LỒNG GHÉP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG VÀO
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY Ở LỚP4-5.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tầm quan trọng của vấn đề:
Chúng ta biết rằng môi trường là tất cả những gì trên Trái Đất này bao gồm
những thành phần tự nhiên như : địa hình, khí hậu, thực vật, động vật con người và
những thành phần do con người tạo ra như : làng mạc, thành phố, công trường, nhà
máy
Khi mà xã hội ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao thì
vấn đề môi trường cũng đặt ra cho con người những thách thức lớn, đó là sự ô nhiễm
môi trường, sự suy thoái và cạn kiệt tài nguyên và những vấn đề đó ảnh hưởng lớn đến
đời sống, đặc biệt là sức khỏe con người. Vậy có thể nói rằng môi trường là vấn đề bức
xúc hiện nay của xã hội.
2. Những thực trạng liên quan đến vấn đề:
Nguyên nhân chính gây nên sự biến động về môi trường là sự thiếu hiểu biết về
môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường. Đặc biệt ở vùng nông thôn như chúng ta ý
thức của người dân về môi trường lại càng chưa cao, chưa nhận thức được rằng con
người đang đứng trước nguy cơ thiếu nước, thiếu năng lượng, không khí bị ô nhiễm
và con người cũng đang gánh chịu những hậu quả nặng nề từ môi trường. Thực tế hiện
nay bệnh tật đang là mối đe dọa con người, nhiều bệnh tật phát sinh, nhiều ổ dịch hoành
hành, tỉ lệ tử vong vì bệnh dịch ngày càng cao.
3. Lý do chọn đề tài:
Với các em học sinh những chủ nhân tương lai của đất nước cần phải được trang
bị kiến thức về môi trường ngay từ bây giờ bởi không bao lâu nữa các em sẽ là người
trực tiếp hoặc gián tiếp đụng chạm đến những vấn đề về môi trường ở những lĩnh vực
khác nhau, trên những cương vị khác nhau.
Xét về đặc điểm tâm sinh lý, tuổi các em tiếp thu nhanh, dễ nhớ nhưng chóng
quên. Việc giáo dục môi trường chỉ tập trung ở một chương, một bài mà không giáo dục
thường xuyên trong từng bài chắc rằng sẽ không khắc sâu trong các em ý thức cao về
môi trường. Đặc biệt các em là lực lượng hùng mạnh để tuyên truyền việc bảo vệ môi
trường trong cộng đồng thông qua gia đình và chính các em cũng là lực lượng hùng
mạnh có thể tham gia vào việc bảo vệ môi trường bằng những việc nhỏ tuỳ sức của
mình.
Nhận thức được thực trạng môi trường hiện nay, nhận thức được sự cần thiết
phải đưa giáo dục môi trường vào trường Tiểu học, bản thân tôi đã mạnh dạn lồng ghép
giáo dục môi trường vào chương trình chính khóa ở lớp 4- 5 từ năm học 2006-
2007. Xét thấy tầm quan trọng của môi trường bản thân tôi tiếp tục đầu tư nghiên cứu
để từng bước hoàn thiện đề tài với mong muốn nâng cao nhận thức về môi trường và
bảo vệ môi trường trong học sinh, góp phần nhỏ bé vào việc cải thiện môi trường hiện
nay.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trong chương trình tiểu học mới (hay còn gọi là chương trình 2000) vấn đề giáo
dục môi trường đã được đề cập đến, có phân môn đã dành hẳn một chương về Môi
trường như môn Khoa học (SGK trang 127) hoặc có bài đề cập đến môi trường như :
- 1 -
Mở rộng vốn từ : Bảo vệ môi trường (Luyện từ và câu SGK trang 115), Luật bảo vệ
môi trường ( chính tả SGK trang 103).
- Một số bài có 1 phần nào đó có nội dung liên quan đến môi trường nhưng SGK
chưa yêu cầu đi sâu khai thác. Ví dụ chương “ Vật chất và năng lượng” (Khoa học) hay
“ Sông ngòi”, “ Vùng biển nước ta” (Địa lý)
Tuy nhiên kiến thức về môi trường vẫn còn mờ nhạt, giáo dục môi trường chưa
được tách ra như một môn học, một số kiến thức chưa thật sự gần gũi với đời sống xung
quanh của các em như khu bảo tồn thiên nhiên SGK/ 115 , khu bảo tồn đa dạng sinh
học SGK/ 126 do đó việc tiếp thu của học sinh còn nhiều khó khăn.
Gần đây nhất, đầu năm học 2008-2009 Sở Giáo dục Quảng Nam, Phòng Giáo dục
đào tạo Đại Lộc đã tập huấn triển khai lồng ghép giáo dục môi trường vào môn tiếng
Việt và đã được GV tiếp thu và ứng dụng rộng rãi trong toàn ngành. Điều đó chứng tỏ
rằng môi trường và giáo dục môi trường là vấn đề nóng mang tính sống còn của xã hội.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Về phía giáo viên:
- Trước đây, phần lớn GV chưa quan tâm đến sự cần thiết phải đưa GDMT vào
cấp Tiểu học vì nghĩ các em còn qúa nhỏ hoặc có quan tâm nhưng chưa thường xuyên
chỉ dừng lại ở các tiết thao giảng, dự giờ,
- Tuân thủ cung cấp những kiến thức mà SGK và SGV đặt ra, chưa mạnh dạn
khai thác những vấn đề có liên quan đến môi trường vì sợ lệch mục tiêu bài dạy.
Ví dụ: Bài “ Sông ngòi” SGK/ 74, GV không dám khai thác sự cần thiết phải bảo vệ
và khai thác một cách hợp lý vì phần mục tiêu SGV không yêu cầu.
- Việc lồng ghép GDMT đòi hỏi GV phải nghiên cứu, suy nghĩ, đầu tư nên phần
lớn GV ngại khó vì không có thời gian.
2. Về phía học sinh:
- Chưa có ý thức cao về môi trường.
- Còn xem nặng việc học kiến thức cơ bản của chương trình hơn là những vấn đề
môi trường.
Vì GDMT chưa thực hiện như một môn học mà đang nằm rải rác ở tất cả các môn
học, nó chỉ là phép cộng của nội dung GDMT từ các môn học. Hơn nữa MT có tính
chất đa dạng và phức tạp chúng có liên quan đến mọi lĩnh vực của cuộc sống nên nội
dung GDMT liên quan đến mọi môn học vì vậy việc tích hợp GDMT từ các môn học
chắc chắn sẽ làm thay đổi, khắc phục được những hạn chế nêu trên.
IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU :
1. Lồng ghép GDMT thông qua một số bài học cụ thể :
Phân môn Tên bài học Nội dung của từng bài
Tập đọc - Những người bạn tốt (TV/64)
- Kỳ diệu rừng xanh (TV/75)
- Trước cổng trời (TV/84)
- Rừng Cà Mau (TV/90)
- Chuyện một khu vườn nhỏ
- Tiếng vọng.
- Bảo vệ động vật hoang dã
- Môi trường rừng
- Môi trường rừng
- Môi trường rừng
- Môi trường cây xanh
- MT động vật
- 2 -
- Hành trình của bầy ong(TV/117)
- Người gác rừng tí hon(TV/124)
- Trồng rừng ngập mặn(TV/128)
- Ngu công xã Trịnh Tường (TV/
164)
- MT động vật
- MT rừng
- MT rừng, đất
- Môi trường nước, rừng
Tập làm
văn
- Luyện tập làm đơn - Bài 1 : Thần
chết mang tên bảy sắc cầu vồng.
- Thuyết trình, tranh luận (TV/93)
- Luyện tập làm đơn (TV/111)
- MT đất, không khí, rừng
- MT nước, ánh sáng, kk, đất
- MT nước, không khí.
LT-C
Chính tả
Kể chuyện
*MRVT : Bảo vệ môi trường (TV
115- 127).
* Luật bảo vệ môi trường (103)
* Người đi săn và con nai. - Động vật hoang dã
Khoa học - Phòng bệnh sốt rét (bài 12/16)
- PB sốt xuất huyết (bài 13/28)
- PB viêm não (bài 14/30)
-Sắt, gang, thép (bài 23/48)
Môi trường xung quanh
- Môi trường tài nguyên
- Đồng và hợp kim của đồng(bài
24/50
- Nhôm (bài 25/52)
- Gồm, gạch ngói (bài 27/56)
- Xi măng (bài 28/58)
- Cao su (bài 30/62)
- Chất dẻo (31/64)
Môi trường tài nguyên
- Môi trường không khí, đất
- MT không khí, đất
MT không khí
Địa lý - Khí hậu (bài3/72)
- Sông ngòi (bài4/74)
- Vùng biển nước ta (bài 5/77)
- Đất và rừng (Bài 6/79)
- Dân số nước ta (Bài8/83)
- Nông nghiệp (bài 10/87)
- Lâm nghiệp, thuỷ sản (bài 11/83)
- Công nghiệp (bài 12/91)
- Giao thông vận tải (bài 14/96)
MT rừng, nước
MT nước, động vật
- MT đất rừng
- Môi trường sống
- Môi trường đất.
- MT rừng, nước, động vật.
- MT đất, không khí
- MT tiếng ồn, không khí
Lịch sử - Việt Bắc mồ chôn giặc Pháp
- Chiến thắng Điện Biên phủ
- MT rừng
- MT rừng
GDMT thông qua các môn học góp phần không nhỏ vào việc hình thành nhận thức
về môi trường và GDMT cho HS, nhưng những kiến thức đó sẽ không vững chắc nếu
không được củng cố, rèn luyện thông qua các hoạt động bằng nhiều hình thức và biện
pháp khác nhau.
* Các hình thức lồng ghép :
a. Lồng ghép bằng hệ thống câu hỏi :
Ở những bài học có nội dung mà chúng ta có thể khai thác lồng ghép, khi soạn
bài, bản thân tôi nghiên cứu tìm đặt câu hỏi để trang bị kiến thức hoặc liên hệ thực tế,
hoặc để HS biểu hiện thái độ, hành vi về GDMT.
Ví dụ :
1. Bài Những người bạn tốt (Tập đọc trang 64)
- 3 -
- Chú cá heo có đáng yêu không ?
- Em có sợ cá heo bị tiệt chủng không?
- Em muốn nói gì với những người làm nghề biển?
2. Bài Rừng Cà Mau (Tập đọc /90)
- Rừng đước có tác dụng gì?
- Em nghĩ, người đất Cà Mau cần phải làm gì để rừng đước phát huy tác dụng?
3. Bài Chuyện một khu vườn nhỏ ( Tập đọc/ 102)
- Môi trường sẽ như thế nào nếu mỗi GĐ đều có 1 khu vườn nhỏ trên ban công
như ban công nhà bé Thu?
4. Bài Luyện tập thuyết trình, tranh luận (Tập làm văn/93)
- Nếu em là đất, nước, không khí, ánh sáng em muốn bày tỏ nguyện vọng gì với
con người?
5. Bài Phòng bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não ( Khoa học)
- Các em làm gì để phòng những bệnh trên?
6. Bài Việt Bắc mồ chôn giặc Pháp ; Chiến thắng Điện Biên phủ (Lịch sử)
- Rừng góp phần quan trọng như thế nào trong những chiến thắng oanh liệt đó?
- Con người cần làm gì để bảo vệ rừng?
b. Lồng ghép dưới hình thức bài tập :
* Bài Đất và rừng (Địa lý SGK /79)
Đánh dấu x vào ô trống trước ý đúng :
Chặt phá rừng sẽ :
Mở rộng được nhiều đất đai trồng lúa
Có nhiều gỗ để đóng đồ đạc.
Làm xói mòn đất màu.
* Bài Sắt, gang, thép ; bài Nhôm, bài Đồng (Khoa học).
Em đồng ý với ý kiến nào dưới đây, chọn và ghi chữ cái trước ý đó vào bảng con
A. Tài nguyên trên Trái Đất là vô tận, con người cứ việc sử dụng thoải mái.
B. Tài nguyên trên trái đất là có hạn phải sử dụng có kế hoạch và tiết kiệm.
c. Lồng ghép dưới hình thức trò chơi:
Để củng cố bài học hoặc để tổng kết một số bài có liên quan đến môi trường nhằm
nâng cao ý thức về môi trường tôi tổ chức 1 số trò chơi như sau:
Ví dụ
1: Trò chơi " Tôi ở đâu? "
GV phát cho hs 1 mảnh giấy nhỏ, hs dùng bút ghi vào mảnh giấy tên 1 loại cây, 1
loại động vật hoặc 1 loại rác thải ( vỏ kẹo, bao thuốc ) .
- Cứ 4 học sinh đứng vào 4 góc của lớp học: 1 em đóng vai đất, 1 em đóng vai nước,
1 em đóng vai thùng đựng rác, 1 em đóng vai bầu trời.
- 4 -
- HS các lớp còn lại đứng thành vòng tròn giữa lớp học trên tay mỗi em cầm tờ giấy
của mình.
- Khi Gv phát lệnh các em nhanh chóng đọc tờ giấy của mình và chạy về 1 trong 4
em ở 4 góc.
Vd: em có tờ giấy ghi "cá" chạy về em đóng vai nước, em có tờ giấy ghi "vỏ kẹo"
chạy về em đóng vai "thùng rác".
- HS rút ra kết luận: mọi vật đều phải ở đúng vị trí của nó như vậy môi trường sẽ tốt
Ví dụ
2: Trò chơi "phá rừng".
- HS để tất cả tờ giấy báo cũ cạnh nhau trên mặt đất, sau đó đứng vào trên tờ báo
đó (mỗi hs đứng trên 1 tờ báo)
- Tất cả chạy ra ngoài và chạy vòng quanh địa điểm có giấy báo.
- Khi Gv ra hiệu thì tất cả nhanh chóng nhảy vào vị trí có giấy báo ( 1 tờ giấy chỉ
chứa 1 người ).
- Sau đó ra ngoài chạy tiếp, GV cắt đi một số tờ giấy báo và vỗ tay cho tất cả nhảy
vào lại. Lúc này sẽ có một số người không có chỗ đứng, phải đứng ra ngoài
vòng.
- Cứ tiếp tục như vậy, có nhiều hs bị loại ra khỏi vòng.
* HS nhận xét, giải thích :
- Các tờ giấy báo bị mất dần tượng trưng cho hình ảnh vủa việc đất rừng bị khai
thác, xâm lấn, chiếm đoạt.
- Những người bị loại ra khỏi vòng tượng trưng cho cây cối bị chặt, đốn.
* Giáo dục : Không nên khai thác rừng bừa bãi.
d. Đóng vai, diễn kịch :
Ví dụ 1 : Bài " Người gác rừng tí hon" (Tập đọc tuần 14/124)
- Cho 5 Hs nhận vai : 1 hs đóng vai bạn nhỏ con người gác rừng, 2 hs đóng vai
bọn trộm gỗ, 1 hs đóng vai bà Hai chủ quán, 1 hs đóng vai Công an.
Sau khi đóng vai, có thể cho hs thảo luận.
- Việc làm của bạn nhỏ có tác dụng gì cho đất đai, khí hậu, động vật.
Ví dụ 2 : Người đi săn và con nai (Kể chuyện tuần 11/107)
Hs đóng 4 vai : 1 hs đóng vai người đi săn, 2 hs đóng vai dòng suối khuyên
người đi săn đừng bắn con nai, 1 hs đóng vai cây trám tức giận vì người đi săn bắn con
nai, 1 hs đóng vai con nai đẹp, thơ ngây làm người đi săn phải thả súng.
Thảo luận sau khi đóng vai :
- Vì sao người đi săn không bắn con nai?
- Câu chuyện muốn nói với chúng ta điều gì?
2. Lồng ghép GDMT thông qua tiết sinh hoạt tập thể :
Trong những tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần hoặc cuối tuần, tôi dành khoảng 10 -
15 phút để tổ chức cho HS tìm hiểu về môi trường với nhiều hình thức khác nhau, nhằm
- 5 -
củng cố, khắc sâu kiến thức về môi trường như : Trò chơi, đóng vai, triển lãm tranh,
đọc thơ, hát
* Các hình thức lồng ghép :
a. Xây dựng góc môi trường:
GV dùng 3 tờ rô ky có đóng khung viền giao cho 3 tổ treo ở bức tường cuối lớp với tên
gọi “Góc môi trường tổ ”.Trong quá trình học tập, tham khảo sách báo, các em có thể
trưng bày vào góc môi trường của tổ mình những gì mà mình sưu tầm được, đó có thể
là:
- Tranh ảnh về các biện pháp bảo vệ MT hoặc tác động của con người đến MT và hậu
quả của nó.
- Những bài báo, câu thơ, bài hát, bài văn có liên quan đến MT.
Ví dụ:
* Thơ:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Ôi ! Chiếc mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
(Bài ca Xuân 68 - Tố Hữu)
Tiếng chổi tre
Sớm tối đi về
Giữ sạch lề
Đẹp lối
Em nghe.
(Tiếng chổi tre - Tố Hữu)
* Bài hát:
- Bài : Rừng xanh yêu thương".Em đến với rừng đâu chỉ vì rừng xanh thân
thương, em đến với rừng mang cả 1 niềm tin ước mơ, em đến với rừng bởi rừng xanh
yêu thương".
- Bài : Tình cây và đất " Đất vắng cây đất ngừng ngừng hơi thở, cây thiếu đất
cây sống sống với ai"
* Truyện đọc:
"Rừng xanh kêu cứu" (Sinh học lớp 11)
Hoặc các em có thể tự sáng tác bằng nhiều cách :
- Tự vẽ tranh cổ động về chủ đề MT
- 6 -
- Viết khẩu hiệu cổ động về MT với lời lẽ ngắn gọn, cô đọng và ý nghĩa.
Ví dụ:
- Bảo vệ môi trường như bảo vệ chính con ngươi của mắt mình!
- Đừng phá huỷ vẻ đẹp của thiên nhiên!
- Để rừng mãi xanh
- Người ơi, đừng phá rừng!.
b. Tổ chức biểu diễn tuyên truyền về MT
Tận dụng thời gian ở 15 phút đầu giờ, tiết hoạt động NGLL hoặc tiết sinh hoạt cuối
tuần tôi cho các em biểu diễn những gì mà mình đã trưng bày ở góc MT của tổ dưới
nhiều hình thức:
- Thuyết minh cho tranh ảnh mình sưu tầm hoặc vẽ được.
- Đọc thơ
- Hát
- Đọc truyện
c. Lập sổ theo dõi:
Bất cứ công việc gì dù lớn hay nhỏ, muốn đạt hiệu quả cao cần phải biết khen chê
đúng lúc, đúng người và đúng sự việc. Để làm được đó tôi đã cho mỗi tổ lập 1 sổ theo
dõi theo mẫu:
STT Họ và tên Việc làm vì môi
trường
Việc làm ảnh
hưởng đến MT
Thời gian
1
2
Vào tiết sinh hoạt cuối tuần các tổ tổng kết trước lớp, GV nhắc nhở những HS nào vi
phạm nhiều đồng thời tuyên dương khen thưởng những HS có thành tích đôi khi chỉ là
những tràng pháo tay, những lời khen nhưng đó là niềm động viên rất lớn, là cách để
nhân điển hình.
d. Xây dựng góc sinh giới:
Ở vườn trường, chọn một địa điểm kích thước khoảng 10m x 10m làm góc sinh
giới. Nội dung góc sinh giới có thể là:
- Các cây cảnh
- Các cây trồng
- Hòn non bộ
- Bể cá cảnh
- Một số vật có ích: ếch, nhái.
Một số tiết học có liên quan như: Sự sinh sản của thực vật có hoa ( Khoa học/ 104),
Cây con có thể mọc lên từ 1 số bộ phận của cây mẹ ( Khoa học/ 110), Sự sinh sản của
ếch ( Khoa học/ 116) có thể tổ chức ở góc sinh giới giúp HS nắm bài tốt hơn, vừa bồi
dưỡng tình yêu thiên nhiên và ý thức, hành vi bảo vệ thiên nhiên.
- 7 -
3. Đ{y mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc lồng ghép:
Hiện nay CNTT ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ở mỗi trường đều được trang bị đầy
đủ mọi trang thiết bị đó là điều kiện thuận lợi để GV khai thác tài liệu, thông tin, hình
ảnh , video, và cũng dễ dàng chuyển tải nội dung đó đến với HS để kích thích sự
hứng thú, niềm say mê khi tiếp thu những vấn đề về môi trường.
Muốn dạy 1 vấn đề liên quan đến môi trường chúng ta chỉ việc vào Google hoặc
vào Thư viện trực tuyến Violet để download về, sau đó sử dụng phần mềm PowerPoint
2003 để soạn thảo trình chiếu
Nếu hình ảnh download xuống bị mờ ta có thể sử dụng phần mềm Office Picture
Manager để điều chỉnh
Đối với phim, khi download về thường có định dạng đuôi là flv, cần phải dùng phần
mềm để chuyển flv sang avi hoặc mpg mới đưa vào PowerPoint để trình chiếu được.
Nếu đoạn phim download xuống quá dài làm ảnh hưởng đến tiết dạy ta có thể sử dụng
phần mềm Movie Maker để cắt, ghép phim tư liệu
Ví dụ: Khi dạy bài ‘Môi trường” khoa học 5, ngoài những hình ảnh trong SGK ta có
thể download hàng loạt ảnh về môi trường rừng, môi trường nước, môi trường làng quê,
môi trường đô thị, …để phục vụ bài dạy
Hoặc bài Đất và rừng, tôi cho HS xem 1 đoạn phim về nạn cháy rừng hoặc chặt phá
rừng sau đó yêu cầu HS:
- Nêu hiện trạng rừng ở nước ta
- Hiện trạng đó ảnh hưởng gì đến môi trường ?
- Cần có những biện pháp gì để bảo vệ rừng ?
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Qua nhiều năm thực hiện lồng ghép giáo dục môi trường vào nội dung giảng dạy
như trên, bản thân tôi đã thu được những kết quả đáng kể :
- Thu hút các em tham gia vào góc MT góp phần làm cho lớp học thêm khang
trang, đẹp đẽ.
- Ý thức về MT của các em được nâng lên rõ rệt và bước đầu đã chuyển thành
những việc làm phù hợp với lứa tuổi của các em như:
+ Tự giác tham gia vào việc dọn vệ sinh lớp học và khu vực trường sạch sẽ,
thường xuyên chăm sóc và bảo vệ cây xanh trong khu vực trường.
+ Các em tham gia dọn vệ sinh ở thôn xóm nơi em ở, trồng cây xanh quanh
nhà, giữ gìn vệ sinh nhà ở và vệ sinh cá nhân sạch sẽ
- Nhiều năm liền lớp tôi phụ trách đều đạt danh hiệu lớp xuất sắc, chi đội vững
mạnh trong đó phải kể đến ý thức giữ gìn vệ sinh lớp học, vệ sinh khu vực, chăm sóc
cây
- Do đã nhiều năm nghiên cứu đề tài nên bản thân tôi không phải bỡ ngỡ khi tiếp
cận với chuyên đề lồng ghép GDMT của ngành mà vận dụng nó một cách nhuần
nhuyễn hơn, hiệu quả hơn.
VI. KẾT LUẬN:
Để thực hiện tốt việc lồng ghép GDMT vào chương trình chính khóa bản thân
GV cần:
- 8 -
- Nghiên cứu toàn bộ chương trình, nghiên cứu từng môn học, từng bài học để
khai thác nội dung cần lồng ghép.
- Phải nghiên cứu bài kỹ,tìm những hình thức lồng ghép phù hợp thông qua hệ
thống câu hỏi, bài tập, trò chơi, đóng vai
- Luôn thay đổi hình thức để tạo hứng thú học tập cho học sinh.
- Thường xuyên kiểm tra việc nhận thức của học sinh về môi trường, kịp thời bổ
sung, điều chỉnh những nhận thức lệch lạc.
- Khen thưởng kịp thời để động viên những học sinh có nhận thức đúng đắn về
môi trường hoặc có những hoạt động về môi trường.
Qua thực tế cho thấy việc áp dụng sáng kiến đã mang lại hiệu quả thiết thực, tuy
nhiên vẫn gặp không ít khó khăn về thời gian dành cho việc đầu tư, nghiên cứu lựa
chọn nội dung, hình thức, biện pháp lồng ghép cho phù hợp với nội dung bài học, sát
với yêu cầu GDMT và thật sự gần gũi với đời sống xung quanh các em.
Riêng biện pháp cuối cùng Xây dựng góc sinh giới bản thân tôi rất tâm đắc nhưng
vẫn còn nằm trong ý tưởng chưa thể thực hiện được vì không đủ điều kiện về cơ sở vật
chất, con người, cũng như nguồn kinh phí.
VII. ĐỀ NGHỊ:
- Nhà trường cần nghiên cứu đầu tư xây dựng góc sinh giới, tạo điều kiện để đề tài
được triển khai rộng rãi ở tất cả các khối lớp.
- Các cơ quan có chức năng nghiên cứu đưa GDMT và trong trường Tiểu học như là
một môn học chính khoá gồm những kiến thức thật gần gũi với các em như: Giữ gìn vệ
sinh lớp học, trồng và chăm sóc cây, không vứt rác bừa bãi,
Trên đây là những vấn đền mà bản thân tôi đã thực hiện và đúc kết lại thành một
kinh nghiệm nhỏ với tham vọng lồng ghép để nâng cao ý thức về môi trường trong hs,
chắc chắn còn nhiều vấn đề chưa được hoàn hảo. Rất mong Hội đồng khoa học các cấp
chân tình góp ý để sáng kiến từng bước hoàn thiện, với hy vọng đóng góp một phần nhỏ
bé vào việc bảo vệ môi trường, một vấn đề bức xúc của xã hội hiện nay.
Đại Nghĩa, ngày 14 tháng 3 năm 2010
Người viết
Nguyễn Th€ Xuân Lựu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tố Hữu, Thơ Tố Hữu, nhà xuất bản giáo dục giải phóng năm 1974
2. Nguyễn Khoa Lanh, Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nhà xuất bản giáo
dục năm 1998
3. P. A. Ruđich, Nguyễn Văn Hiếu dịch, Tâm lý học, nhà xuất bản Mir Macxcơva, nhà
xuất bản thể dục thể thao Hà Nội năm 1986
- 9 -
MỤC LỤC
Trang
I. Đặt vấn đề 1
II. Cơ sở lý luận 2
III. Cơ sở thực tiễn 2
IV. Nội dung nghiên cứu 3
V. Kết quả nghiên cứu 9
VI. Kết luận 9
VII. Đề nghị 10
- 10 -