Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nguyên liệu cho sản xuất nhiên liệu sinh học pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.7 KB, 24 trang )



Nguyên liệu cho
sản xuất nhiên
liệu sinh học



Ngày 20.11.2007, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 177/2007/QĐ-TTg phê
duyệt “Đề án phát triển nhiên
liệu sinh học (NLSH) đến năm
2015, tầm nhìn đ
ến năm 2025”.
Đây là định hướng đúng đắn
trong việc tìm kiếm và sử dụng
nguồn năng lượng sạch mới
trong tương lai ở nước ta. Tuy
nhiên, vấn đề nguyên liệu cho
sản xuất NLSH cần được xem
xét không chỉ dưới góc độ công
nghệ và sản phẩm thuần túy,
mà còn phải xem xét mối quan
hệ của chúng với cơ chế thị
trường và giá cả. Bởi vì đó là
yếu tố quyết định sự thành bại
của một đề án cấp quốc gia.

Mối quan hệ giữa nguyên liệu
và quy luật thị trường



Chúng ta đều biết rằng, nguyên
liệu có tầm quan trọng đặc biệt
để sản xuất ra hàng hóa. Hàng
hoá, qua chu trình vận động của
nó trở thành tiền tệ, rồi lại trở lại
phục vụ cho sản xuất nguyên
liệu, sản xuất hàng hóa. Đó là
một chu trình khép kín với các
công đoạn khác nhau nhưng tầm
quan trọng của chúng như nhau.

Khi chúng ta xét NLSH đơn
thuần là một loại hàng hóa của
chu trình trên, sẽ thấy rằng, nếu
có thêm một vài yếu tố khách
quan nào đó tác động vào, chu
trình sẽ bị thay đổi, hay nói đúng
hơn, nó sẽ được vận hành trái v
ới
quy luật. Điều này đồng nghĩa
với việc làm cho chu trình bị đảo
lộn, dẫn đến những khó khăn
không lường trước.

Sở dĩ phải đề cập đến vấn đề
Tiền - Hàng, một vấn đề hóc búa
trong kinh tế học, để khuyến cáo
rằng, trước khi quyết định tập
trung vào một loại nguyên liệu

nào đó để sản xuất NLSH, cần
phải tham vấn các nhà kinh tế
học để đảm bảo rằng, không có
một yếu tố duy ý chí n
ào xen vào
chu trình biến NLSH thành hàng
hóa. Vi
ệc phát triển NLSH không
thể nằm ngoài quy luật Tiền -
Hàng, một Quy luật cơ bản của
kinh tế thị trường. Các sản phẩm
được gọi là hàng hóa phải tuân
thủ quy luật này mới tồn tại một
cách lành mạnh và phát triển bền
vững.

Khi nói đến nguyên liệu cho
NLSH, trước hết phải xem nó
như một loại hàng hóa và như
vậy, đương nhiên nó phải điều
chỉnh giá cho phù hợp với quy
luật Tiền - Hàng. M
ọi sự trợ giúp
từ phía Nhà nước càng lớn bao
nhiêu thì tác động ngư
ợc lại cũng
sẽ lớn bấy nhiêu. Kinh nghiệm
của một số nước đi trước như
Mỹ, Đức (miễn thuế, trợ giá, bù
giá…) cho thấy rằng, đến một

thời điểm, khi mà Nhà nước
không thể tiếp tục việc can thiệp
như trước, sẽ xảy ra những vấn
đề về giá cả, giải quyết không ổn
sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả
chương trình, lãng phí sẽ vô c
ùng
lớn, tác hại về kinh tế - xã hội
khó mà lường được.

Vậy, vai trò của Nhà nước
trong vấn đề này như thế nào?

Chính phủ đã có chiến lược phát
triển NLSH đến năm 2015, tầm
nhìn đến năm 2025, trong đó nêu
rất nhiều giải pháp để đạt được
mục tiêu đề ra. Bản đề án khá
hoàn chỉnh và súc tích là cơ s
ở để
tin tưởng rằng NLSH sẽ sớm
được phát triển ở Việt Nam. Tuy
nhiên, cần phải có một phương
pháp làm cụ thể và khoa học,
không nằm ngoài các quy luật,
đồng thời cần rút ra các bài học
từ kinh nghiệm đi trước của nư
ớc
ngoài.


Hiện nay, khi nước ta chưa có
một nền công nghiệp lọc hoá
dầu, thì xăng dầu vẫn được nhập
và sử dụng như một loại hàng
hoá, mặc dù có gắn thêm hai chữ
“đặc biệt”. Tại sao không xem
NLSH cũng như xăng dầu từ dầu
mỏ?

Theo tôi, Nhà nước cần khẳng
đ
ịnh Việt Nam sẽ sử dụng NLSH
(kể từ thời điểm xác định) và cơ
quan quản lý nhà nước nào chịu
trách nhiệm kiểm tra chất lượng
sản phẩm; cơ quan, đơn v
ị, doanh
nghiệp nào có trách nhiệm mua
E-100 và B-100 để phối trộn (E-
100 và B-100 theo TCVN).
Những đơn vị này sẽ nghiên cứu
nên pha theo tỷ lệ n
ào và giá mua
vào là bao nhiêu. Giá cả nên để
cho thị trường quyết định, nghĩa
là người bán (người sản xuất),
người mua (các đơn vị được chỉ
định chính thức hoặc thí điểm)
đều có lợi.


Bất kỳ cá nhân, tập thể, doanh
nghiệp nào cũng có thể sản xuất
E-100 và B-100 để bán và bán
với giá thị trường mà đơn vị có
trách nhiệm có thể mua, miễn là
bảo đảm chất lượng theo quy
định. Nhà nước ch
ỉ cần có những
biện pháp thông thoáng, không
rườm rà trong các thủ tục về sản
xuất, về đất đai để cá nhân,
doanh nghiệp yên tâm đầu tư mà
không tạo ra bất cứ sự trợ giá n
ào
(có chăng, chỉ nên đặt ra một giá
trị thuế nào đó, để cả hai bên
cùng có lợi).

Trường hợp trong nước không
sản xuất được NLSH với giá
chấp nhận được, các đơn vị được
chỉ định mua để phối trộn và
phân phối (có thể nhập, miễn là
có lời và đạt chất lượng). Tất
nhiên, các đơn vị này phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm về các
quyết định của mình. Có như
vậy, NLSH mới sớm đi vào đời
sống của nền kinh tế Việt Nam.
Hơn thế nữa, NLSH mới thực sự

là hàng hóa, tự động chuyển đổi
theo đúng quy luật của nó.

Mối quan hệ giữa nguyên liệu
và giá thành sản phẩm

Khi quyết định đầu tư sản xuất
nguyên liệu cho NLSH (mía,
đường, tinh bột… để sản xuất
cồn và làm khan cồn - E-100 để
ph
ối trộn với xăng; hay trồng các
loại cây dầu thực vật để lấy dầu
và sản xuất diesel sinh học - B-
100), các cá nhân hay doanh
nghiệp phải lường trước và xác
định rõ giá thành sản phẩm sẽ là
bao nhiêu? Liệu có cạnh tranh
được với etanol của Brazin hay
dầu cọ của Malaixia? Nếu không
thể cạnh tranh được, mà ch
ỉ trông
chờ Nhà nước trợ giá, miễn thuế,
bù lỗ…, thì liệu sẽ tồn tại được
bao lâu, khi mà tiến trình hội
nhập ngày càng sâu rộng và
quyết liệt? Rất nhiều đề án trồng
cây Jatropha với nhiều hecta đất
từ Bắc chí Nam được đệ trình; r
ất

nhiều đề án trồng mía, khoai mỳ
để sản xuất etanol được xây
dựng. Tất cả các đề án đó, nhiều
hay ít, đều dựa trên cơ sở miễn
thuế, giảm thuế, cho không đ
ất…
trong khi đất đai cũng là hàng
hoá đặc biệt?

Chúng ta đã trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ hai trên thế
giới nhưng ngư
ời trồng lúa vẫn ở
mức nghèo khổ, trong khi xuất
khẩu cà phê đ
ứng thứ hai thế giới
thì người trồng cà phê lại giàu
lên, tại sao vậy? Có phải tại lúa
của ta cho năng suất thấp, còn cà
phê cho năng suất cao? Xin thưa
rằng không phải vậy. Nguyên
nhân chính là h
ệ thống phân phối
đa cấp, nhỏ lẻ đã làm cho lợi
nhuận thu được từ hàng hoá bị
phân chia ra nhiều tầng nấc trư
ớc
khi đến tay ngư
ời nông dân trồng
lúa. Chính sự nhỏ lẻ, manh mún

của việc sản xuất lúa đã tạo nên
nhiều tầng nấc trung gian. Người
trồng cà phê không nhiều và
khâu thu mua không phức tạp
nên sự chênh lệch giá không quá
lớn, vì thế người trồng cà phê
giàu lên là đương nhiên.

Nếu sản xuất nguyên liệu cho
NLSH cũng lặp lại mô hình tr
ồng
lúa thì dù diện tích có tăng lên
bao nhiêu đi nữa, người trồng
vẫn không phấn khởi, giá thành
nguyên liệu sẽ vẫn không ổn
định, dẫn đến giá thành NLSH
không thể cạnh tranh được với
nhiên liệu hoá thạch. Lúc đó sẽ
nảy sinh vấn đề trợ giá hay
không trợ giá? Do đó, không cần
thiết phải bao cấp cho việc sản
xuất nguyên liệu. Hãy để thị
trường phản ánh giá trị thực của
nguyên liệu theo đúng quy luật
của nó.

Hệ quả của hai mối quan hệ
trên và những vấn đề cần lưu ý



Vấn đề nguyên liệu cho sản xuất
NLSH, về mặt lý luận cũng như
thực tiễn, đã được trình bày ở
trên. Như vậy, nguyên liệu cho
sản xuất NLSH có quan hệ mật
thiết với cơ chế thị trường và giá
cả của nó. Chúng ta đang phấn
đấu là một quốc gia có nền kinh
tế thị trường đầy đủ thì hãy để
cho thị trường quyết định loại
nguyên liệu nào nên trồng, loại
nguyên liệu nào không nên trồng.


Xăng sinh học xuất phát từ công
nghiệp mía đường cũng như các
loại cây cho bột như sắn, bắp…
với sản phẩm duy nhất mà nó t
ạo
ra chính là cồn thực phẩm. Sau
khi làm khan nước mới có thể sử
dụng để phối trộn với xăng của
dầu mỏ.

Diesel sinh h
ọc đi từ dầu béo, mỡ
động vật…, sản phẩm của nó rất
đa dạng. Trong tiêu chuẩn
biodiesel của các nước cũng như
của Việt Nam, không hề quy

định số hydro cacbon có trong
mạch (mạch dài hay ngắn không
quan trọng), dẫn đến rất nhiều
loại dầu béo có thể làm NLSH.
Vì vậy, tại sao phải giới hạn chỉ
cây này hay cây kia mới là
nguyên liệu cho biodiesel?
ở một
số nước, ngư
ời ta chỉ có thể trồng
đại trà một số loại cây có dầu
nhất định - gọi là cây chủ lực,
trong khi ở Việt Nam - có rất
nhiều loại cây cho hạt có dầu
quanh năm, có thể sử dụng - lại
chỉ tập trung chú trọng vào một
loại nào đó, cho dù nó có những
tính chất đặc biệt.

Những quan niệm như vậy đã vô
tình xoá bỏ tính thị trường của
nguyên liệu cho biodiesel. Tại
sao những người dân ở miền núi
phía Bắc có vài trăm hecta rừng
Sở lại không thể bán hạt của nó
để tăng thêm thu nhập cho m
ình?
Một vài gốc cây Gòn trước nhà
của nhiều người dân ở Đồng
bằng sông Cửu Long, hàng năm

cho vài trăm kilôgam hạt, tại sao
không thể là nguồn thu nhập
chính đáng của họ, trong khi dầu
hạt Gòn không khác các loại dầu
khác? Hay người dân trồng bông
vải, thu thêm vài trăm kilôgam
hạt trên cánh đồng bông của
mình, lại không thể bán cho nhà
sản xuất biodiesel để cải thiện
thêm đời sống của mình? Tính
nhân văn của NLSH chính là ở
chỗ đó; giá trị xoá đói giảm
nghèo của nó cũng chính là
ở chỗ
đó; tác dụng chống xói lở, phủ
xanh đất trống đồi trọc của nó
cũng chính ở chỗ đó. Vì vậy, h
ãy
tạo cơ hội cho mọi nguồn lực
tham gia sản xuất nguyên liệu
cho NLSH, có cơ hội tìm kiếm
thu nhập từ đó. Xã hội hoá việc
sản xuất nguyên liệu cho NLSH
là bi
ện pháp tốt nhất chống lại sự
độc quyền và thao túng giá
nguyên liệu của các tập đoàn.
Cây có dầu là cây lâu năm,
không sợ sự nhỏ lẻ như trồng lúa.



Như vậy, cơ chế thị trường sẽ
điều chỉnh giá nguyên liệu, còn
công nghệ (hay nhà sản xuất) sẽ
quyết định nguyên liệu đó có giá
bao nhiêu? Mối quan hệ n
ày là rõ
ràng và biện chứng.

Chiến lược phát triển nguyên
liệu để sản xuất NLSH cần lưu
ý một số điểm sau:

Một là, nguyên liệu cho sản xuất
cồn cần phải nhanh chóng
chuyển hướng sang sử dụng
biomass (các dạng c
ành cây, mùn
cưa, lá, rơm rạ…). Các loại cây
cho bột nên tập trung cho mục
tiêu lương thực, vì lương thực
quan trọng hơn NLSH. Các dạng
thiên tai trong vài năm tới sẽ làm
thay đổi quan điểm của thế giới,
vì vậy, không nên cứ nhắm mắt
đi theo con đường người khác đã
đi.

Hai là, nguyên li
ệu cho biodiesel

chỉ nên dựa trên các loại dầu
không ăn được. Chỉ nên trồng
những loại cây không làm t
ổn hại
đất, có nhiều ứng dụng khác
nhau để tăng hiệu quả kinh tế.

Ba là, không nên bao c
ấp NLSH,
cũng như không nên chờ nghiên
cứu xong mới triển khai. Hãy
xem nó như xăng dầu bình
thường và tôn trọng quy luật thị
trường của nó.

Bốn là, sản xuất E-100 và B-100
phải dựa trên công nghệ không
bã thải mới hy vọng khống chế
giá của chúng trong biên độ thấp
hơn hoặc bằng nhiên liệu từ dầu
mỏ.

Năm là, đầu tư cho nghiên cứu
khoa học trong lĩnh vực NLSH l
à
cần thiết nhưng không nên quá
dàn trải, quá mỏng. Những vấn
đề phụ gia, công nghệ phối trộn
chỉ nên giao cho đơn v
ị thực hiện

việc này chủ trì nghiên cứu v
à áp
dụng.

Sáu là, việc trồng hàng trăm
hecta cây Jatropha trên một vùng
đất nào đó, cần phải xem xét và
đánh giá tác động môi trư
ờng của
loại cây này. Ai cũng biết rằng
cây Jatropha có những độc tính
nhất định, được trồng làm hàng
rào quanh nhà để ngăn ngừa sâu
bọ, rắn rết. Khi có hàng trăm
hecta trồng Jatropha, các lo
ại côn
trùng, động vật này sẽ đi đâu?
Chắc chắn nó sẽ phải đi về phía
không có cây này, đó là khu dân
cư. Vì vậy, cần hết sức lưu tâm
tới vấn đề này.

×