Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Hệ thống tài chính và vai trò của hệ thống tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.62 KB, 33 trang )


I) CÁC QUAN ĐIỂM VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1. quan điểm 1 :
1.1 Hệ thống tài chính và vai trò của hệ thống tài chính
Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá
trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài
chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp
hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không
phải là một hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên
tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất
đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này
luôn có mối liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài
chính.
Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một
cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực
khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất
định.
Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra
nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài
chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính
thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo
nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội.
1.2 Cấu trúc của hệ thống tài chính.
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận
dẫn vốn bao gồm: Tài chính doanh nghiệp, Ngân sách Nhà nước, thị trường
tài chính và các tổ chức tài chính trung gian, tài chính dân cư và các tổ chức
xã hội, tài chính đối ngoại
Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính được tạo ra, đồng
thời cũng là nơi thu hút trở lại nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ và phạm

vi khác nhau. Trong hoạt động kinh tế, các tụ điểm vốn này có mối liên hệ


thường xuyên với nhau thông qua những mối quan hệ nhất định.
1.2.1. Tài chính doanh nghiệp.
Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi thu hút
trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. trong hệ thống
tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái
tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy nó có khả năng tác động rất lớn đến đời
sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài chính
doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài
chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác
nhau, quá trình kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán. mỗi
quan hệ đều có những nét khác biệt và có những tác động khác nhau đến tài
chính doanh nghiệp. Chính sự đa dạng này phản ánh mối quan hệ giữa tài
chính doanh nghiệp với các bộ phận khác trong hệ thống tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính doanh
nghiệp thể hiện ở chỗ: nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo
cơ chế kinh doanh hướng tới lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn
tài chính được tăng cường và mở rộng không ngừng, đáp ứng tốt nhu cầu về
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2.2.Ngân sách Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước ngắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước,
đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà
nước thực hiện được nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện của nền Kinh tế
thị trường. Ngân sách Nhà nước còn có vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô
của nền kinh tế – xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều
tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.. Để thực hiện
được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn được tập
trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu thích hợp. Ngân sách

Nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên và chi đầu tư
kinh tế. Việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước cho các mục đích khác nhau

sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn. Như vậy hoạt động thu –
chi của Ngân sách Nhà nước đã làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa
nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp dân cư, nhà nước với
các nhà nước khác. Các mối quan hệ kinh tế giữa một tụ điểm vốn quan
trọng: Ngân sách Nhà nước với các bộ phận khác của hệ thống tài chính.
1.2.3. Tài chính dân cư và các tổ chức xã hội
Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài
chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta
những năm gần đây đã chỉ ra rằng: nếu có những biện pháp thích hợp, chúng
ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ các hộ gia đình để
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào
việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của nhà
nước.
1.2.4. Tài chính đối ngoại
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hoá thì hệ
thống tài chính cũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối
ngoại hết sức phong phú. Trên thực tế, những quan hệ này không tập trung
vào một tụ điểm nhất định mà chúng phân tán, đan xen vào các quan hệ tài
chính khác. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt quan trọng của
quan hệ tài chính đối ngoại cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một bộ
phận tài chính có tính chất độc lập tương đối. Với những kênh vận động của
tài chính như viện trợ, thanh toán xuất nhập khẩu... nếu chỉ đứng trên góc độ
của từng tụ điểm vốn ở trong nước để xem xét thì hoạt động tài chính đối
ngoại được xem như là một trong số các biện pháp để huy động nguồn thu
cho Ngân sách Nhà nước (qua viện trợ, vay nợ từ nước ngoài), huy động vốn
của các doanh nghiệp (qua liên doanh, góp vốn cổ phần)... đối với hoạt động

tài chính đối ngoại phải đứng trên góc độ tổng hợp, toàn cục để xem xét,
nghiên cứu. Khi đó các mối quan hệ cụ thể, cục bộ sẽ hoà nhập vào một tụ
điểm duy nhất và quan hệ tài chính sẽ xảy ra giữa hai tụ điểm lớn, đó là quan

hệ giữa tài chính quốc gia và tài chính quốc tế và hoạt động tài chính quốc tế
cũng có những nét đặc thù riêng và chịu sự tác động của những quy luật biến
động tài chính quốc tế.
1.2.5. Thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian
Hoạt động của thị trường tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ những
người có vốn sang những người cần vốn thông qua hoạt động tài chính trực
tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực tiếp được thực hiện bằng cách những người cần
vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ phiếu hoặc thực hiện các món
vay thế chấp. Những người có vốn sẽ sử dụng tiền vốn của mình để mua vào
các công cụ nợ hoặc các cổ phiếu đó. Như vậy, vốn đã được chuyển từ người
có vốn sang người cần vốn một cách trực tiếp. Với chức năng này, thị trường
tài chính có chức năng thu hút mọi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển
kinh tế, làm nâng cao hiệu quả chung của toàn nền kinh tế và cải thiện mức
sống của người tiêu dùng ngay cả khi khả năng thực tế về tài chính của họ
chưa cho phép.
Trong hệ thống tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn
thông qua hoạt động tài chính gián tiếp. Trước hết các trung gian tài chính
huy động vốn từ những người có vốn (người tiết kiệm) bằng nhiều hình thức
để tạo thành vốn kinh doanh của mình. Sau đó, sử dụng vốn kinh doanh này
để cho người cần vốn vay lại hoặc thực hiện các hình thức đầu tư khác. Bằng
cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được các nguồn vốn nhỏ, từ
các hộ gia đình các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp ứng nhu
cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến những khối lượng
vay lớn, từ những cá nhân chưa từng ai biết đến tới những công ty lớn có
tiếng trên thị trường. Chính vì vậy, các trung gian tài chính đã đáp ứng được

những nhu cầu mà thị trường tài chính không giải quyết được, hoặc giải
quyết không có hiệu quả. Tuỳ theo lĩnh vực và phạm vi hoạt động, các trung
gian tài chính được chia thành các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính trung gian phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, quỹ trợ cấp, công ty

tài chính...
2.1 Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ
Tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ có 5 Ngân hàng
thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương
mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài,
Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo
hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư... Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị
trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị
trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có các
NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm...
Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể hiện tập
trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng
Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 6-
2002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản,
vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất
nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường
đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất
huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng.
Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân hàng Nhà
nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi phí đầu
vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy động
vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi suất
cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn.
Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các TCTD trên
thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét.

Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các TCTD,
với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương

tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và Tổ
chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay
của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau
trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền
tệ phát triển.
3.1 Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn:
Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các
tổ chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư.
Trong thời gian gần đây, các Tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức sau:
- Cạnh tranh khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử
dụng thẻ... Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoảng trên 1.300.000
tài khoản cá nhân, trong đó có khoảng trên 750.000 tài khoản của các chủ
thể.
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội.
Giữa các TCTD cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc nhà nước, bảo hiểm
xã hội Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn
thông, điện lực...
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền
thống giữa các TCTD và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách
hàng, một số ngân hàng thương mại đưa ra dịch vụ: gửi một nơi lĩnh nhiều
nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gắn với bảo
hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiến gửi càng cao thì lãi suất
càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách được chủ động rút tiền ra bất cứ
lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ
hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng...
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu... chủ yếu là huy
động vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn.
Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu
hút tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài

chính thực hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút
tiền gửi, huy động vốn.

Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là
chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư
vào hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua
ngân hàng hay rút tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lức nào có nhu cầu. Đây là
nguồn vốn rất lớn và rất quan trọng, tạo đà cho phát triển thị trường tiền tệ,
bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, gia tăng vốn khả dụng cho
các TCTD.
4.1 Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán:
Sau một thời gian xây dựng và phát triển, đến nay đã có trên 100 công ty
niêm yết cổ phiếu và một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm
giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ
thống ngân hàng tiếp tục đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường
chứng khoán, với hầu hết trong số gần 50 công ty kinh doanh chứng khoán
đang hoạt động là trực thuộc các ngân hàng thương mại, với đa dạng các
nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán
chứng khoán... Hầu hết các công ty này đều kinh doanh có hiệu quả. Một số
công ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ phiếu của một số NHTM cổ phần phát
hành mới tăng thêm vốn điều lệ.
NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của
NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều
NHTM cổ phần đã sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán. Được biết hiện nay NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín đã
có đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vấn đề này.
Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng
khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần đã giao dịch
đơn lẻ, không chính thức trên thị trường phi tập trung OTC. Mệnh giá cổ
phiếu của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần đến 2,5 lần

so với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều ngân hàng
thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính quốc tế và
ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần, chuyển giao công nghệ ngân
hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng thương mại cổ phần.
Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
đang triển khai bước đầu tiên cổ phần hóa. Tổng giá trị cổ phiếu phát hành

trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để tăng vốn điều lệ vào khoảng
1.000 tỷ đồng.
Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch và niêm yết
trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao dịch chủ
yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam. Tiếp theo đó sẽ là Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu
Long và Ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị được cổ phần
hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán
sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam.
5.1 Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở nước ta
Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung thị
trường này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự
đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của
NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác
động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc
biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín
dụng cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo
nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát
triển Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của

các NHTM là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung
tâm giao dịch chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành
cổ phiếu lần đầu trên Trung tâm, cũng như tới đây sẽ có thêm một số Công
ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc
đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh hơn nữa.
Song cho đến thời điểm này, mới chỉ có gần 100 công ty cổ phần niêm yết
cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là
quá ít, tạo ra sự nghèo nàn hàng hóa trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu
của các NHTM chưa được niêm yết và giao dịch cũng phần nào hạn chế tính
sôi động của thị trường. Tính thanh khoản của thị trường chưa cao. Thông
tin chưa thật sự minh bạch.
6.1 Nguyên nhân của tình trạng trên:

Ngân hàng TW chưa thực sự mạnh, năng lực điều hành chính sách tiền tệ và
vận hành nghiệp vụ NHTW còn hạn chế. Họat động dịch vụ của các NHTM
và TCTD chưa phát triển. Tiến trình cơ cấu lại các NHTM chưa đạt được
các kết quả như dự kiến, đặc biệt là xử lý nợ xấu đang có xu hướng gia tăng
trở lại. Việc tăng vốn điều lệ để đảm bảo tỷ lệ an toàn theo thông lệ quốc tế.
Tiến trình cổ phần hóa DNNN nói chung, cổ phần hóa NHTM Nhà nước nói
riêng còn rất chậm, đây cũng là lực cản cho sự phát triển thị trường chứng
khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Hội đồng quản trị các NHTM cổ phần
có tư tưởng chần chừ, chậm đưa cổ phiếu của các NHTM cổ phần của mình
niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán, cũng làm chậm tiến trình
nói trên.
7.1 Giải pháp và kiến nghị cho phát triển thị trường tài chính ở nước ta
trong thời gian tới:
Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng
như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh
tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng
các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó. Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như

không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập,
thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng
lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ,
làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả
năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính,
tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị
trường chứng khoán. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau:
- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán
Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần đầu tiên
niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ,
trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn
ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của
NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập
trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá NHTM và một số giải pháp
khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM NN đầu tiên theo kế
hoạch.

- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu
Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các
phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn
nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời
hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay
cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần
và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị
trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo
hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng
lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như
hiện nay.
- Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín

dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó
tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các
dạng khác của thị trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành.
- NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can
thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi
suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng
hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên
thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn
nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ
hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư
cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách
hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng
thương mại cần nhằm tới thu hút./.
2. Quan điểm 2: Căn cứ theo vai trò kiểm soát của nhà nước , đặc biêt là
kiểm soát với lãi suất thì: hệ thống tài chính chia thành hai mô hình là hệ
thống tài chính được kiểm soát và hệ thống tài chính tự do.
*Hệ thống tài chính được kiểm soát:

+ Đặc trưng:
-Lãi suất ngân hàng được ấn định, kiểm soát chặt chẽ và gần như cố định.
-Tỉ lệ dự trữ bắt buộc cao.
-Tông tại tình trạng phân bổ và chỉ định tín dụng.
- Không tồn tại yếu tố cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng độc quyền bởi nhà
nước.
-Sự can thiệp và kiểm soát của nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng thuộc
sở hữu nhà nước là điều kiện để kiểu hệ thống tài chính này tồn tại và phát triển.
+Mục đích: ổn định kinh tế, hướng dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên phát triển.
+Nơi áp dụng: một số nước đang phát triển và nền kinh tế đang chuyển đổi.

+Ưu điểm:
-ổn định kinh tế vĩ mô.
-Thâm hụt ngân sách thấp.
+Hạn chế:
-lãi suất thực âm.
-Các tài sản tài chính k có tính lỏng hoặc tính lỏng thấp.
-Gây sự khác biệt về lãi suất tín dụng.
-Gây nên tình trạng tập trung đầu tư vào các tài sản không bị ảnh hưởng bởi lạm
phát: vàng, bất động sản.... nên gây nên tình trạng thếu vốn đầu tư phát triển khinh
tế.
-Gây ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước.
-Nhà đầu tư phải dựa vào phần lớn vốn tự có để kinh doanh.
Ở Việt Nam: hoạt động theo nguyên tắc này gồm có:

- ngân hàng nhà nước Việt nam: hoạt động nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp
phần đảm bảo an toàn hoạt đọng ngân hàng và hệ thống tín dụng, thúc đẩy kinh tế
phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa thông qua các chính sách.
-Quỹ bảo hiểm xã hội.
- Ngân hàng chính sách xã hội.
- quỹ tín dụng trung ương.
......
Ví dụ:
Lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước được duy trì trong 1 khoảng thời gian và
do ngân hàng ấn định.

Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
9%
2868/QĐ-NHNN
29/11/2010
01/12/2010

9%
"2619/QĐNHNN
05/11/2010"
05/11/2010
8%
2561/QĐ-NHNN
27/10/2010
01/11/2010
8% 2281/QĐ-NHNN 27/9/2010 01/10/2010
8% 2024/QĐ-NHNN 25/8/2010 01/09/2010
8% 1819/QĐ-NHNN 27/7/2010 01/08/2010
8% 1565/QĐ-NHNN 24/6/2010 01/07/2010
8% 1311/QĐ-NHNN 31/5/2010 01/06/2010
8% 1011/QĐ-NHNN 27/4/2010 01/05/2010
8% 618/QĐ-NHNN 25/03/2010 01/04/2010
8% 353/QĐ-NHNN 25/2/2010 01/03/2010
8% 134/QĐ-NHNN 25/01/2010 01/02/2010
8%/năm
2665/QĐ-NHNN
25/11/2009
01/12/2009
7%
2459/QĐ-NHNN
28/10/2009
01/11/2009
7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009
7% 2024/QĐ-NHNN 26/8/2009 01/09/2009
7% 1811/QĐ-NHNN 30/7/2009 01/08/2009
7% 1539/QĐ-NHNN 30/6/2009 01/07/2009
7% 1250/QĐ-NHNN 22/5/2009 01/06/2009

7% 1015/QĐ-NHNN 29/4/2009 01/05/2009
7% 626/QĐ-NHNN 24/03/2009 01/04/2009
7% 378/QĐ-NHNN 24/02/2009 01/03/2009

×