Tải bản đầy đủ (.doc) (169 trang)

de thi trac nghiem tu luan on vao 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.47 KB, 169 trang )

Đề số 1
I. trắc nghiệm
1. Khái niệm văn bản nhật dụng chủ yếu đề cập tới
chức năng, đề tài và tính cập nhật của nội dung văn
bản chứ không phải là một khái niệm thể loại. Hãy
chọn Đúng hoặc Sai cho nhận định trên.
A. Đúng B. Sai
2. Nối tên văn bản ở cột A với phơng thức biểu đạt ở
cột B để có đợc kết luận chính xác nhất về hình thức
của mỗi một văn bản nhật dụng.
A B
Đấu tranh cho một thế giới hoà bình Tự sự và
miêu tả
Ôn dịch, thuốc lá Thuyết minh, nghị
luận và biểu cảm
Ca Huế trên sông Hơng Thuyết minh và
miêu tả
Cuộc chia tay của những con búp bê Nghị luận và
biểu cảm
3. Điền cụm từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn chỉnh
nhận định :
"Khi học văn bản nhật dụng, nhất thiết phải liên hệ
với ".
4. Trong văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh", cốt lõi
của phong cách Hồ Chí Minh là gì ? Hãy chọn đáp án
đúng nhất.
A. Vẻ đẹp của sự hiểu biết sâu rộng.
B. Vẻ đẹp của lối sống giản dị, thanh đạm.
C. Vẻ đẹp văn hoá với sự kết hợp hài hoà giữa tinh
hoa văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.
D. Vẻ đẹp của một lối sống hiện đại.


II. tự luận
Em có suy nghĩ gì về ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc của thế hệ trẻ Việt Nam ?
Đề số 2
I. trắc nghiệm
1. Trong các yêu cầu sau, yêu cầu nào là yêu cầu cao
nhất của văn bản nhật dụng ? Khoanh tròn vào đáp án
đúng nhất.
A. Tính văn chơng B. Tính thẩm mĩ
C. Tính mới lạ D. Tính cập nhật
2. Trong các văn bản sau, văn bản nào không phải là
văn bản nhật dụng ? Khoanh tròn vào đáp án đúng.
A. Mẹ tôi
B. Bức th của thủ lĩnh da đỏ
C. Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới
D. Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000
3. Chọn Đúng hoặc Sai cho nhận định sau : Văn bản
nhật dụng có thể sử dụng mọi thể loại, mọi kiểu văn
bản.
A. Đúng B. Sai
4. Những nội dung cụ thể sau tơng ứng với những
phần nào trong bố cục của văn bản "Tuyên bố thế giới
về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của
trẻ em". Hãy điền tên từng phần vào trớc dấu hai
chấm và sắp xếp lại các phần theo trật tự đúng nh
trong văn bản.
A. : Nêu lên thực tế cuộc sống
của trẻ em trên thế giới hiện nay: khổ cực về nhiều
mặt, tình trạng bị rơi vào hiểm hoạ.
B. : Những điều cần phải làm

của từng quốc gia và cộng đồng thế giới, vì sự sống
còn, phát triển của trẻ em.
C. : Khẳng định những điều kiện
thuận lợi cơ bản để cộng đồng quốc tế có thể đẩy
mạnh việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
II. tự luận
Khủng bố đang diễn ra hàng ngày tại một số nớc
và có nguy cơ bùng nổ trên toàn thế giới. Những suy
nghĩ của em về vấn đề này ?
Đề số 3
I. trắc nghiệm
1. Các văn bản nhật dụng ở lớp 8 và lớp 9 đã đề cập
tới những vấn đề nào trong các vấn đề sau đây ?
Khoanh tròn vào đáp án đúng.
A. Môi trờng
B. Văn hoá
C. Dân số và tơng lai loài ngời
D. Quan hệ giữa con ngời và thiên nhiên
E. Giáo dục
G. Quyền sống của con ngời
H. Bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh
I. Hội nhập thế giới và giữ gìn bản sắc dân tộc
K. Danh lam thắng cảnh
2. Hội nhập với thế giới và giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc là nội dung của văn bản nhật dụng nào ?
3. Điền từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn chỉnh kết
luận về thể loại của văn bản "Đấu tranh cho một thế
giới hoà bình" :
"Về thể loại, văn bản này thuộc
loại ".

4. Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em
đợc công bố vào ngày, tháng, năm nào ?
II. tự luận
Có rất nhiều bạn nhỏ bằng tuổi em nhng phải rời
nhà ra kiếm sống ở các thành phố. Suy nghĩ của em
về vấn đề này ?
Đề số 4
I. trắc nghiệm
1. Đề cập, bàn luận, thuyết minh, miêu tả, đánh giá
những vấn đề, những hiện tợng gần gũi, bức thiết đối
với đời sống trớc mắt của con ngời và cộng đồng, là
biểu hiện cho tính chất gì của văn bản nhật dụng ?
2. Hãy sắp xếp lại hệ thống luận cứ trong văn bản
"Đấu tranh cho một thế giới hoà bình" (G.Mac-ket)
sao cho chính xác nhất với cách trình bày của tác giả.
A. Cuộc chạy đua vũ trang làm mất đi khả năng
cải thiện đời sống cho hàng tỉ ngời.
B. Kho vũ khí hạt nhân đang đợc tàng trữ có khả
năng huỷ diệt cả trái đất và các hành tinh khác trong
hệ mặt trời.
C. Tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn
cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới
hoà bình.
D. Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí
của loài ngời mà còn ngợc lại với lí trí của tự nhiên,
phản lại sự tiến hoá.
3. Chọn Đúng hoặc Sai cho nhận định sau : Bài học
quan trọng đợc rút ra từ văn bản "Phong cách Hồ Chí
Minh" là : cần phải hoà nhập với khu vực và quốc tế
nhng cũng cần phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân

tộc.
A. Đúng B. Sai
II. tự luận
Một số ngời làm cha, làm mẹ thờng xuyên đánh
đập, chửi mắng con cái và cho rằng : "thơng cho roi
cho vọt"
Hãy trình bày những suy nghĩ của em về hiện tợng
này.
Đề số 5
I. trắc nghiệm
1. Điền từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn chỉnh một
khái niệm từ loại Tiếng Việt.
" là những từ chuyên đi kèm
một từ ngữ trong câu để nhấn mạnh hoặc biểu thị thái
độ đánh giá đối với sự vật, sự việc đợc nói đến ở từ
ngữ đó".
2. Trong câu thơ sau sử dụng biện pháp tu từ nào ?
Khoanh tròn vào đáp án đúng.
"Bà về năm đói làng treo lới
Biển động, Hòn Mê giặc bắn vào"
(Mẹ Tơm - Tố Hữu)
A. ẩn dụ B. Hoán dụ
C. Cờng điệu D. Nói giảm, nói tránh
3. Điền các từ còn thiếu vào chỗ trống trong đoạn văn
sau :
"Nguyên Hồng (1918 - 1982) tên khai sinh
là ,quê ở thành
phố Trớc Cách mạng, ông sống
chủ yếu ở thành phố cảng , trong
một xóm lao động nghèo.

" " là tập hồi kí
kể về tuổi thơ cay đắng của tác giả. Đoạn trích
" " là chơng IV
của tác phẩm.
4. Trong bài thơ "Nhớ rừng" (Thế Lữ) sự tơng phản,
đối lập gay gắt giữa hai thế giới, hai cảnh tợng : vờn
bách thú chật hẹp và núi rừng hùng vĩ có ý nghĩa thể
hiện điều gì ? Khoanh tròn vào đáp án đúng nhất.
A. ý thức của nhân vật trữ tình về sự thiếu thống
nhất của hiện thực.
B. Nỗi bất hoà sâu sắc với thực tại và niềm khao
khát tự do mãnh liệt của nhân vật trữ tình.
C. Sự phủ nhận cuộc sống trớc mắt của nhân vật
trữ tình.
D. Mơ ớc đợc "tháo cũi sổ lồng" để sống với
những gì mình mong muốn của nhân vật trữ tình.
II. tự luận
Nạn phá rừng đang ngày càng trở nên nghiêm
trọng. ý kiến của em về vấn đề này.
Hớng dẫn trả lời
Đề số 1
I. trắc nghiệm
Câu 1 : A
Câu 2 :
A B
Đấu tranh cho 1 thế giới hoà bình Nghị luận và
biểu cảm
Ôn dịch, thuốc lá Thuyết minh, nghị
luận và biểu cảm
Ca Huế trên sông Hơng Thuyết minh

và miêu tả
Cuộc chia tay của những con búp bê Tự sự và
miêu tả
Câu 3 : Thực tiễn cuộc sống
Câu 4 : C
II. tự luận
Dàn bài
Mở bài:
Đất nớc đang trong quá trình hội nhập quốc tế, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề quan trọng, ý
thức của thanh thiếu niên Việt Nam trong vấn đề này
là điều rất đáng quan tâm suy nghĩ.
Thân bài:
1. ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh
thiếu niên Việt Nam đợc biểu hiện ở nhiều phơng
diện : cách sống, lối sống, quan niệm, suy nghĩ, ở
hoạt động, nói năng, ăn mặc, ứng xử
Qua những biểu hiện trên, có thể thấy rõ ý thức giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thanh thiếu niên Việt
Nam là nh thế nào ?
2. Xem xét nguyên nhân của vấn đề này phải nhìn ở
cả 2 mặt : khách quan và chủ quan. Khách quan là sự
tác động của môi trờng sống, của bối cảnh thời đại.
Chủ quan là bản thân sự vận động trong t duy của đối
tợng : các thanh niên, thiếu niên đã quan tâm, suy
nghĩ ở mức độ nào về vấn đề này.
3. Với một ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc nh
vậy, thanh thiếu niên Việt Nam đang tác động nh thế
nào đến bộ mặt văn hoá dân tộc, đang để lại một kết
quả ra sao cho tơng lai, đặc biệt là trong bối cảnh quá

trình hội nhập quốc tế đang diễn ra sôi động.
4. Xã hội, gia đình, bản thân mỗi thanh niên, thiếu
niên nên làm gì để góp phần khẳng định bản sắc văn
hoá Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Kết bài:
Bản sắc văn hoá là cái riêng của mỗi dân tộc. Giữ
gìn cái riêng đó là trách nhiệm của mỗi công dân,
trong đó có phần quan trọng của thế hệ trẻ.
Bài viết tham khảo
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một t tởng luôn
đợc đề cao trong lịch sử xây dựng và phát triển đất n-
ớc của nhân dân Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sôi động hiện nay, đây lại càng là vấn đề quan
trọng. ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của thế
hệ trẻ, một lực lợng đông đảo và hùng hậu đang là
điều đợc quan tâm đặc biệt của xã hội.
Hơn bất kì ai, thanh niên, thiếu niên là những đối t-
ợng bén nhạy nhất với các yếu tố văn hoá. Nhìn vào
thế hệ trẻ hôm nay, đặc biệt là thành viên của thế hệ
8X, 9X ngời ta thấy biểu hiện một ý thức đối với bản
sắc văn hoá dân tộc. Thế hệ trẻ bây giờ nhanh nhạy
hơn, năng động hơn, hiện đại hơn, đó là dấu hiệu
đáng mừng, bởi nó chứng tỏ tuổi trẻ Việt Nam luôn
nắm bắt và theo kịp những yêu cầu của thời đại. Thế
nhng, hãy quan sát kĩ một chút, chúng ta sẽ thấy
trong cái năng động, hiện đại đó còn có rất nhiều điều
đáng suy ngẫm.
Đầu tiên là từ những cái dễ thấy nhất nh đi đứng,
nói năng, ăn mặc, phục trang. Xu hớng chung của
giới trẻ là bắt chớc, học theo phim nớc ngoài, theo các

diễn viên, các ca sĩ nổi tiếng. Những mái tóc nhuộm
nhiều màu, những bộ quần áo cộc cỡn, lạ mắt, những
cử chỉ đầy kiểu cách, những câu nói lẫn lộn Tiếng
Anh, Tiếng Việt đó là biểu hiện của một thứ văn
hoá đua đòi phù phiếm. Sự chân phơng, giản dị mà
lịch lãm, trang nhã vốn là biểu hiện truyền thống của
ngời Việt Nam đã không đợc nhiều bạn trẻ quan tâm,
để ý. Chạy theo những hình thức nh vậy cũng là biểu
hiện của việc quay lng lại với bản sắc văn hoá dân
tộc. ở một chiều sâu khó thấy hơn là quan niệm, cách
nghĩ, lối sống. Rất nhiều thanh, thiếu niên Việt Nam
không nắm đợc lịch sử dân tộc dù đã đợc học rất
nhiều, trong khi đó lại thuộc lòng vanh vách tiểu sử,
đời t của các diễn viên, ca sĩ ; không biết, không hiểu
và không quan tâm tới các lễ hội dân gian vốn là sinh
hoạt văn hoá truyền thống lâu đời của nhân dân trong
khi rất sành về "chát", về ca nhạc, cà phê. Ngày lễ, tết
họ đến nhà thờ hoặc vào chùa hái lộc nhng không
biết bàn thờ gia tiên đã có những gì. Họ coi sự cần
cù, chăm chỉ là biểu hiện của sự cũ kĩ, lạc hậu Tất
cả đều là biểu hiện của một sự thiếu ý thức trong giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Tiếp xúc với nhiều
công dân trẻ tuổi, ngời ta thấy dấu ấn của bản sắc
văn hoá Việt Nam là rất mờ nhạt, mà đậm nét lại là
một thứ văn hoá ngoại lại hỗn tạp. Đó là một thực
trạng đang khá phổ biến hiện nay.
Có hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
trên : nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan. Về phía khách quan, đó chính là tác động của
môi trờng sống, của bối cảnh thời đại. Thời đại đất n-

ớc mở cửa giao lu, hội nhập với thế giới cho nên văn
hoá bên ngoài theo đó mà tràn vào Việt Nam. Đâu
đâu cũng có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của một thứ
văn hoá mới, hiện đại và đầy quyến rũ. Trong một
không gian chung nh vậy, những nét văn hoá cổ
truyền của ngời Việt dờng nh đang có nguy cơ trở nên
yếu thế.
Về chủ quan, thế hệ trẻ ngày nay ít quan tâm để ý
đến vấn đề bản sắc văn hoá. Họ thiếu ý thức giữ gìn,
bởi thực chất là họ không hiểu đợc bản sắc văn hoá
dân tộc là gì và cũng không cần hiểu.
Những công dân trẻ Việt Nam sinh ra và lớn lên
trên mảnh đất Việt Nam nhng lại không giống một
ngời dân nớc Việt. Họ có bề rộng nhng thiếu chiều
sâu, chiều sâu của một tâm hồn Việt, một tính cách
Việt. Văn hoá dân tộc là cội rễ bền vững của tâm
hồn mỗi con ngời, không lớn lên và bám chắc vào
cội rễ đó, mỗi con ngời chỉ còn là một cá nhân lạc
loài giữa cộng đồng của mình. Đó là hậu quả đầu
tiên dành cho chính mỗi ngời, đặc biệt là những ngời
trẻ tuổi. Và hãy tởng tợng, nếu thế hệ hôm nay quên
đi bản sắc văn hoá dân tộc mình thì trong một tơng
lai không xa chúng ta sẽ còn lại gì ? và những thế hệ
tiếp nối sau này sẽ ra sao ? Bản sắc văn hoá là linh
hồn, là gơng mặt riêng của mỗi dân tộc, là yếu tố
quan trọng để khẳng định vị thế của dân tộc đó ở
giữa cộng đồng thế giới. Đánh mất bản sắc riêng
trong nền văn hoá của mình là đánh mất quá khứ,
mất lịch sử, mất cội nguồn và chúng ta chỉ còn là
một con số không ở giữa nhân loại. Thế hệ trẻ là

những ngời nắm giữ tơng lai của đất nớc, bởi vậy,
nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là
một điều vô cùng cần thiết.
Vậy thì cần làm gì để thực hiện đợc điều đó. Trớc
hết, là phải từ sự tự giác ý thức của mỗi ngời. Mỗi
thanh niên, thiếu niên phải thực sự thấy đợc giá trị
của văn hoá dân tộc - những giá trị đợc chắt lọc và
đúc kết từ ngàn đời, đợc gìn giữ, kế thừa qua bao
thăng trầm của lịch sử, đã và đang ăn sâu trong máu
thịt của mỗi ngời dân để dù có đi đâu, sống ở nơi nào,
con ngời đó vẫn luôn là ngời dân nớc Việt.
Gia đình, cộng đồng xã hội cũng phải chung sức,
chung lòng để tô đậm thêm nữa những giá trị văn hoá
đó trong sự trà trộn phức tạp của những luồng văn hoá
khác. Mặt khác, cũng cần phải thấy rằng, giữ gìn ở
đây không có nghĩa là kh kh ôm lấy cái đã có. Cần
phải kế thừa phát huy nhng đồng thời cũng phải phát
triển nó lên bằng cách kết hợp có lựa chọn với những
yếu tố văn hoá mới tích cực. Từ đó hình thành một
nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống, vừa hiện đại,
đa dạng, vừa thống nhất, đảm bảo đợc yêu cầu "hoà
nhập nhng không hoà tan" trong một thời đại mới.
Thực hiện điều này là trọng trách, là nghĩa vụ của
mỗi công dân, của mỗi thanh, thiếu niên hôm nay.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là đóng góp có ý
nghĩa đầu tiên cho đất nớc mà mỗi thanh thiếu niên
có thể làm và hãy làm bắt đầu từ việc điều chỉnh, uốn
nắn chính những hành vi, ý thức của bản thân mình.
Đề số 2
I. trắc nghiệm

Câu 1: D
Câu 2: C
Câu 3: A
Câu 4: A. Sự thách thức
B. Nhiệm vụ
C. Cơ hội
Sắp xếp theo trình tự : A -> C -> B
II. tự luận
Dàn bài
Mở bài :
Nền hoà bình của thế giới đang bị ảnh hởng
nghiêm trọng bởi nạn khủng bố.
Thân bài:
1. Nạn khủng bố đang lan tràn trên khắp mọi khu vực
của thế giới. Ngày nào cũng có cảnh đổ máu bởi
khủng bố. Khủng bố đang là nỗi lo chung của tất cả
các dân tộc.
2. Mâu thuẫn, xung đột chính trị giữa các quốc gia,
dân tộc, các tổ chức, phe phái là nguyên nhân của
tình trạng này.
3. Khủng bố đe doạ nghiêm trọng tới mọi mặt của đời
sống con ngời từ tính mạng đến của cải, từ vật chất tới
tinh thần, khiến nơi nơi đều bao trùm một bầu không
khí căng thẳng, hoảng loạn. Sự phát triển kinh tế,
chính trị, văn hoá của các quốc gia đều bị ảnh hởng
bởi nguy cơ khủng bố.
4. Tất cả mọi ngời, mọi quốc gia đều phải cùng thể
hiện rõ quyết tâm đẩy lùi khủng bố bằng những biện
pháp cụ thể ; bảo vệ trái đất khỏi nạn khủng bố cũng
chính là bảo vệ mái nhà chung của tất cả chúng ta.

Kết bài:
Thế giới sẽ tơi đẹp hơn nếu nh con ngời không đối
đầu và tàn hại lẫn nhau.
Bài viết tham khảo
Khát vọng lớn nhất của nhân loại từ thuở xa xa đến
giờ vẫn là khát vọng về một nền hoà bình thực sự và
vĩnh cửu. Thế nhng trong lịch sử, nhân loại cũng đã
bao lần phải chứng kiến cảnh bầu trời xanh của trái
đất trong vẩn đục bởi khói lửa chiến tranh. Hiện nay,
nạn khủng bố ở rất nhiều quốc gia trên thế giới đang
phá vỡ bầu không khí hoà bình của tất cả mọi ngời.
Từ "khủng bố" đã trở thành một từ rất quen thuộc
đối với con ngời hôm nay. Gắn liền với nó là cảnh đổ
máu tang thơng, là ngời chết, là đổ nát tan hoang, là
nỗi kinh hoàng ám ảnh bao ngời sống sót.
Các phơng tiện thông tin ngày nào cũng sẵn những
tin về những thảm cảnh nh vậy. Tai hoạ khủng bố có
thể đến với bất kì ai, ở bất cứ nơi nào : trong nhà
hàng, siêu thị, trờng học, nhà trẻ, công viên, bến xe,
máy bay Cách thức khủng bố cũng rất đa dạng : gài
bom, tấn công trực tiếp, bắt cóc con tin, đặc biệt nguy
hại là bọn khủng bố có thể sử dụng cả vũ khí sinh
học, hoá học để reo giắc thảm hoạ cho con ngời.
Khủng bố ngày càng trở nên nghiêm trọng, bởi qui
mô và mức độ tàn phá của nó. Thế giới hẳn sẽ không
bao giờ quên đợc ngày 11 tháng 9, ngày mà toà tháp
đôi chọc trời, biểu tợng cho sức mạnh và nền kinh tế
Mĩ đổ sụp xuống trong tiếng la hét kinh hoàng của
hàng ngàn ngời. Đấy là hồi chuông cảnh báo có sức
thuyết phục nhất về tội ác khủng bố. Tác giả của

những vụ khủng bố lại là những kẻ giấu mặt đang tạo
thành một tổ chức mà mạng lới của nó có mặt ở hầu
khắp các khu vực của thế giới. Bởi thế, không một ai
trên thế giới biết tai hoạ có thể sẽ đổ ập xuống đầu
mình lúc nào. Một bầu không khí lo lắng, hoang
mang đang bao trùm lên cuộc sống của toàn nhân
loại.
Đằng sau mỗi một vụ khủng bố bao giờ cũng tồn
tại một nguyên nhân. Nhng nguyên nhân bao trùm
của mọi cuộc khủng bố vẫn là những bất đồng về
chính trị, dẫn đến mâu thuẫn, xung đột dai dẳng về
chính trị, về sắc tộc, về tôn giáo trong cộng đồng thế
giới.
Hậu quả mà nạn khủng bố để lại là vô cùng
nghiêm trọng. Hàng năm, những vụ khủng bố đã cớp
đi không biết bao nhiêu sinh mạng con ngời, gây nên
cảnh đổ máu tàn khốc, cảnh cha mất con, vợ mất
chồng, gia đình, ngời thân li tán. Những ngời may
mắn sống sót thì trở thành ngời tàn phế, mang di
chứng suốt đời. Khủng bố còn làm tiêu tốn biết bao
nhiêu công sức, của cải của con ngời. Tài sản, nhà
cửa, các công trình kiến trúc mà bao ngời phải nỗ lực
trong nhiều năm tháng mới tạo dựng lên đợc chỉ trong
một tích tắc đã bị huỷ hoại hoàn toàn. Nhiều ngời bị
đầy vào cảnh không nhà, không cửa, tay trắng chỉ
trong giây phút. Kèm theo đó, nguy hiểm hơn là môi
trờng sống của trái đất bị đặt trong nguy cơ bị huỷ
diệt bất cứ lúc nào. Đây là những hậu quả tức thời tr-
ớc mắt mà ai cũng có thể nhìn thấy. Bên cạnh đó, còn
tồn tại những hậu quả lâu dài cho tơng lai loài ngời.

Khủng bố khiến cho mâu thuẫn, xung đột trên thế
giới ngày càng trở nên gay gắt quyết liệt. Khối thống
nhất, nền hoà bình mà nhân loại nỗ lực xây dựng đã
bị xâm hại và lung lay thực sự. Khủng bố cha phải là
một cuộc chiến tranh công khai trên một phạm vi
rộng nhng tiến hành khủng bố là cách tốt nhất để nuôi
dỡng mầm mống và làm bùng phát chiến tranh trên
toàn thế giới. Nhân loại sẽ nh thế nào, sẽ đi về đâu
khi chiến tranh lại bùng nổ trong lúc hậu quả của hai
cuộc chiến tranh thế giới ở thế kỉ XX hãy còn đó.
Không chỉ có vậy, nạn khủng bố lan tràn khiến tất cả
mọi ngời ở khắp nơi trên trái đất mất đi cảnh giác an
toàn, cảnh giác yên tâm trong cuộc sống. Trái đất là
ngôi nhà chung và là ngôi nhà duy nhất của loài ngời
giữa vũ trụ, thế nhng con ngời đang cảm thấy sợ khi
sống dới mái nhà của mình. Nỗi ám ảnh về khủng bố
len lỏi vào cuộc sống bình yên của mọi ngời và đang
mài mòn, thách thức sức chịu đựng của tất cả. Khả
năng huỷ hoại thần kinh loài ngời của nó còn lớn và
tai hại gấp nhiều lần khả năng làm đổ máu hay phá
huỷ tài sản.
Khủng bố, đó là kẻ thù của một nhân loại tiến bộ
và văn minh.
Cần làm gì để ngăn chặn nguy cơ này ? Các nớc
trên thế giới đều coi đây là vấn đề an ninh quốc gia và
có rất nhiều biện pháp thiết thực, cơng quyết để bảo
vệ tính mạng, tài sản cũng nh cuộc sống của ngời dân.
Tuy nhiên, vẫn cha thể hết, cha thể chấm dứt tình
trạng này. Cuộc đấu tranh với nạn khủng bố sẽ còn
kéo dài và vô cùng nan giải, bởi kẻ thù của chúng ta

cũng tựa một con quái vật khổng lồ ẩn mình trong
bóng tối, nó sẵn sàng tấn công con ngời bất cứ lúc
nào nhng không bao giờ lộ mặt. Để có thể chiến
thắng đợc, loài ngời phải xích lại gần nhau hơn nữa
và phải bắt đầu từ những việc tởng rất xa xôi : giáo
dục, hình thành cho những thế hệ tơng lai một tình
yêu hoà bình bền vững. Có nh vậy, trái đất của chúng
ta mới mãi mãi là một tổ ấm giữa dải thiên hà mênh
mông lạnh lẽo.
Thế giới sẽ tuyệt vời biết mấy nếu ngày mai sẽ
không còn bạo lực, không còn thù hằn và chết chóc !
Con ngời tàn hại lẫn nhau thực chất là đang tàn hại
chính mình ! Hãy góp một tiếng nói chung vào cuộc
chiến chống khủng bố trên toàn thế giới.
Đề số 3
I. trắc nghiệm
Câu 1: A, C, G, H, I
Câu 2: Văn bản "Phong cách Hồ Chí Minh".
Câu 3: Nghị luận.
Câu 4: 30 - 9 - 1990
II. tự luận
Dàn bài
Mở bài :
Tình trạng nhiều thiếu niên phải sớm rời mái nhà
của mình để đến những thành phố kiếm sống đã trở
thành tình trạng phổ biến.
Thân bài :
1. Số lợng trẻ em từ nông thôn đến thành thị kiếm
sống hiện nay là rất nhiều. Các em thuộc đủ mọi lứa
tuổi, làm nhiều công việc khác nhau. Cuộc sống của

các em rất vất vả, khó nhọc.
2. Nguyên nhân khiến các em phải rơi vào tình trạng
này thì rất nhiều nhng nhiều nhất vẫn là do cái nghèo.
Cái nghèo làm nảy sinh nhiều cảnh ngộ, chịu thiệt
thòi nhiều nhất từ những cảnh ngộ đó là những đứa
trẻ Bên cạnh đó còn do sự thiếu quan tâm của ngời
lớn
3. Tình trạng này sẽ dẫn đến nhiều hậu quả khó lờng,
không chỉ đối với xã hội mà đối với trớc hết là bản
thân các em. Sống xa gia đình, trong một môi trờng
phức tạp, tuổi lại còn nhỏ, chắc chắn sẽ ảnh hởng
không ít tới tâm hồn, nhận thức của các em. Từ đó mà
sẽ có tác động ngợc lại của các em đối với môi trờng
chung của xã hội.
4. Cần phải có những biện pháp, những giải pháp để
giảm thiểu và dần dần xoá bỏ tình trạng này. Đó cũng
là cách để xã hội góp tay thực hiện vấn đề quyền trẻ
em một cách thiết thực nhất.
Kết bài:
Tình trạng trẻ em lang thang kiếm sống ở thành
phố là nỗi nhức nhối chung của cả xã hội. Xã hội sẽ
văn minh hơn, công bằng và tiến bộ hơn nếu ở đó mọi
trẻ em đều đợc hởng những quyền mà các em có.
Bài viết tham khảo
Trẻ em là tơng lai của thế giới. Trẻ em sinh ra phải
đợc chăm sóc, nuôi dỡng, đợc yêu thơng, bảo vệ và
học tập đầy đủ. Đó là quyền mà bất kì đứa trẻ nào
cũng đợc hởng. Thế nhng trong thực tế thì không phải
nh vậy. Có rất nhiều bạn nhỏ khi lớn lên đã phải sớm
rời bỏ mái nhà để tìm đến kiếm sống ở những thành

phố, những khu đô thị xa lạ. Hiện tợng này không còn
là cá biệt mà đã trở thành một tình trạng phổ biến,
một vấn đề của cả xã hội.
Đặt chân đến bất kì thành phố, khu đô thị dù lớn,
dù bé nào ngời ta cũng có thể dễ dàng bắt gặp những
đứa trẻ lang thang đến từ nhiều vùng quê khác nhau.
Đó là những cô bé, cậu bé tuổi còn rất nhỏ, tâm hồn
còn rất ngây thơ, non nớt. Các em đáng lẽ phải đang ở
nhà và cắp sách đến trờng nh bao bạn nhỏ cùng trang
lứa khác, nhng lại phải một thân một mình bơn chải
kiếm sống. Các em tìm đến thành phố với mục đích
lớn nhất là kiếm tiền để nuôi sống bản thân và giúp
đỡ gia đình. Mỗi em tự tìm cho mình một công việc :
em đánh giày, em bán báo, em đi làm ngời giúp việc
trong các gia đình, các quán ăn Bất cứ việc gì làm
đợc và có ngời cần các em đều có thể làm. Việc ít,
ngời nhiều - nhiều khi phải tranh cớp, giành giật mới
kiếm đợc miếng ăn ít ỏi.
Một mình giữa nơi đông đúc, không có ngời thân
thích bên cạnh, các em phải tự lo cho mình mọi
chuyện, từ ăn uống đến chỗ ngủ qua đêm rồi khi ốm
đau bệnh tật. Cuộc sống của các em rất bếp bênh và
khổ cực, có biết bao nhiêu cay đắng, rủi ro rình rập
theo mỗi bớc chân của những đứa trẻ này. Nhìn khuôn
mặt của các em, ngời ta thấy hiện rõ sự mệt mỏi, cái
già dặn trớc tuổi bên cạnh chút hồn nhiên, non nớt
của tuổi thơ còn sót lại. Đấy là điều khiến chúng ta,
bạn và tôi, những đứa trẻ may mắn đang đợc che chở
dới mái ấm gia đình và ngày ngày cắp sách đến trờng,
không thể không suy nghĩ.

Đứa trẻ nào cũng muốn đợc yêu thơng, đợc chăm
sóc, đợc sống giữa vòng tay gia đình và bạn bè. Thế
nhng, tại sao vẫn có nhiều bạn nhỏ phải tự bớc vào
đời kiếm sống sớm đến vậy ? Nguyên nhân đầu tiên
của tình trạng này vẫn là do cái nghèo. Nơi các bạn
nhỏ này bớc chân ra đi đều là những vùng nông thôn
xa xôi. Gia đình có mỗi một nghề làm ruộng, đất thì
ít, anh chị em thì đông, đến ngày mùa đầu tắt mặt tối
mà vẫn không đủ ăn. Không có tiền đi học, các bạn
nhỏ ở nhà rồi rời nhà đi kiếm sống để bớt gánh nặng
cho gia đình. Cũng có khi là do cảnh cha mẹ không
hoà hợp, suốt ngày cãi cọ, không để ý đến con cái,
các em cũng tự bỏ nhà lên phố rồi cha mẹ li thân, li
dị, hay do mất cha, mất mẹ khiến các em không còn
chỗ dựa. Nói chung, có trăm nghìn lí do đẩy các bạn
nhỏ vào cảnh tha phơng. Đằng sau tất cả những lí do
đó vẫn phải khẳng định một điều đó là sự thiếu quan
tâm của ngời lớn. Nếu các bậc làm cha, làm mẹ biết
nghĩ cho các em nhiều hơn thì chắc chắn dù trong bất
cứ hoàn cảnh nào họ cũng sẽ không để cho con em
mình vào đời bơn chải vật lộn với miếng ăn khi còn
quá nhỏ dại nh vậy. Sống trong cảnh thiếu thốn, cảnh
không yên ổn của gia đình đã là một thiệt thòi, giờ
phải rời mái nhà đang che chở cho các em, một thân
một mình ma nắng chốn xa lạ, đó là lời cảnh báo cho
cả xã hội về vấn đề đảm bảo những quyền lợi chính
đáng cho tất cả mọi đứa trẻ.
Tình trạng trẻ em từ nông thôn ra thành phố kiếm
sống đã và đang để lại rất nhiều những hậu quả
nghiêm trọng. Sống trong một môi trờng đua chen

phức tạp, tiếp xúc với đồng tiền, với cơ chế thị trờng
quá sớm khiến nhận thức, nhân cách, tâm hồn của các
em phát triển một cách lệch lạc, không tự nhiên và
thiếu lành mạnh. Thật khó mà dám khẳng định là tất
cả những đứa trẻ đó sẽ có một tơng lai bình thờng và
và tốt đẹp. Bị ép phải già trớc tuổi, phải từ giã tuổi thơ
khi còn quá nhỏ, phải sống trong cô đơn ghẻ lạnh,
không có một bàn tay vỗ về chăm sóc, không có ngời
chỉ đờng dẫn lối ai dám đảm bảo rằng, tất cả những
em nhỏ đó sẽ đều trở thành những công dân lơng
thiện và có ích. Thực tế cho thấy nhiều đứa trẻ trong
số đó đã trở thành tội phạm trớc khi trở thành một
công dân. Chúng móc túi, cớp giật, trộm cắp, lừa đảo,
sa vào các tệ nạn xã hội và trở thành gánh nặng của
cộng đồng. Đa phần các em nhỏ khi mới rời nhà đi
đều là những đứa trẻ hiền lành, ngây thơ, chỉ sau một
thời gian đã trở thành những đứa trẻ hoàn toàn khác.
Lối sống nơi đô thị đã làm mất đi ở các em bản tính
trong sáng, hồn nhiên, vô t. Đó là những di chứng
tinh thần rất có hại cho các em khi đến tuổi trởng
thành.
Nh vậy, tình trạng trẻ em rời nhà đến kiếm sống ở
các thành phố sẽ tạo nên những hậu quả khôn lờng
đối với chính những đứa trẻ và với toàn xã hội. Cần
phải làm gì để xoá bỏ tình trạng này để trẻ em tất cả
mọi vùng miền đều đợc hởng những quyền chính
đáng mà các em có. Đây là trách nhiệm không của
riêng ai. Sự quan tâm là điều đầu tiên cần phải có. Và
trớc hết phải là từ gia đình, cha mẹ và những ngời
thân của các em. Tạo dựng cho các em một mái ấm

bình yên, cho các em một môi trờng trong lành để các
em đợc lớn lên, đợc trởng thành một cách tự nhiên,
lành mạnh là điều các bậc làm cha, làm mẹ phải làm.
Mỗi địa phơng cũng cần có những biện pháp cụ thể
để giúp những em nhỏ có hoàn cảnh đặc biệt giải
quyết những khó khăn vớng mắc. Ví nh giúp các em
có việc làm ngay trên quê hơng mình, hỗ trợ để các
em có đủ điều kiện đến trờng và rộng hơn là cả xã
hội. Dành cho các em một cái nhìn độ lợng, nhân ái,
một cử chỉ quan tâm dù là rất nhỏ bé, là mỗi ngời đã
và đang góp phần đem đến cho mỗi số phận tội
nghiệp đó những giá trị rất lớn lao.
Nhà nớc đã có nhiều hành động cụ thể để giải
quyết vấn đề này. Nh giao cho các tỉnh, các địa phơng
đa các em trở về, tạo công ăn việc làm, giúp các em
ổn định cuộc sống tại quê nhà, đợc học tập, vui chơi
nh mọi đứa trẻ khác. Việc làm này bớc đầu đã tạo nên
những biến đổi rất tích cực, rất nhiều bạn nhỏ đã yên
tâm trở về, lao động và sinh hoạt trên quê hơng mình,
tìm thấy niềm vui mới. Sự quan tâm của Nhà nớc là
rất kịp thời và thiết thực. Tuy nhiên, để chấm dứt hẳn
tình trạng này thì cần có thời gian và sự quan tâm hơn
nữa của tất cả mọi ngời trong cộng đồng.
Một xã hội không thể coi là văn minh, là công
bằng và tiến bộ khi mà ở đâu đó vẫn có nhiều đứa trẻ
bị đẩy ra đờng kiếm tiền thay cho việc đến trờng đi
học. Cho các em một quá khứ êm đềm, một hiện tại
bình yên hạnh phúc và một tơng lai đợc đảm bảo, đó
cũng là cách để tạo dựng một thế giới tốt đẹp cho tất
cả mọi ngời.

Đề số 4
I. trắc nghiệm
Câu 1: Tính cập nhật.
Câu 2: B -> A -> D -> C
Câu 3: A
II. tự luận
Dàn bài
Mở bài :
Con cái muốn trởng thành phải nhờ sự giáo dỡng
của cha mẹ. Các bậc làm cha, làm mẹ có nhiều cách
giáo dục con cái khác nhau, trong số đó có nhiều ngời
chọn cách mắng chửi, thậm chí đánh đập nh là một
biện pháp dạy dỗ tốt nhất đối với con em mình.
Thân bài :
1. Rất nhiều đứa trẻ từ những năm tháng ấu thơ cho
đến khi trởng thành hiếm khi, thậm chí cha bao giờ đ-
ợc nghe một lời bảo ban, khuyên nhủ dịu dàng của
cha mẹ. Bất kì lúc nào, trong bất cứ chuyện gì, cha
hoặc mẹ, hoặc cả cha lẫn mẹ đều có một hình thức
duy nhất đối với các em : quát tháo, mắng chửi bằng
những lời lẽ hết sức gay gắt, thô bạo ; hay nặng hơn
là dùng roi vọt và đánh đập. Biện pháp này đợc áp
dụng trong tất cả mọi việc, mọi tình huống, chỉ cần
cha mẹ không cảm thấy hài lòng, thì dù là chuyện
nhỏ nh cái nhà cha đợc sạch, quần áo cha đợc gọn
gàng, đến những chuyện lớn hơn, nh bị điểm kém, đi
học về muộn, bị cô giáo phê bình, đánh nhau, cãi
lộn cha mẹ đều ngay lập tức dạy dỗ con mình bằng
cách này. Đối với họ, đấy là cách giáo dục con cái
tốt nhất, bởi vì làm nh vậy các em sẽ sợ và không

bao giờ dám phạm lỗi nữa. Theo họ đó còn là cách
để thể hiện tình yêu thơng, bởi vì "thơng cho roi cho
vọt"
2. Thực chất, cách giáo dục này không phải là một
biện pháp tích cực và có hiệu quả. Điều này đã đợc
minh chứng bằng thực tế. Rất nhiều đứa trẻ bớc ra
khỏi những năm tháng ấu thơ với nỗi ám ảnh không
bao giờ mất về cách đối xử thô bạo của cha mẹ đối
với bản thân mình. Làm bất cứ việc gì cũng có thể bị
chửi mắng và khi lỡ phạm lỗi thì bị đánh đập thậm tệ.
Cứ ròng rã liên tục nh vậy, cuối cùng những đứa trẻ
không tiến bộ lên chút nào mà thậm chí là còn ngợc
lại : từ ngoan thành h, từ hiền thành dữ, từ thông minh
lanh lợi hoá ra lì lợm, chậm chạp Nhìn chung, có
hai xu hớng phát triển cơ bản : hoặc là quậy phá
nghịch ngợm, hoặc là trở nên trầm cảm khó gần. Trớc
mặt cha mẹ, các em dờng nh ngoan hơn, nhng thực
chất cái ngoan đó chỉ là đối phó. Thậm chí, nhiều em
đã có những phản ứng rất tiêu cực : bỏ nhà đi, hoặc tự
vẫn. Tất cả những biến đổi nh vậy đều là biểu hiện
của sự tổn thơng trầm trọng về mặt tinh thần. Đối với
những đứa trẻ này, tuổi thơ tơi đẹp trở thành những
năm tháng u ám kinh hoàng ; tổ ấm gia đình có thể
trở thành địa ngục trần gian và cha mẹ trong mắt các
em là những con ngời nào đó hết sức xa lạ và độc
đoán. Các em mất đi cảm giác đợc yêu thơng, che
chở, lúc nào cũng thon thót lo sợ và lâu dần có thể trở
nên trơ lì. Đó là điều rất nguy hiểm, bởi lẽ nó sẽ để
lại một dấu ấn trong nhân cách, tâm hồn của các em
sau này.

Giáo dục con cái bằng cách này sẽ để lại những
hậu quả lớn, không chỉ đối với trớc mắt mà còn là về
lâu dài trong tơng lai của các em, của xã hội.
3. Cha mẹ, ai cũng yêu thơng con cái, ai cũng muốn
những đứa con của mình trởng thành nên ngời. Thế
nhng, giáo dục con cái nh thế nào để các em vừa cảm
nhận đợc tình yêu thơng đó vừa có sự tiến bộ trong
nhân cách là điều rất quan trọng. Đứa trẻ nào cũng có
thể dễ dàng mắc sai lầm. Và đằng sau mỗi sai lầm đó
bao giờ cũng có một nguyên nhân, một lí do. Cha mẹ
muốn dạy dỗ các em một cách có hiệu quả thì phải
bắt đầu từ những nguyên nhân đó. Tìm hiểu nguyên
nhân, phân tích cặn kẽ phải trái, khuyên răn nhẹ
nhàng nhng cơng quyết, thêm một chút cảm thông độ
lợng thiết nghĩ không có đứa trẻ nào mà lại không
nghe, không trở nên tiến bộ. Kiềm chế cơn nóng giận
là điều quan trọng khi giáo dục trẻ em. Nhiều đứa trẻ
rơi vào cảm giác oan ức, rồi đâm ra oán giận cha mẹ
vì họ không bao giờ để ý đến nguyên nhân vì sao các
em làm nh vậy mà ngay lập tức xỉ vả, thợng cẳng
chân hạ cẳng tay cho hả cơn giận mà thôi.
"Thơng cho roi cho vọt", điều đó không có nghĩa
là bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng bạo lực đối với
trẻ em. Đến một mức độ nào đó, chính những ngời
làm cha, làm mẹ đã và đang xâm phạm đến quyền trẻ
em ngay trong gia đình của mình - điều mà cả xã hội
đang quan tâm và bảo vệ.
Kết bài :
Cha mẹ luôn là hiện thân của tình yêu thơng, của
lòng nhân từ bao dung, là nơi những đứa con tìm về

sau những sai lầm vấp ngã. Đừng làm mất đi trong
các em tất cả những điều quí giá và thiêng liêng ấy.
Đề số 5
I. trắc nghiệm
Câu 1: Trợ từ.
Câu 2: D
Câu 3: Lần lợt là các từ sau : Nguyễn Nguyên Hồng,
Nam Định, Hải Phòng, Những ngày thơ ấu, Trong
lòng mẹ.
Câu 4: B
II. tự luận
Dàn bài
Mở bài :
Con ngời đã nỗ lực để tạo nên rất nhiều những
giá trị có ý nghĩa để làm giàu đẹp thêm cuộc sống của
mình. Thế nhng bên cạnh đó cũng chính con ngời
đang tự huỷ hoại đi rất nhiều những giá trị mà mà
mình đang có. Nạn phá rừng là minh chứng tiêu biểu
nhất. Đã đến lúc tất cả chúng ta không thể dửng dng
trớc vấn đề này.
Thân bài :
1. Rừng đợc ví là lá phổi xanh của trái đất. Thế nhng,
lá phổi này đang ngày càng nhỏ đi. ở Việt Nam, hàng
năm có hàng chục ngàn ha rừng bị phá huỷ. Những
cánh rừng xanh thẫm, những khu rừng nguyên sinh
giàu có giờ chỉ còn là vùng đất trống đồi trọc, phơi ra
những gốc cổ thụ trơ trọi, những thảm thực vật cằn
cỗi. Những xe gỗ vẫn lặng lẽ đều đặn di chuyển về
xuôi và những cánh rừng cũng lặng lẽ biến mất, để lại
những khoảng trống ngày càng lớn trên bề mặt trái

đất của chúng ta.
2. Rất dễ thấy nguyên nhân của vấn đề này. Ngời ta
chặt rừng để lấy gỗ bán và lấy đất canh tác. Rừng bảo
vệ che chở cho con ngời nhng đang bị tàn phá bởi
chính lòng tham và sự thiếu ý thức, thiếu nhận thức
của con ngời.
3. Khi những cánh rừng bị tàn phá và biến mất, hậu
quả không hiện ra cụ thể và ngay lập tức. Nó sẽ đến
rất từ từ, nhng sẽ rất lâu dài và khủng khiếp.
Rừng trả lại cho trái đất một bầu không khí trong
lành. Hiện nay, bầu không khí đang bị ô nhiễm và vẩn
đục bởi bộ máy thanh lọc nó đang trở nên yếu đi. Hạn
hán, lũ lụt, thiên tai ngày càng tăng cũng bởi một
phần từ đó.
Rừng bị tàn phá dẫn đến hiệu ứng nhà kính và trái
đất của chúng ta đang ngày càng nóng lên, những
khối băng khổng lồ ở hai địa cực có nguy cơ tan chảy.
Sự cân bằng sinh thái bị phá huỷ và con ngời sẽ sống
nh thế nào khi môi trờng tự nhiên không còn.
Nh vậy, phá rừng để lấy gỗ và lấy đất, cái lợi là
dành cho một vài ngời nhng cái hại là dành cho tất cả.
Sự tồn tại của trái đất giữa vũ trụ đang bị đe doạ bởi
chính bàn tay con ngời.
4. Cần phải ngăn chặn ngay tình trạng này. Tất cả mọi
ngời trong xã hội phải ý thức sâu sắc về sự nguy hiểm
và mức độ nghiêm trọng của nạn phá rừng hiện nay,
từ đó có chung một thái độ cơng quyết trong việc bảo
vệ rừng. Làm ngơ, tiếp tay cho bọn buôn gỗ lậu cũng
chính là đang khuyến khích cho nạn phá rừng ngày
càng phát triển. Nhng cũng cần có thêm nhiều biện

pháp cứng rắn và chặt chẽ hơn trong vấn đề này, cần
kiên quyết xử lí những kẻ trực tiếp và gián tiếp phá
rừng, giúp dân từ bỏ thói quen canh tác lạc hậu. Đồng
thời, việc trồng rừng để bổ sung diện tích rừng bị phá,
phủ xanh đất trống đồi trọc, nhân thêm nhiều cánh
rừng mới là một việc làm rất hiệu quả và là việc phải
làm của con ngời.
Kết bài :
Hãy thử tởng tợng, đến một ngày nào đó, trên trái
đất sẽ không còn một cánh rừng nào, con ngời sẽ phơi
mình ra dới mặt trời nóng bỏng và cuồng phong của
vũ trụ. Và liệu sau đó trong tơng lai, trái đất có còn là
hành tinh của sự sống nữa hay không ? Bảo vệ những

×