởng đến những gì đã xảy
ra tại các nước láng giềng vào đầu những năm 1990. Khi tiến
trình mở cửa diễn ra mạnh mẽ, Thái Lan cũng như một số nước
Đông Nam Á đã đạt được một tốc độ tăng trưởng nhanh trong
nhiều năm để tạo ra sự “thần kỳ Đông Á”.

Tất cả mọi thứ như: chứng khoán, ngân hàng, bất động sản…
đều bùng phát và đẩy kỳ vọng của công chúng đi quá xa. Sự lạc
quan xuất hiện trong ánh mắt của hầu hết mọi người.

Điểm “ấn” để khủng hoảng xảy ra là việc mở cửa tài khoản vốn.
Khi mở cửa, các nước đều mong muốn có được những kết quả
tốt đẹp. Lúc đó người Thái, người Malaysia cũng như người
Indonesia đã mường tượng đến cảnh Bangkok, Kuala Lumpur

hay Jarkata sẽ trở thành một mắt xích trong chuỗi thị trường tài
chính toàn cầu.

Tuy nhiên, điều ngược lại đã xảy ra. Hơn 10 năm trôi qua, những
di chứng của cuộc khủng hoảng không chỉ đẩy nền kinh tế của
một số nước rơi vào trì trệ mà còn là những bất ổn chính trị triền
miên.

Những gì đang xảy ra ở Tp.HCM không khác lắm so với Bangkok
cách đây 15 năm. Tình trạng kẹt xe ngày một trầm trọng hơn, thị
trường chứng khoán lên cơn sốt, cầu về thuê văn phòng và căn
hộ tăng cao chưa từng thấy làm cho các dự án bất động sản đua
nhau mọc lên.

Chỉ số chứng khoán của Thái Lan đã lên đến 1753 điểm vào đầu
năm 1994, để rồi tuột dốc sau đó. Liệu Việt Nam có tránh được
vết xe đổ này? Điều gì sẽ xảy ra với thị trường cho thuê văn
phòng và căn hộ ở Tp.HCM hay Hà Nội nếu đột ngột năm ba
ngàn văn phòng đóng cửa và năm ba chục ngàn người không có
nhu cầu thuê căn hộ hoặc phải chuyển xuống ở mức thấp hơn khi
thu nhập bị giảm?

Ví dụ giờ đây mỗi năm có mấy trăm chi nhánh ngân hàng, hàng
trăm các tổ chức tài chính mới ra đời sẽ tạo ra một lượng cầu về
nhân lực rất lớn, nhưng nếu số lượng nêu trên đột ngột thu hẹp
hoạt động thì hàng ngàn lao động sẽ dôi dư là điều khó tránh
khỏi. Thực ra, tốc độ kẹt xe cũng như sự nóng lạnh của thị
trường không phải là cấp số cộng mà là cấp số nhân. Căng
nhanh thì xẹp cũng nhanh.


Tham gia vào sân chơi toàn cầu là điều kiện tốt để có thể tận
dụng được các lợi thế nhằm bước lên một tầm cao mới, nhưng
sự kỳ vọng quá mức cộng với những chính sách không hợp lý có
thể mang đến thảm họa.

Điều quan trọng là cần hiểu rõ bản chất của cuộc chơi để có
những quyết sách phù hợp, chứ không nên vì sự hào nhoáng bên
ngoài mà có những quyết sách ảnh hưởng đến mục tiêu phát
triển bền vững.

×