Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm (xuất sắc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.09 KB, 21 trang )

Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU:

I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh có lời dặn người dân Việt Nam:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam “
Câu nói đó đã trải qua hơn thế kỉ nhưng ý nghĩa của câu nói đó vẫn còn in đậm
trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Tuy nhiên ngày nay dưới sự phát triển của khoa
học kĩ thuật thì mơn lịch sử trong các trường học đã dần bị thay thế bởi các mơn học
khoa học tự nhiên khác. Sở dĩ có điều đó là vì trong ý nghĩ của nhiều người thì mơn
Lịch sử thực sự khơng cần thiết, mà chỉ là một mơn học phụ. Thực tế đã chứng minh
điều đó: Trong những năm gần đây chất lượng thi vào đại học của khối C rất thấp mà
chủ yếu là ở mơn Lịch sử. Các điểm cao trong mơn Lịch sử thì ngày càng hiếm, thậm
chí số điểm liệt trong mơn này lại có xu thế gia tăng. Đặc biệt là ở khối THCS thì
điểm thi mơn Lịch sử vào các trường phổ thơng lại càng thấp hơn. Vậy làm thế nào để
nâng cao hơn chất lượng dạy và học của mơn này ? Đó là vấn đề được đặt ra khơng
chỉ đối với mỗi thầy cơ giáo mà cả đối với các em học sinh và các ban ngành khác.
Song bên cạnh đó trong hệ thống giáo dục ở trường trung học cơ sở, môn lòch sử
có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ về kiến thức văn hoá, tư
tưởng chính trò, phẩm chất đạo đức và năng lực hành động.
Lòch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không
chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng tình cảm. Bên cạnh đó góp pần xây dựng con
người phát triển hoàn thiện về “ĐỨC- TRÍ- THỂ- MĨ” Ở những mức độ khác
nhau. Nếu văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca để càng
yêu quý hơn con người, dân tộc Việt Nam thì thông qua môn học lòch sử các em
không chỉ thấy được quá trình phát triển của một đất nước, một dân tộc mà rộng
hơn là cả một xã hội loài người , bên cạnh đó nó góp phần quan trọng trong việc
hình thành bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học.
Như vậy so với các môn học khác thì môn lòch sử có nhiều ưu thế trong việc
giáo dục tư tưởng tình cảm đối với thế hệ trẻ, những kiến thức lòch sử không chỉ


đơn thuần dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao
động, trân trọng cái đẹp mà còn góp phần đònh hình cho học sinh cách ứng xử
Sáng kiến kinh nghiệm 1 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
đúng đắn trong cuộc sống bởi “Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học lòch sử
có những yếu tố nghệ thuật” (N.A.Erojheop).
Mặt dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ
nhưng hiện nay việc dạy học lòch sử chưa hoàn thành tốt vai trò của mình và một
thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn lòch sử, xem nhẹ môn lòch sử.
Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu hệ thống vì đa
phần các em cho rằng học lòch sư ûphải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, lòch sử
là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là những cái đã qua không thể
thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì để vận dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do
bản thân môn lòch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa
đáp ứng yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy lòch sử chưa phát huy được thế
mạnh của bộ môn, chưa chỉ cho các em xác đònh được đây là bộ môn khoa học cần
phải có sự học tập nghiên cứu nghiêm túc, chưa tái hiện được không khí của lòch
sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy được
tính tích cực của học sinh làm cho không khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở
nên khô khan nặng nề. Để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học lòch sử, để
khắc sâu, để nhớ lâu các sự kiện lòch sử người giáo viên lòch sử cũng cần quan tâm
các môn học lân cận hổ trợ cho bài học lòch sử. Ví như một câu thơ, một đoạn thơ
hay một câu trích dẫn …để các em sống lại trong cái tinh thần lòch sử không khí của
lòch sử đương thời .
Để khắc sâu, để lắng động , để trở thành tri thức học sinh còn khao khác
một cái gì đó chạm đến tâm linh , lắng vào tiềm thức, các em có thể tìm lại sự
kiện lòch sử trong kho sách vở, có thể thấy lại thời gian qua cuốn biên niên sử.
Nhưng còn cái thần thái của lòch sử, cái không khí lòch sử hào hùng, cái tâm huyết,
cái tầm của thời đại … Cái mà học sinh cũng đang chờ đợi ở người giáo viên dạy

môn lòch sử.
Những bộ môn lân cận sẽ làm phong phú tri thức học sinh về bộ môn lòch sử
và chính bộ môn lòch sử sẽ giúp để các bộ môn láng giềng khác. Người giáo viên
lòch sử cần quan tâm tới sự tác động lẫn nhau của các môn học.
Vì vậy trong khoá trình lòch sử phải biết kết hợp một số câu trích dẫn, một
câu văn, câu thơ … để miêu tả, để tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động
của nhân vật, một cuộc cách mạng, một cuộc đấu tranh … điều đó làm cho giờ học
Sáng kiến kinh nghiệm 2 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
lòch sử sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn , học sinh sẽ yêu thích, hứng, say mê
học tập môn lòch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lòch sử. Từ
những vấn đề trên tôi quyết đònh chọn đề tài “ VẬN DỤNG LỒNG GHÉP KIẾN
THỨC LIÊN MƠN ĐỂ GIẢM BỚT SỰ KHƠ KHAN TRONG DẠY HỌC MƠN LỊCH
SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ”.
Vì vậy làm thế nào để tạo cho học sinh hứng thú học lòch sử, phát huy tích
cực xây dựng bài, kích thích sự tìm hiểu khám phá về kiến thức…Thiết nghó có rất
nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề trên, vậy trong
khuôn khổ bài viết nhỏ này tôi xin trình bày một vài suy nghó trong việc xây dựng
hứng thú học tập lòch sử cho học sinh bằng cách vận dụng, lồng ghép kiến thức
liên môn vào bài giảng.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Nghiên cứu thực trạng trong dạy học môn lòch sử từ đó tìm ra phương pháp
dạy học theo hướng tích cực để giảm bớt sự khô khan trong giờ học lòch sử. và từ
đó đưa ra phương pháp hổ trợ nhằm kích thích sự hứng thú trong học tập ở các em.
III. ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu: Là thực trạng dạy học lòch sử của giáo viên ở trường
trung học cơ sở.
Phạm vi nghiên cứu : Trường trung học cớ sở EaLê gồm giáo viên đã và
đang giảng dạy môn lòch sử.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.

Nghiên cứu thực trạng công tác giảng dạy môn lòch sử ở trường trung học cơ
sở EaLê trong điều kiện giáo dục hiện nay.
Tổ chức thử nghiệm biện pháp dạy học liên môn để giảm bớt sự khô khan
trong giờ học lòch sử.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn lòch sử
ở trường trung học cơ sở.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu và các văn bản về lý luận có liên quan đến
đề tài.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Sáng kiến kinh nghiệm 3 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
PHẦN B. NỘI DUNG

I. CƠ SỞ PHÁP LY.Ù
Môn lòch sử vốn có vò trí, ý nghóa quan trọng đối với giáo dục thế hệ trẻ. Từ
những hiểu biết về quá khứ học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc. Tự hào với
những thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác đònh vò trí trong hiện tại, có thái độ
đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Trong Nghò quyết Hội nghò
Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ hai khoá VIII (tháng 2/1997) đã khẳng
đònh vai trò của môn lòch sử, cùng các môn khoa học xã hội khác trong công tác
giáo dục.
Không những ngày nay Nhà nước mới quan tâm đến giáo dục mà ngay từ
năm 1998 luật giáo dục cũng đã xác đònh “phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực của học sinh , bồi dưỡng năng lực học tập có lòng say mê học tập có ý
thức vươn lên”.
Cũng như các môn học khác đặc điểm và chức năng của mình việc học tập
lòch sử lại cần phát huy năng lực tích cực của học sinh.
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và Nhà nước xác đònh, hoàn

chỉnh, bổ sung qua các thời kì.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Trong thực tế, giảng dạy lòch sử là môn học có kiến thức liên môn, song có
lẽ có mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau nhiều nhất là
mối quan hệ giữa lòch sử và văn học. Trước hết lòch sử đề cập đến nhiều lónh vực
khác nhau của cuộc sống cho nên việc lồng ghép kiến thức văn học vào trong giờ
dạy lòch sử là điều không thể thiếu được. Nếu như văn học thường mô tả những sự
kiện bằng hình tượng thì lòch sử tái tạo lại quá khứ bằng những con số , sự kiện cụ
thể, điều đó đã tác động rất lớn đến nhận thức của học sinh. Đã có không ít tác
phẩm văn học từ bản thân nó là một tư liệu lòch sử như “HỊCH TƯỚNG SĨ”;
“CÁO BÌNH NGÔ”; HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ”… là những minh chứng
hùng hồn cho mối quan hệ tương đồng giữa lòch sử và văn học.
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của việc dạy
học ở tường phổ thông nói chung, môn lòch sử nói riêng. Đối với môn lòch sử mà
chức năng là cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội
Sáng kiến kinh nghiệm 4 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
loài người, việc nắm vững các sự kiện lòch sử liên quan chặt chẽ với hiểu biết tri
thức về nhiều môn khoa khọc xã xội và nhân văn và cả khoa học tự nhiên là yêu
cầu quan trọng.
Việc dạy học liên môn đòi hỏi giáo viên lòch sử không chỉ có kiến thức vững
vàng về bộ môn mà còn phải nắm nội dung chương trình các môn học ở trường
phổ thông như: Đòa lí, giáo dục công dân, văn học đặc biệt là một số câu văn, câu
thơ, câu trích dẫn…có liên quan đến sự kiện lòch sử.
Việc sử dụng một số câu văn, thơ, câu trích dẫn để giảng dạy lòch sử cũng là
một hình thức dạy học liên môn.
III. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.
Hiện nay trong các nhà trường có rất nhiều học sinh thích học môn lòch sử
nhưng bên cạnh đó cũng có không ít học sinh không thích học môn lòch sử, các em
coi học môn lòch sử quá khô khan , cứ nói đến lòch sử là cả một khoản thời gian và

sự kiện làm sao nhớ được và học không có cách nào khác là chỉ thuộc lòng những
gì mà thầy, cô cho ghi và cố nhớ đã tạo nên một sự áp đặt trong học tập của các
em. Do đó đã có tình trạng là sự kiện này gắn liền với thời gian kia hay nhân vật
nọ gắn liền với thời điểm kia, một giờ học lòch sử buồn bả, khô khan, tinh thần học
của học sinh rất ể oải.
Từ nội dung và bản chất của quá trình dạy học không chỉ truyền đạt cho học
sinh những kiến thức sự kiện lòch sử một cách hời hợt cảm thấy khô khan trong
giờ học lòch sử mà cần phải làm cho giờ học đó sống động, học sinh hứng thu học
tập hơn. Trong thực tế những giờ học lòch sử có dẫn dắt một số câu thơ, câu văn,
câu trích dẫn…minh họa cho một sự kiện lòch sử, bài học lòch sử thì giờ học đó sinh
động hơn, hấp dẫn học sinh hơn giờ học đạt hiệu quả cao hơn.
Trong dạy học dùng thơ văn làm cho học sinh có vai trò tích cực, chủ động
trong việc học tập, qua đó các em chủ động huy động những kiến thức đã học để
hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lòch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, cũng cố,
tổng hợp các kiến thức ở mức độ cao hơn.
Vì thế với trọng trách là giáo viên dạy môn lòch sử trong nhiều năm qua, bản
thân tôi được phân công dạy ở các khối - lớp của bậc THCS đã thấy tình hình
thực tế như vậy nên tôi thiết nghó mình phải có nhiệm vụ là làm thế nào để học
sinh có hứng thú học môn lòch sử nhiều hơn.
IV. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN.
Sáng kiến kinh nghiệm 5 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
1. Khái quát phạm vi.
Trường trung hoc cơ sở EaLê đóng tại đòa bàn thuộc xã EaLê , huyện
EaSup, tỉnh ĐăkLăk. Gồm 24 lớp với số giáo viên và công nhân viên là 59 chia
làm 7 tổ.
Trường THCS EaLê cơ sở vật chất còn thiếu thốn, học sinh đa số là con gia
đình có hoàn cảnh khó khăn, học sinh dân tộc thiểu số chiếm hơn 30% tổng số học
sinh toàn trường. Phần lớn sống rải rác ở các thôn, đường xá đi lại khó khăn phần
nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập, tuy có sự khó khăn trên thầy và trò trường

THCS EaLê không ngừng phấn đấu vươn lên và đã đạt được một số thành tích
nhất đònh.
2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
Trong việc dạy học lòch sử ở trường nói chung và ở trường học cơ sở nói
riêng mỗi người giáo viên dạy một môn học khác nhau và ai cũng lo lắng việc tiếp
thu kiến thức của học sinh về chính bộ môn mình phụ trách. Học sinh đã nghiên
cứu cái gì, đang nghiên cứu cái gì và sẽ nghiên cứu cái gì về bộ môn khác. cái đó
dường như không làm cho chúng ta quan tâm tới .Nhưng thực ra thiếu bộ môn khác
thì công việc của người giáo viên bộ môn sẽ không ổn , cũng như hàng loạt các bộ
môn khác không thể thiếu bộ môn của chúng ta.
Qua đặc điểm tình hình như vậy tôi đã tiến hành khảo sát tìm hiểu về phía
học sinh. Cụ thể tôi đã phát câu hỏi đến tận học sinh để cho các em phát biểu cảm
nghó của mình thế nào.
Nội dung câu hỏi:
? Em có cảm nhận như thế nào khi học môn lòch sử?
p dụng cho tất cả các khối:
6 (A6) : 22 em
7 (A6) : 22 em
8 (A5) : 20 em
9 (A7) : 22 em
Với số lượng 86 học sinh.
Khi tổng hợp thì có kết quả như sau :
+ 60% học sinh cho rằng Lòch sử là môn học bổ ích nhưng khô khan, thiếu
sinh động, quá nhiều mốc thời gian - khó nhớ.
Sáng kiến kinh nghiệm 6 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
+ 40% học sinh thích học môn lòch sử.
Qua thực tế tôi nhận thấy rằng sự mâu thuẩn giữa nhận thức là môn học bổ
ích cho kiến thức người học nhưng các em lại không thích học. Cụ thể theo tỉ lệ
phần trăm nêu trên.

Khi giảng dạy nội dung một bài học lòch sử người giáo viên không chỉ tập
trung khai thác đủ nội dung kiến thức của bài một cách rập khuôn theo SGK, SGV
hoặc sách hướng dẫn là thoả mãn với công việc mà đòi hỏi phải tìm tòi, cập nhật
thông tin vận dụng vào nội dung bài giảng một cách sinh động để lôi cuốn học
sinh vào bài học với một không khí nhẹ nhàng, thoải mái.
3. Nguyên nhân của thực trạng.
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp học hỏi kinh nghiệm ở các đồng
nghiệp của trường THCS EaLê tôi nhận thấy trong tiết học lòch sử hầu như giáo
viên chỉ tường thuật, nhồi nhét các sự kiện lòch sử cho học sinh làm cho giờ học trở
nên cứng nhắc và khô khan, làm cho học sinh chán nản và thậm chí không yêu
thích bộ môn lòch sử, dẫn đến kết quả của bộ môn không cao.
Bên cạnh đó học sinh chưa đầu tư cho môn học lòch sử vì cho rằng môn học
này là môn học phụ.
Trong thực tế không ít giáo viên đang còn quá rập khuôn trong bài giảng
nên dẫn đến sự khô khan và thiếu sinh động. Mặc khác, việc tích cực chủ động và
tìm tòi tài liệu Lòch sử ở học sinh còn hạn chế, các em chưa biết vận dụng mốc
thời điểm lòch sử với xu hướng chung, tình hình văn hoá xã hội.
Như vậy, về chủ quan mà nói trong thực tiễn giảng dạy , sự đầu tư tìm tòi
mọi nguồn tài liệu để phục vụ cho bài giảng của người giáo viên còn hạn chế và
thường cho rằng trách nhiệm môn nào thì đào sâu môn đó với tính chất nguyên tắc
chủ quan. Bởi thế khi dạy chỉ nghó làm sao nói và truyền tải hết nội dung, sự kiện
là coi như bài giảng đã hoàn chỉnh.
Nhưng xét về mặc khách quan thì:
Thứ nhất: Nguồn tài liệu kể cả bộ môn này cũng như bộ môn khác tài liệu ở
thư viện nhà trường còn rất hạn chế nên khi cần tài liệu để giảng dạy một bài đạt
chất lượng về mọi mặc là rất khó khăn.
Thứ hai: Tâm lý của học sinh ưa thích sự đơn giản, thích những gì dễ nghe,
dễ hiểu, dễ nhớ.
IV. GIẢI PHÁP.
Sáng kiến kinh nghiệm 7 Môn: Lòch sử

Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
1. Cơ sở đề xuất các giải pháp.
Để khắc phục thực trạng nói trên, để nâng cao chất lượng dạy và học môn
lòch sử người giáo viên phải biết sưu tầm tài liệu, tranh ảnh… đặc biệt những câu
thơ, câu văn, những câu trích đẫn để phục vụ tiết học lòch sử không bò khô khan.
2. Các giải pháp chủ yếu.
Trong giảng dạy bộ môn lòch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng
trong việc làm sống lại các sự kiện lòch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến
thức trong SGK thì khó có thể tạo dựng lại không khí lòch sử cần thiết. Để thu hút
các em đi sâu tìm hiểu khám phá quá khứ của dân tộc tạo nên những cảm xúc thực
sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức văn học vào giảng dạy lòch sử
là điều cần thiết góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh động và hấp dẫn , nâng
cao hứng thú học tập của các em.
Để đáp ứng những vấn đề nêu trên trong bài viết này tôi chỉ đi sâu vào gốc
độ, một khía cạnh của vấn đề là việc sử dụng câu thơ, câu văn, đoạn trích dẫn để
giảm bớt sự khô khan trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở, qua khoá
trình lòch sử Việt Nam theo cấu tạo chương trình hiện hành.
Thứ nhất: Trong chương trình lòch sử lờp 6
- Khi dạy bài 12 “ Nước Văn Lang ”
Nhu cầu chống ngoại xâm đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự lớn
mạnh nhanh chóng của xã hội Văn Lang đương đầu với kẻ đi xâm lược, khi chống
giặc thì đã “vụt lớn nhanh như thổi”
“Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy ngàn cân
Cưỡi con ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng đuổi giặc n”.
(Tố Hữu- Theo chân Bác)
- Hay nói sự phân chia các tầng lớp trong thời kỳ nước u Lạc
“Quậy ủ chủ tươi, quậy cười chủ khóc”
- Khi xác đònh mục tiêu khởi nghóa Hai Bà Trưng (năm 40) khi trình bày những

diễn biến cuộc khởi nghóa giáo viên đọc luôn 4 câu thơ:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Sáng kiến kinh nghiệm 8 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lên này”
- Trong bài 19 “Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế” ở phần sự
phát triển kinh tế xã hội và văn hoá nước ta các thế kỉ I-VI, giáo viên có thể minh
họa:ï
“Trích quang nhân nghóa đạo hành
Só vương mở việc học hành chữ nho
Nhâm bày cho các nông gia
Biết dùng cày cuốc trâu bò làm nông”
- Ở Bài 20 mục 4 “Cuộc khởi nghóa Bà Triệu” (năm 248). vơi câu nói khẳng
khái “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi,
đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chòu khom
lưng làm tì thiếp người”. Để nói lên lòng tôn kính và ủng hộ của nhân dân đối với
bà Triệu với câu ca dao:
“ Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Có bà Triệu tướng cưỡi voi đánh chồng”
Hay giặc Ngô khiếp sợ bà :
“ Hoành qua đương hổ dò
Đối diện Bà Vương nan”
- Khi dạy bài 27 “Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938”
Trước khi người giáo viên tường thuật trận đánh, cần phải mô tả việc Ngô
Quyền nhận đònh tình hình đòch ta và đã có chiến thuật phù hợp : “Hoàng Thao là
một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe được Công Tiễn

đã chết, không có ai làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức mạnh đối đòch
với quân mỏi mệt tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền nếu ta không phòng bò
trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng
ngầm ở cửa biển trước vạt nhọn đầu mà bòt sắt thuyền của họ nhân khi nước triều
lên tiến vào bên trong hàng cọc bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế
ấy cả”
Sáng kiến kinh nghiệm 9 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
Điều đó sẽ thu hút sự chú ý gây hứng thú cho học sinh tiếp cận bộ môn lòch
sử với tư cách là một môn khoa học, giúp học sinh nhớ lại thời kì quá khứ cùng với
bàø Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền phục hưng đôïc lập cho dân tộc.
Thứ hai: trong chương trình lòch sử lớp 7
Cũng bằng phương pháp trên tôi áp dụng trong bài “Chiến thắng Chi Lăng –
Xương Giang”. Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng – Xương Giang tôi trích dẫn
trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi:
“… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
… Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước…
Bò ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vở mật…”
Không khí rất sôi nổi, thoải mái đầy hào hứng. Các em tỏ ra thích thú với
các sự kiện trong bài và có thái độ rõ ràng khi giáo viên nêu lên dẫn chứng tiêu
biểu.
- Khi giảng dạy bài 11: “Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống”
(1075-1077)
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống kết thúc với thắng lợi hoàn
toàn thuộc về dân tộc ta. Độc lập chủ quyền và lãnh thổ của tổ quốc được giữ
vững. Mộng tưởng xâm lược của nhà Tống hoàn toàn bò tiêu tan. Trong khí thế
vươn lên của dân tộc để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Lý Thường

Kiệt đã viết lên bài thơ bất hủ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên đònh phận tai thiên thư.
Như hà nghòch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư.”
Dòch là : “ Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành đònh phận ở sách trời.
Cớ sao lủ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bò đánh tơi bời.”
Sáng kiến kinh nghiệm 10 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
- Khi dạy bài 14: “Ba lần kháng chiến chống xâm lược Mông-Nguên thế
kỉ XVIII”.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) vô cùng gay go, ác liệt nhưng thất bại
của quân thù vì thế càng nhục nhã hơn và thắng lợi của dân tộc ta lại càng vang dội.
Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết qua cuộc kháng chiến này đã được ghi vào lòch sử
như những chiến công oanh liệt.
Ba lần kháng chiến thắng lợi ta đã tiêu diệt hàng chục vạn quân xâm lược,
làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, không dám xâm lựơc đến nước ta. Với tâm trạng bi
đát của người lính già trong quân đội Nguyên đã từng nếm mùi thất bại
“ Lính già từng trải mùi chinh chiến
Nghe nói nam chinh ủ mặt mày”
(Thơ Ngyễn Trung Ngạn )
Và đây cũng là nổi lo âu của một sứ thần nhà Nguyên khi bước chân vào
nước Việt:
“Bóng loè gươm sắt lòng thêm đắng
Tiếng rộn trống đồng tóc đóm hoa”
(Thơ Trần Phu)
- Bài 19 “Khởi nghóa Lam Sơn(1418-1427)”
Nghóa quân Lam Sơn bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với quân

thù, trong tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch, từ tay không mà xây dựng lực
lượng. Lúc mới khởi sự quân không quá 2000 người, đó là lúc:
“Cơm không ăn đủ hai bữa
o không phân biệt độỊ”

Hay “ Khi linh sơn hét mấy tuần
Khi khôi huyện quân không một đội”
Nhưng nghóa quân vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu
vì độc lập dân tộc.
“Việc nhân nghóa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Không đầy một tháng chiến dòch Chi Lăng –Xương Giang tiêu diêt hoàn
toàn 10 vạn quân tiếp viện của nhà Minh. Đó là một chiến thắng hết sức oanh liệt
và triệt để. Cả chiến dòch là một đoàn tiến công liên tục, chủ động với lối đánh
Sáng kiến kinh nghiệm 11 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
cực kì mưu trí, sáng tạo của nghệ thuật quân sự “Lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh
mạnh “ và với khí thế dũng cảm vô song.
“Đánh trận đầu sạch sanh kình ngạc
Đánh trận nữa tan tác chim muôn
Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch”
Điều đó chứng tỏ rằng vào thế kỉ thứ XV, dân tộc Việt Nam là một dân tộc
trưởng thành, có ý thức dân tộc sâu sắc, có sức sống phi thường và năng lực sáng
tạo phong phú. Đó là một dân tộc đã có hàng ngàn năm lòch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước, đã có năm thế kỉ sống độc lập hoàn toàn với tư cách là một
quốc gia tiên tiến, không một thế lực xâm lược nào có thể khuất phục nổi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng

Phong tục Bắc- Nam cũng khác
Ngô…Đinh,Lý trần nối đời dựng nước
Cùng Hán,Đường,Tống,Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”
( trích Bình ngô đại cáo)
- Bài 25 “Phong trào Tây Sơn” phần IV, mục 2” Tây Sơn đại phá quân
Thanh(1789)”
Khi Giáo viên trình bày trước thế mạnh của giặc quân Tây Sơn do Ngô Văn
Sở chỉ huy, theo kế hoạch của Ngô Thì Nhậm rút khỏi Thăng Long về xây dựng
phòng tuyến Tam Điệp –Biện Sơn. Để học sinh hiểu được vò trí Tam Điệp giáo
viên dẫn hai câu thơ của Ngô Thì Só:
“Đoạn trụ quần sơn nhãn giới khoan
Ngư đồng thiên khổng cửa trùng quan”
(Đứng nhìn rạng núi mênh mông
Cửa trời miệng đó trấn hùng một phương)
Trước khi xuất phát Quang Trung mở tiệc khao quân và tuyên bố: “Nay hãy
làm lễ ăn tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân, ngày mồng bảy vào Tăng
Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta có đúng thế không?”. Trước
đó trong lời dụ tướng só tại Thanh Hoá Quang Trung cũng đã nói lên quyết tâm sắt
đá đánh tan quân ngoại xâm để bảo vệ nền đọc dân tộc :
Sáng kiến kinh nghiệm 12 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”û
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời đã ghi lại không khí tưng bừng của
ngày chiến thắng khi Quang Trung Hoàng đế tiến vào kinh đô Thăng Long.

“Đầy thành già trẻ mặt như hoa
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói
Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”
- Khi dạy bài 27 “Chế độ phong kiến nhà Nguyễn”
Giáo viên có thể khái quát tình cảnh xác xơ của đời sống xã hội trong thời
nhà Nguyễn như:
”Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp
Ngày thê lương nặng giọt mưa sa
Đèn con con gon chiếc chiếu lôi thôi
Đêm tòch mòch soi chung vừng trăng tỏ”
Thứ ba: Chương trình lòch sử lớp 8
Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến từ 1858 – 1873” mô tả về hoàn cảnh
nước ta khi thực dân Pháp xâm lược, lên án trách nhiệm của nhà Nguyễn và nêu
cao tinh thần chiến đấu của nhân dân Nam Kỳ. Chúng tôi trích dẫn thơ của
Nguyễn Đình Chiểu bài “Chạy tây” và bài “Văn Tế Nghóa Sỹ Cần Giuộc”:
“Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay
cầm một ngọn tầm vông chư nài, sắm dao tu nón gõ
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, gươm đeo
dùng bằng lưỡi dao phay chém rớt đầu quan hai nọ…”
Học sinh có ngay những hình dung về phong trào đấu tranh của nhân dân ta
lúc bấy giờ.
Chẳng hạn khi dạy bài “Phong trào kháng Pháp trong những năm cuối
thế kỷ XIX” ta có thể đặt câu hỏi: Trong văn học các em thấy có tác phẩm nào đề
cập đến bối cảnh đất nước giai đoạn này? Bằng các ý trả lời của học sinh chúng ta
đi vào khái quát tình hình đất nước trên cơ sở các kiến thức lòch sử đã học.
Sáng kiến kinh nghiệm 13 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng kiến thức văn học trong
giảng dạy lòch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay một
trích đoạn để cụ thể hoá vấn đề, sự kiện nhằm nêu ra một kết luận khái quát giúp

học sinh hiểu sâu sắc hơn. Cũng có thể giáo viên chỉ cần liên hệ qua một câu hỏi
(có thể ở đầu, giữa hoặc cuối bài) tạo tính liên hệ qua một tác phẩm văn học với
một sự kiện lòch sử để gây hứng thú học tập.
- Trong bài 24:
Để biểu lộ sự phản đối thỉnh nộ của quần chúng đối Vua tôi nhà Nguyễn,
giáo viên minh hoạ:
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba
Nghe loạt vào tai luống xót xa.
Uẩn khúc sông rồng mù mòt khói
Vẳng ve thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hoà
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
Ngậm cười hết nói nổi quan ta.”
(Phan Văn Trò - Cảm Khái)
Hoặc:
“…Thà thua xuống láng xuống bưng
Kéo ra hàng giặc lỗi chung quân thần”
Khi nêu tấm gương Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận
đánh đắm tàu Ét-pê-răng trên sông Nhật Tảo (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên
Giang (6/1868) giáo viên đọc hai câu thơ ca ngợi:

“Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên đòa
Kiếm bạc Kiên Giang khóc quỷ thần”
Hoặc:
“Anh hùng cường cảnh phương danh thọ,
Tu sát đê đầu vò tử nhân…”
Dòch :
”Anh hùng cứng cổ danh còn mãi,
Sáng kiến kinh nghiệm 14 Môn: Lòch sử

Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
Thẹn chết bao nhiêu lũ cúi đầu…”
(Huynh Mẫn Đạt-điếu)
- Mục 1, phần II, bài 25 “kháng chiến lan rộng ra toàn quốc(1873-1884)”.
Giáo viên đọc cho học sinh thấy được sự phản đối mạnh mẽcủa nhân dân
sau Hiệp ước Giáp Tuất 1874 lúc này nhân dân không chỉ chống giặc Tây mà
chống cả Triều đình:
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
- Trong bài 29: “Chính sách khai thác thuộc đòa của thực dân Pháp và
những chuyển biến về kinh tế xã hội ở Việt Nam”. Khi phân tích cuộc sống
của người công nhân dưới thời Pháp thuộc, có thể minh hoạ:
“Cao su đi dễ, khó về
Khi đi mất vơ khi về mất con”
Hoặc:
“ Cao su xanh tốt lạ thường
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
Khi trình bày chính sách bóc lột của thực dân Pháp có thể dẫn:
“Trời đất hởi! Dân ta khốn khổ
Đủ các đường thuế nọ, thuế kia
Lưới vây chài quét trăm bề
Róc xương, róc thòt, còn gì nữa đâu!”
(Nguyễn Phan Lãng – Thiết Tiền Ca)
- Trong bài 30: “Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến
năm 1918”, ở phần II, mục 3 Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra
đi tìm đường cứu nước. Những ngày tháng sống ở Anh làm công việc cào tuyết
trong một trường học:
“Và sương mù thành Luân Đôn.
Người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm đông”

Những ngày tháng sống ở Pa ri giá lạnh “Một viên gạch hồng Bác chống lại
cả một mùa đông băng giá”
Thứ tư: Chương trình lòch sử lớp 9
Sáng kiến kinh nghiệm 15 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
Chẳng hạn khi dạy bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
pháp xâm lược kết thúc” sau khi khái quát về kết quả của chiến dòch Điện Biên
Phủ tôi đã trích dẫn thơ của Tố Hữu:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn…”.
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dòch mà còn hướng cho học sinh đi tìm
hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, tôi nhận
thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều
này có ý nghóa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của
các thế hệ đi trước cũng như góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước
trong nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghóa chiến thắng của Điện Biên Phủ tôi trích hai câu thơ:
“9 năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Dạy bài “Tổng khởi nghóa tháng Tám năm 1945” tôi nhấn mạnh khí thế
bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghóa đang lan rộng ra khắp các đòa phương
trong toàn quốc bằng một đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghóa chính quyền về tay…”
Học sinh rất chú ý lắng nghe, khi được gọi lên nhận xét các em đã khái quát
được không khí trong cuộc khởi nghóa khi liên tưởng đến những sự kiện mình đang
học bằng hình ảnh đồng thời còn giúp các em đánh giá đúng về vai trò của quần

chúng nhân dân những người làm nên lòch sử – Là động lực chính đưa cách mạng
đến thành công.
- Trong bài 16: “Hoạt động của Nguyễn i Quốc ở nước ngoài (1919-
1925)”.
Nguyễn i Quốc đã bôn ba khắp năm châu, bốn biển để tìm con đường giải
phóng cho dân tộc, đem lại ấm no cho nhân dân. Câu chuyện cảm động khi
Nguyễn i Quốc đọc “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc đòa” của Lênin.
Nguyễn i Quốc bật khóc :
Sáng kiến kinh nghiệm 16 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
“Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im, nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.”
(Chế Lan Viên)
- Khi dạy bài 22: “Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghóa năm
1945”, mục I - Mặt trận Việt Minh ra đời.
Sau những ngày bôn ba năm 1941. Nguyễn i Quốc trở về tổ quốc
Giáo viên minh hoạ :
“Bác đã về đây tổ quốc ơi
Nhớ thương hòn đất ấm hơi người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi”
(Tố Hữu-Theo chân Bác)
- Bài 27: Mục II - chiến dòch Điện Biên Phủ. Với tinh thần tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng được thể hiện qua bài thơ “Hoan hô chiến só Điện
Biên”
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng chí không mòn”

Với gương hi sinh của Tô Vónh Diện, Nguyễn Văn Chức:
“Những đồng chí chèn lưng kéo pháo
Nát thân nhăm mắt còn ôm “
Nói về công binh:
“Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất đònh mở đường cho xe ta ra chiến trường tiếp viện”
- Khi trình bày quyết tâm của Bôï chính trò giải phóng quân miền Nam trong
năm 1975, người giáo viên có thể minh hoạ câu thơ sau:
“Anh ra đi dặn thắng mới về
Phút giây cảm động nói năng chi
Lời anh là cả lời non nước
Nghìn dặm trường sơn sá ngại gì”
Sáng kiến kinh nghiệm 17 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
(Lê Đức Thọ)
- Bài 30: “Hoàn thành giải phóng Miền Nam giải phóng đất nước”. Ngày
30/4/1975 là ngày hội của cách mạng, quần chúng đổ xô xuống đường với cờ hoa
lộng lẫy, ngày toàn thắng đã về ta, ngày giang sơn thu về một mối :
“Ôâi buổi trưa nay tuyệt tràn nắng đẹp
Bác Hồ ơi toàn thắng đã về ta
Chúng con đến xanh ngời ánh thép
Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa”
(Tố Hữu)
Các tác phẩm văn học trên đây, bằng những hình tượng cụ thể, có tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc qua các bài học lòch sử.
Như vậy, tôi nhận thấy rằng sử dụng lồng ghép kiến thức văn học trong
giảng dạy lòch sử không những giúp các em nắm vững nội dung bài nhanh chóng,
nhớ lâu hơn mà còn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học tạo điều kiện cho
học sinh hình thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình.
Không những chỉ gần gũi trong nội dung kiến thức lòch sử và văn học còn có

nhiều điểm tương đồng về phương pháp so sánh, miêu tả.
3. Tổ chức triển khai thực hiện.
Đề tài này được áp dụng rộng rải cả cấp học, ở các lớp 6,7,8,9 chủ yếu là
chương trình lòch sử Việt Nam
Năm học 2008-2009 Tôi được phân công giảng dạy môn lòch sử lơp 6,7,8,9,
tôi áp dụng đề tài này đạt được kết quả sau:
4. Kết quả đạt được.
Sau khi tiến hành đưa ra giải pháp hỗ trợ để giúp học sinh hứng thú với môn
lòch sử hơn, tôi nhìn thấy sự nhận thức của các em về môn lòch sử có sự chuyển
biến rõ rệt. Để nắm bắt tình hình sau khi đã thực hiện giải pháp tôi tiến hành điều
tra lấy ý kiến đối với những đối tượng học sinh ban đầu và kết quả đạt được như
sau:
+ 91% học sinh thích học môn lòch sử,cho rằng lòch sử là môn học bổ ích, các
em cảm thấy thích học và yêu môn lòch sử.
+ 9 % học sinh cho rằng Lòch sử là môn học bổ ích nhưng khô khan, thiếu sinh
động, quá nhiều mốc thời gian - khó nhớ.
Sáng kiến kinh nghiệm 18 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN LỊCH SỬ
Năm học: 2008-2009
Học kỳ I
Lớp dạy/
số lượng
Giỏi
Khá
Trung
bình
Yếu Trung bình
trở lên
Ghi

chú
SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
)
Lớp6A6/2
2
02 9,1 12 54,5 06 27,3 02 9,1
Lớp7A6/2
2
03 13,6 12 54,6 05 22.7 02 9,1
Lớp8A5/20
03 15 08 40 06 30 03 15

Lớp9A7/2
2
02 9,1 06 27,3 09 40,9 05 22,7
Học kỳ II
Lớp dạy/
số lượng
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu Trung bình
trở lên
Ghi
chú
SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0
/
0
) SL TL(
0

/
0
)

Lớp6A6/22
04 18,2 15 68,2 03 13,6 0 100
Lớp7A6/22
05 22,7 15 68,2 02 9,1 0 100
Lớp8A5/20
04 20 13 65 03 15 0 100
Lớp9A7/22
04 18,2 14 63,6 04 18,2 0 100
Cả năm
Lớp dạy/
số lượng
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu Trung bình
trở lên
Ghi
chú
SL TL(
%
) SL TL(
%
) SL TL(
%
) SL TL(
%
) SL TL(

%
)
Lớp6A6/22
06 27,3 14 63,6 02 9,1 0 100
Lớp7A6/22
07 31,8 12 54,6 03 13,6 0 100
Lớp8A5/20
06 30 13 65 01 5 0 100
Lớp9A7/22
07 31,8 13 59,1 02 9,1 0 100
Sáng kiến kinh nghiệm 19 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
PHẦN C: KẾT LUẬN:
Như vậy việc tạo hứng thú học tập là điều kiện cần thiết để tiến hành giáo
dục và giáo dưỡng có hiệu quả, hình thành thế giới quan khoa học đối với học sinh
điều này cần được tiến hành trên tất cả các mặt nội dung, phương pháp, điều kiện
học tập… Ngoài việc sử dụng các phương tiện trực quan khi đưa kiến thức văn học
lồng ghép trong bài dạy có tác động rất tốt đến sự chú ý của các em. Trước hết
việc sử dụng ngôn ngữ mượt mà, những giai điệu âm thanh giàu tính hình tượng có
biểu cảm, những hình tượng nghệ thuật gắn liền nội dung lòch sử không những
giảm đi tính khô khan của các sự kiện mà còn tạo ra không khí nhẹ nhàng trong
tiết học giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu hơn kiến thức mà mình thu nhận được. Để
nâng cao hiệu quả sử dụng kiến thức văn học trong giảng dạy lòch sử phải vận
dụng một cách khéo léo có chọn lựa những chi tiết sao cho phù hợp với mục đích
yêu cầu của bài giảng và tính chất của từng sự kiện, hiện tượng lòch sử. Kết hợp
kiến thức của môn lòch sử với môn ngữ văn để xây dựng lên một bức tranh sinh
động về những sự kiện, những nhân vật của thời đại trong một bối cảnh xã hội cụ
thể phải đảm bảo cho được hai yếu tố cơ bản: Giá trò giáo dục – giáo dưỡng và
phù hợp với trình độ, nhận thức của học sinh. Sử dụng những chi tiết dù nhỏ trong
văn học như một câu thơ, một đoạn văn ngắn đúng lúc, đúng chổ thì nó sẽ trở

thành chất xúc tác trong việc khơi dậy hứng thú, say mê học tập của các em. Tuy
nhiên không nên quá lạm dụng kiến thức văn học bởi lạm dụng quá kiến thức văn
học sẽ biến giờ học sử thành giờ học văn, xa rời mục đích cũng như đặc trưng
riêng của bộ môn.
Tuy nhiên việc vận dụng các kiến thức văn học vào dạy học lòch sử ngoài
những ưu điểm và thuận lợi như nêu trên thì thường gặp khó khăn trong các loạt
bài về văn hoá – xã hội. Cái khó ở đây là học sinh đã nắm được vấn đề qua môn
văn nên tỏ ra thờ ơ, làm sao kéo được học sinh vào không khí lòch sử và chỉ cho
các em thấy được sự khác biệt giữa kiến thức văn học và kiến thức lòch sử. Bằng
cách sử dụng câu hỏi liên hệ đã phần nào khắc phục được tình trạng trên .
Dùng thơ, văn, đoạn trích … dù một chút thôi vào những lúc cần thiết sẽ có
tác dụng lớn lao trong dạy học lòch sử. Chính một chút ấy đã đánh thức, khơi lên
biết bao hoài cảm về ước mơ, góp phần cho việc hình thành nhân cách học sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm 20 Môn: Lòch sử
Trường THCS EaLê Thực hiện: Nguyễn Thò Hồng Lợi
Việc dạy học dùng thơ văn để giảng dạy lòch sử là rất quan trọng góp phần
bổ sung làm phong phú thêm nội dung bài học.
Qua đó tôi rất mong sự đóng góp ý kiến chân thành của đồng nghiệp để
sáng kiến của tôi được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn trong quá trình dạy môn
lòch sử ở cấp trung học cơ sở.
• Kiến nghò.
Để đạt hiệu quả tốt hơn khi sử dụng một số câu văn, thơ day học lòch sử giáo
viên cần sưu tầm và có chọn lọc.
Thực hiện phải linh hoạt, không bắt buộc.
Người Viết
Nguyễn Thò Hồng Lợi
Sáng kiến kinh nghiệm 21 Môn: Lòch sử

×