Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kiến thức cha me cần biết - Phần 11 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.5 KB, 8 trang )

Chăm sóc trẻ hiếu động
Những đứa trẻ hiếu động cần được quan tâm, chăm sóc chặt chẽ
Khác với sự thông minh, nhanh nhạy của những đứa trẻ phát triển trong điều kiện
nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, trẻ quá hiếu động lại khó có thể phát triển nhân cách
bình thường.
Theo các chuyên gia tâm lý nhi đồng, trẻ quá hiếu động thường mất khả năng tập
trung, suy nghĩ kém và rất dễ trở nên hung bạo, nghiện ngập nếu không được điều
chỉnh, uốn nắn kịp thời.
Nhiều bà mẹ than phiền với các bác sĩ tâm lý: “Bác sĩ ơi, con tôi nó quậy lắm! Cả
gia đình và các thầy cô đều rất mệt mỏi khi phải canh chừng cháu.” Hoặc lo lắng:
“Chẳng hiểu sao cháu lại quậy quá mức, không chịu ngồi yên một chỗ!” Đó là
những lời phàn nàn ban đầu của các bà mẹ về đứa con quá quậy phá của mình, mà
sau này họ mới biết chúng mắc bệnh hiếu động.
Cả người chăm sóc và trẻ hiếu động cùng mệt nhoài
Năm 2003, Khoa Tâm lý Bệnh Viện Nhi Đồng 2 TPHCM đã tiếp nhận 309 trẻ đến
để được tư vấn tâm lý, trong đó có 35 trẻ cần tư vấn về vấn đề hiếu động. Theo
bác sĩ Thái Thanh Thủy, Trưởng Khoa Tâm lý Bệnh Viện Nhi Đồng 2, trẻ hiếu
động thường không tập trung, không ngồi yên một chỗ. Chúng luôn chạy nhảy,
làm bừa bộn mọi thứ khiến cho những người chăm sóc trẻ mệt nhoài và bản thân
trẻ cũng mệt. Phát hiện sớm và can thiệp đúng mức sẽ giúp trẻ phát triển tốt. Nếu
không, càng lớn trẻ càng trở nên hung hăng. Với tính khí như vậy, trẻ sẽ trở thành
gánh nặng cho gia đình và khó có thể phát triển nhân cách bình thường trong đời
sống xã hội. Thế nhưng, các bác sĩ, các chuyên gia tâm lý cho biết đã gặp không ít
trường hợp trẻ hiếu động ở mức độ nặng mới được các bậc cha mẹ phát hiện và
đưa đi khám, điều trị. Sở dĩ có sự phát hiện chậm trễ này là do cha mẹ ít quan tâm
đến trẻ, giao trẻ cho ông bà, hoặc người giúp việc chăm sóc. Hoặc các bậc cha mẹ
chưa được trang bị đầy đủ kiến thức, tâm lý về trường hợp này. Nhiều bậc phụ
huynh thường nuôi dạy con theo kinh nghiệm dân gian hoặc kinh nghiệm từ những
đứa con trước nên không nghĩ đây là một bệnh về tâm lý, vì thế đã không đưa trẻ
đi khám sớm. Còn lại là những trường hợp cha mẹ đã cố gắng can thiệp nhiều
nhưng không đạt kết quả.


Trẻ hiếu động dễ gặp tai nạn
Bác sĩ Thái Thanh Thủy cho biết, trẻ hiếu động ở tuổi chưa biết đi thường khóc
suốt ngày và ngọ ngoậy liên tục. Nhưng phần lớn trẻ bộc lộ sự hiếu động rõ hơn
khi chúng bắt đầu biết đi (từ 1 tuổi trở lên). Lúc đó, trẻ có một số đặc điểm mà nếu
chú ý cha mẹ sẽ dễ dàng nhận ra. Trước hết là tình trạng mất khả năng tập trung:
Trẻ định làm một việc rồi lại quên mất, luồng suy nghĩ của trẻ lướt qua sự kiện
này đến sự kiện khác nhưng không cố định. Ví dụ: Trẻ định đi xuống sân chơi
bỗng nhiên lại quẹo vào phòng khách hoặc đã xuống sân mà không nhớ ra ý định
ban đầu của mình. Cũng có khi trẻ quá tập trung vào một việc mà trẻ thích nhưng
sự tập trung này lại thiếu mạch lạc, thiếu nhất quán. Trẻ chỉ tập trung được một lúc
rồi quên ngay lập tức. Trẻ hiếu động thiếu khả năng suy nghĩ trước khi hành động
hoặc thiếu suy nghĩ đến hậu quả của hành động. Chẳng hạn, trái banh lăn ra ngoài
đường, trẻ lập tức phóng theo mà không cần quan sát xem có xe cộ chạy, hay vật
cản gì không. Ở nhà cũng như trong trường học, trẻ thường phá ngang, phá bĩnh.
Vì lẽ đó, trẻ hiếu động thường gặp phải tai nạn và giáo viên rất phiền lòng trước sự
quậy phá quá mức của trẻ đã làm ảnh hưởng đến cả lớp học. Sự hiếu động này xảy
ra liên tục và thái quá so với lứa tuổi của trẻ. Thường từ 2 - 4 tuổi trẻ cũng rất
nhanh nhạy nhưng đó là sự phát triển bình thường, còn ở trẻ hiếu động có tính chất
bệnh lý thì những hành động thường không có mục đích, trẻ bồn chồn và không
lúc nào yên. So với những trẻ bình thường, chúng thể hiện sự vượt trội về tính chất
cũng như số lượng hành động.
8 điều cần biết để chăm sóc trẻ hiếu động
1. “Tính nết” của trẻ hiếu động sẽ được cải thiện nhiều nếu có sự quan tâm, kiên
nhẫn của cha mẹ.
2. Không nên đặt biệt hiệu cho trẻ như “đứa con trời đánh”, “nghịch như quỷ sứ”
Cách đặt biệt hiệu làm trẻ càng xa cách với các trẻ khác, trẻ sẽ tự ti, hung hăng
thêm.
3. La mắng, đánh đập càng làm phát triển sự hung hăng của trẻ hiếu động, thay
vào đó nên cư xử dịu dàng với trẻ.
4. Không nên so sánh với những trẻ khác cùng tuổi với ý chê trách, thất vọng. Trẻ

hiếu động đã rơi vào tình trạng đặc biệt nên những gì mà trẻ trông chờ là sự
thương yêu của cha mẹ. Nếu tình yêu thương của cha mẹ là sự khát khao của mọi
đứa trẻ bình thường thì đối với những trẻ rơi vào trường hợp đặc biệt, tình cha mẹ
chính là sự sống còn của trẻ.
5. Nên nhìn vào mắt trẻ khi nói chuyện. Bắt trẻ nhìn vào mắt bạn khi trẻ yêu cầu
một điều gì. Thực hiện hành động rõ ràng ngay trước mắt trẻ.
6. Giúp trẻ tập nghe trước khi hành động, giúp trẻ hình dung được hậu quả trước
khi hành động.
7. Dùng những lời động viên, khen ngợi để trẻ tự làm một cách hứng thú những
công việc nhỏ có ích.
8. Luôn giám sát trẻ.
Phỏng vấn Bác sĩ Lâm Xuân Điền, Giám đốc Bệnh viện Tâm thần TPHCM về:
Trẻ có thể sớm rơi vào tình trạng nghiện ngập
PV: Hiếu động quá mức ở trẻ em có phải là một dạng của rối loạn tâm lý
không, thưa bác sĩ?
BS: Hiếu động quá mức còn được gọi là tăng động, hiện nay có 2 quan điểm về
vấn đề này. Những chuyên gia ở Bắc Mỹ cho rằng tăng động là sự rối loạn về phát
triển. Trong quá trình phát triển, khi còn nhỏ trẻ nghịch ngợm, hiếu động được
xem là bình thường, nhưng khi lớn lẽ ra một người bình thường phải nhận thức
được điều gì nên làm và điều gì không nên, thế nhưng những trẻ này vẫn cứ mãi
tăng động. Vì vậy, họ nhìn nhận đây là những rối loạn về phát triển. Còn những
chuyên gia châu Âu nhận định hoạt động thuộc về hành vi ứng xử nên tăng động
được xem là rối loạn hành vi ứng xử. Bệnh này được mô tả từ cuối thế kỷ 19 với
nhiều tên gọi. Hiện nay, tên gọi chung là rối loạn tăng động giảm chú ý vì càng gia
tăng hoạt động thì sự chú ý ở những trẻ này càng giảm đi.
PV: Vậy tăng động có phải là một bệnh bẩm sinh?
BS: Y học xác định có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng tăng động ở trẻ. Về
nguyên nhân sinh học, người ta thường nói đến gien vì có những tổn thương về
gien. Nhưng đây là vấn đề hết sức phức tạp nên không thể xác định gien thế nào.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân tâm lý xã hội, đây là nguyên nhân tác động hết sức

nặng nề. Những gia đình thường xuyên có xung đột sẽ tạo cho trẻ những ức chế về
tâm lý, vì ở những gia đình này trẻ ít được quan tâm về mặt tinh thần nên chúng
luôn muốn được “bung ra”.
PV: Cuộc sống của những trẻ này sẽ ra sao nếu không được điều trị đúng
mức?
BS: Nếu cha mẹ để ý sẽ thấy những trẻ này đến 4-5 tuổi vẫn còn nghịch nhiều. Khi
bệnh đã diễn tiến nặng, rối loạn tăng động làm phiền nhiễu những người xung
quanh. Do không chú ý học nên kết quả học tập của những trẻ này ngày càng sa
sút, ảnh hưởng đến thành tích chung của lớp, thầy cô luôn xem đây là những học
sinh cá biệt nhưng thật ra đây không phải là lỗi của trẻ mà là do bệnh. Bị bạn bè xa
lánh, chúng càng hăng hơn, phá rối nhiều hơn và có thể rơi vào tình trạng nghiện
ngập rất sớm do bị cô lập.
PV: Tình hình trẻ tăng động ở nước ta hiện nay ra sao?
BS: Tùy theo cách chẩn đoán và tùy theo quan điểm về tăng động mà tỉ lệ này thay
đổi. Tại Bệnh viện Tâm thần, mỗi tuần có từ 220 – 250 trẻ rối loạn tâm lý đến
khám, trong đó trẻ tăng động chiếm khoảng 1% - 5%. Trẻ bị rối loạn tâm lý ngày
càng gia tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó có áp lực từ gia đình, nhà trường.
Đây là vấn đề đáng báo động.
PV: Hiện nay trẻ tăng động được điều trị như thế nào?
BS: Những trẻ này có thể được điều trị bằng thuốc hoặc bằng liệu pháp tâm lý.
Tuy nhiên, dùng thuốc cho trẻ sẽ rất nguy hiểm vì những loại thuốc này thường có
chứa chất ma túy, sẽ gây nghiện sau này. Còn với liệu pháp tâm lý, trẻ sẽ được
người khác hiểu một cách đúng đắn hơn. Đặc biệt là có thể tổ chức những nhóm
trẻ tăng động để các em hiểu nhau, dễ thích nghi ứng xử hơn và làm cho phản ứng
của những người xung quanh giảm đi.
Cháu tôi sợ học
Năm học này cháu tôi vào lớp 1. Từ môi trường mẫu giáo nhà trẻ chủ yếu vui chơi
là chính, nay bước sang ngưỡng lớp 1 - lớp đầu cấp của tiểu học, bước giậm đầu
tiên của 12 năm phổ thông trên ghế nhà trường với nhiều bỡ ngỡ, rụt rè. Đây cũng
là lớp thu nạp kiến thức nền cơ bản cho cả quá trình tích lũy sau này. Do vậy cháu

đi học với tâm lý vừa lo vừa sợ nên cứ đến giờ học là cháu phải nghĩ ra một cái gì
đấy để tìm kế "hoãn binh". Lâu dần điều này hình thành như một phản xạ có điều
kiện. Đến hẹn lại lên, đúng giờ học, cháu thường viện cớ xin uống nước, đi vệ sinh,
thậm chí khóc nhè để nôn cả thức ăn vấy đầy quần áo chỉ với mong muốn kéo dài
thời gian bên người thân ở nhà. Sáng nào cả nhà cũng ầm ĩ cả lên về chuyện cháu
chẳng chịu đi học dù đã dùng mọi biện pháp từ dỗ dành, dụ ngọt, đến đe nẹt, quát
tháo.
Đúng ra là cháu tôi "sợ" học. Từ tâm lý sợ học này, người thân trong nhà lại dùng
việc học để dọa khi cháu sai phạm điều gì hoặc không vâng lời. "Nếu con không
ngoan sẽ cho đi học", "Nếu con không ăn cơm mẹ cho đi học liền". Chính suy nghĩ
này đã vẽ lên trong nhận thức trẻ cái sự học là một giải pháp để trừng phạt việc
làm sai hoặc không vâng lời. Vô hình trung việc học lại trở thành "cây gậy" để
giáo dục trẻ theo ý mình, và khi trẻ ngại học thì lại chìa tiếp ra "củ cà rốt" (kẹo,
bánh, đồ chơi…) để chiêu dụ trẻ đến trường.
Theo các nhà nghiên cứu tâm lý, trẻ em trong độ tuổi từ 3 đến 15 thường có một
giai đoạn sợ học. Thông thường thời gian sợ học chỉ diễn ra trong quãng ngắn và
chấm dứt, không tạo thành phản ứng tâm lý và cũng ít được chú ý. Riêng với một
số bạn trẻ thì giai đoạn sợ học kéo dài lâu hơn và tạo thành "bệnh" sợ học. Trường
hợp này gia đình, người thân phải nhẹ nhàng khuyên bảo giúp trẻ nhận thức việc
đến trường là để biết bao điều lạ, khám phá những cái mới diễn ra xung quanh
mình. Mặt khác phải gợi lên hứng thú học tập cho trẻ, quan tâm hỏi trẻ về những
chuyện xảy ra ở lớp, mối quan hệ với các bạn cùng lớp, giúp trẻ hình thành ấn
tượng học là một sinh hoạt bình thường. Đừng mang tâm lý biến trẻ thành "thợ
học" để thực hiện hoài vọng còn dở dang của người lớn. Cha mẹ cần học cùng con,
dành nhiều thời gian chuyện trò, khuyến khích, động viên khi trẻ làm bài tốt, dần
dần kích thích sự ham học nơi trẻ.
Khi ấy chuyện học trở lại với ý nghĩa tốt đẹp, không còn là "cây gậy thần" để
chứng tỏ quyền uy của người lớn và trẻ nhỏ đến trường không cần mang theo "củ
cà rốt".



×