Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hoa lan làm ảnh hưởng đến côn trùng thụ phấn của chúng như thế nào? doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.33 KB, 9 trang )



Hoa lan làm ảnh hưởng đến
côn trùng thụ phấn của
chúng như thế nào?



Ai cũng biết cấu
trúc hoa lan có
một điểm đặc
biệt, đó là cánh
hoa bên dư
ới biến
thành cánh môi,
giống như một b
ãi
đáp cho côn trùng
thụ phấn (pollinator). Cánh
Con ong
mang
phấn khối
hoa lan
trên đầu

môi biến hình (thành côn
trùng cái chẳng hạn) hoặc
tiết ra pheromone dẫn dụ
côn trùng đực đến thụ phấn
giúp. Theo logic đó, mối
quan hệ giữa hoa lan và côn


trùng thụ phấn có thể xem l
à
mối quan hệ cộng sinh v
ì côn
trùng thì chẳng mất gì cả m
à
các cây lan ở khoảng cách
khá xa lại được thụ phấn
chéo một cách khá chính
xác. Tuy nhiên có một số
điều phải xem lại trước khi
gọi mối quan hệ này là cộng
sinh.

Nghiên cứu này được thực
hiện và công bố vào năm
2002, tuy đã không phải là
mới nhưng vì nó mang lối tư
duy khá độc đáo của những
người làm khoa học nước
ngoài nên là một bài học rất
hay.


Kết quả của nghiên cứu giải
thích được tại sao mật độ
của Chiloglottis trapeziformis
,
một loại địa lan Australia thụ
phấn phụ thuộc côn trùng, có

mối tương quan nghịch với
mật độ loài của côn trùng thụ
phấn trong khu vực. Nghĩa là
ở đâu có nhiều Chiloglottis
trapeziformis, ở đó có ít côn
trùng thụ phấn của nó.
Pollinator của Chiloglottis
trapeziformis là ong bắp cày
Thynnine (Neozeleboria
cryptoides) đực, ở loài này,
ong cái không có có cánh do
đó nó chỉ có thể bò dưới đất
và hấp dẫn con đực bằng
pheromone và cái lưng ong có
hình dạng đặc trưng.

Về phía Chiloglottis, đ
ể có thể
nhờ vả lũ ong Thynnine đực
mang hạt phấn, chúng không
chỉ có cánh môi giống hệt con
ong cái mà còn có khả năng
tiết ra các pheromone có hoạt
tính sinh học tương tự. Khi
tiến hành các thí nghiệm so
sánh khả năng dẫn dụ của hoa
lan và ong cái thật, người ta
thấy rằng nó hầu như không
có khả năng phân biệt đâu là
ong, đâu là hoa. Chúng bay

vào các cặp ống nghiệm đựng
hoa lan, ong cái trong su
ốt, bịt
kín (thử khả năng nhận dạng,
không cho biết mùi) và ống
nghiệm màu đen, hở (thử khả
năng nhận diện pheromone,
không cho biết hình dạng) với
tần số như nhau. Trong đó,
trung bình số ong đực đậu v
ào
ong cái là 2.63
± 0.86, hoa lan
là 2.50 ± 1.20; n =8, p > 0.05).


Tuy nhiên trong th
ực tế vẫn có
một cơ chế nào đó giúp m
ột số
ong Thynnine đực nhận biết
được ong cái thật và tránh xa
các khu vực có hoa lan mọc.



Trên kết quả là khi khảo sát
thực địa, người ta thấy ong có
xu hướng ít bay vào khu vực
có hoa lan mà thường bay vào

nơi không có lan. Dựa trên k
ết
quả thống kê trên ta cũng có
thể thấy được sự “cả tin” ở
những con ong bị lừa từ cái
nhìn đầu tiên, 100% số ong
này thực hiện hành vi giao
phối với bông hoa mà không
hề có bất kì biểu hiện phát
giác nào.

Mối tương quan nghịch về
mật độ giữa Chiloglottis
trapeziformis và
Neozeleboria
cryptoides đã được nhận thấy
từ lâu nhưng chỉ sau khi bài
nghiên cứu này ra đời ngư
ời ta
mới biết được hiện tượng suy
giảm mật độ côn trùng cục bộ
là do bản thân chúng tự tránh
đi đến nơi khác. Kết quả này
bác bỏ một ý kiến khác đó là
sự giao phối giả giữa côn
trùng thụ phấn và hoa lan di
ễn
ra nhiều lần đã làm giảm sức
sinh sản của côn trùng đực và
từ đó làm suy giảm quần thể

côn trùng thụ phấn. Thực tế,
mối tương quan về số lượng
ong-lan thường chỉ nghịch ở
một mức độ tương đối, lan thì
luôn cần ong v
à ong thì không
phải con nào cũng đủ tinh
khôn để tránh bị lừa.

×