Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

TIẾP CẬN VĂN BẢN "RỪNG XÀ NU"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.38 KB, 8 trang )

Tiếp cận văn bản "Rừng xà nu" (Nguyễn Trung Thành)

Rừng xà nu
được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày
bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mĩ ở miền Nam nước ta. "Đó là
những ngày sôi sục, nghiêm trang, nghiêm trọng, lo lắng, quyết liệt,
hào hứng, hào hùng : dân tộc ta bước vào cuộc chạm trán mất còn
trực tiếp với đế quốc Mĩ"
(1)
. Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó
mấy năm nhưng truyện ngắn này đã tiếp được hơi thở hào hùng của
thời hiện đại và hiện thực được mô tả mang đậm ý nghĩa phổ quát.
Chuyện làng Xô Man trở thành chuyện của cả "Đất nước đứng lên"
trong cuộc đối đầu lịch sử.
Hình tượng lớn bao trùm toàn tác phẩm là hình tượng những
cây xà nu, rừng xà nu. Chính nó đã đem lại cho tác phẩm sức khái
quát lớn cũng như sự sinh động, chân thực như cuộc đời. Và trước
hết, nó khơi lên nguồn cảm hứng dạt dào ở người viết, trở thành
điểm tựa, điểm gợi tứ để nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất
nước và sức sống của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà có một
câu văn được lặp lại gần y nguyên đến hai lần ở phần đầu và phần
kết thúc tác phẩm : "Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm
mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân
trời". Đấy là một điệp khúc trầm hùng làm nền cho toàn bộ câu
chuyện. Tác giả chưa bao giờ để gián đoạn mạch kể về rừng xà nu.
Cây xà nu khi thì tách ra, khi thì hoà nhập với con người. Tả cây xà
nu, tác giả ưa dùng thủ pháp nhân hoá, còn khi nói về con người,
ông lại thường xuyên liên hệ, so sánh với cây xà nu. "Xà nu", "xà nu"
- tác phẩm trùng trùng điệp điệp những "xà nu" và đó chính là điểm
khá cơ bản qui định chất thơ hào hùng của nó (thơ, như có người
nhận xét, là một kết cấu trùng điệp đầy âm vang).


Hãy trở lại với đoạn đầu của truyện ngắn. Nhà văn đã đem
hết bút lực của mình ra để tả một khu rừng xà nu. Đấy không phải là
khu rừng xà nu chung chung, mà là khu rừng sát cạnh làng Xô Man,
kề bên con nước lớn (nguồn sống của con người) và lọt trong tầm
đại bác của đồn giặc. Ngay từ đầu, ta đã thấy rừng xà nu phải đối
diện với những thử thách ác liệt, dữ dội. Thương tích là không thể
tránh khỏi : "Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào bị
thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào
như một trận bão". Nhưng sức sống mãnh liệt của rừng xà nu mới là
điều tác giả muốn nhấn mạnh : "Trong rừng ít có loại cây sinh sôi
nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn
năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng
lên bầu trời". Chúng khoẻ vì chúng tha thiết với mặt trời : "Nó phóng
lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ
trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi
vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng". Thật là một đoạn miêu tả
sống động, giàu chất tạo hình nhưng không chỉ có ý nghĩa tả thực.
Rừng xà nu, đấy chính là một
ẩn dụ
về con người : con người đau
khổ, con người bất khuất, con người khao khát tự do, con người của
truyền thống anh hùng lớp trước lớp sau liên tục đứng lên bảo vệ
phẩm giá của mình Thêm nữa, rừng xà nu ở đây còn là một hình
ảnh
tượng trưng
, một
biểu tượng
cho con người Tây Nguyên, cho cả
một dân tộc hiệp sĩ : "Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra,
che chở cho làng". Trong hành động

ưỡn tấm ngực lớn
chứa đựng
bao nhiêu là kiêu hãnh, nó biểu thị một phẩm chất phóng khoáng,
hào hiệp và một hành động tự nguyện do xác định đúng vị trí đứng
đầu bão táp của mình. Để diễn tả một nội dung phong phú như vậy
qua hình tượng cây xà nu, tác giả đã sử dụng một giọng văn thiết
tha pha chút cường điệu. Nhiều lúc như không nén nổi những xúc
động đang tràn ngập vì yêu thương, vì khâm phục và cả vì kính trọng
nữa, nhà văn đã thốt những lời nhận xét trực tiếp, để lộ cái "tôi" của
mình : "Trong rừng có ít loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy",
"Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế". Hàng loạt động
từ, trạng từ gây cảm giác mạnh được huy động cho mục đích miêu
tả:
ào ào, ứa, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, gay gắt, bầm, ngã gục,
lao thẳng, phóng, vượt, ưỡn
v.v Đặc biệt, tác giả đã sử dụng rất
đắt cái nhìn của điện ảnh để cho sự vật hiện lên
động

nét
hơn.
ống kính của ông khi thì lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà nu,
khi lại rà sát, soi kĩ dáng vươn lên kiêu dũng của những vây xà nu
con. Có lúc tác giả quay chếch ống kính, để, trước mắt ta, màn ảnh
như chao đảo : một cảnh tượng tuyệt vời nên thơ, tráng lệ hiện ra :
"ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng
tắp "
Mạch cảm xúc đã được khơi lên. Hướng đi của ngòi bút đã
được hình dung. Điểm "neo" những ấn tượng và quan sát phong phú
về hiện thực đã được xác định với một cái làng cụ thể. Từ đây, toàn

bộ câu chuyện cứ thế mà tuôn chảy và hiện rõ trước mắt người viết,
người đọc mồn một từng chi tiết, từng hình ảnh.
Chuyện làng Xô Man được bắt đầu từ thời điểm hiện tại :
"Ba năm đi lực lượng bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng.
Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về". Đấy là những lời kể
cô đúc hé lộ một lịch sử và báo hiệu một đổi thay. Quả thực, làng Xô
Man đã đổi thay nhiều lắm so với ngày Tnú ra đi. Khắp núi rừng đâu
cũng có cạm bẫy sẵn sàng "chờ đón" quân thù. Một lớp người mới đã
trưởng thành đứng ra gánh vác công việc kháng chiến. Sinh hoạt
trong làng tươi vui và có qui củ. Tất cả toát lên một vẻ hồ hởi, tự tin,
khiến cho Tnú không khỏi có chút ngỡ ngàng. Phải nói rằng sự lựa
chọn thời điểm bắt đầu câu chuyện như thế là hết sức thích hợp. Tất
cả phải từ hôm nay và cho hôm nay, cũng y như mục đích kể chuyện
tại nhà ưng của cụ Mết. Đó là sự chuẩn bị tinh thần để bước vào một
thử thách to lớn mới. Những lời nhắc nhở trầm vang như tiếng
chiêng, cồng, của cụ Mết : "Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng
thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ" cũng chính
là lời nhắn gửi của tác phẩm đến độc giả, trước hết là độc giả của
thời kì lịch sử ấy.
Ra đời trong một thời điểm hào hùng của lịch sử, lại kể về
những sự việc có tầm vóc thời đại, giọng điệu trần thuật có màu sắc
anh hùng ca đã được sử dụng rất đắc địa. Lời kể của tác giả đã hoà
lẫn với lời kể cụ Mết và dòng hồi tưởng của Tnú một cách hết sức tự
nhiên. Cái bi tráng của một giai đoạn cách mạng cùng khí thế chiến
đấu bừng bừng của buôn làng Tây Nguyên ngày nổi dậy đã được tái
hiện với đúng "chất" của nó. Trên dải đất cao nguyên hùng vĩ này
từng có những ngày người dân sống nghẹt thở dưới ách áp bức,
khủng bố bạo tàn của Mĩ - Diệm. Khắp nơi đều có dấu vết tội ác của
chúng. Thiên nhiên bị tàn phá. Nhân dân bị chém giết. Chúng "đi
trong rừng như con beo" với những "lưỡi lê dính máu". Quả là chúng

đang làm chủ cả núi rừng, nhưng là cách làm chủ của beo sói. Khi kể
chuyện Tnú hồi nhỏ đi liên lạc bị giặc bắt, có đến ba lần tác giả nói
đến những vết dao trên lưng em. Đó là một chi tiết nghệ thuật tiêu
biểu tố cáo tội ác man rợ của kẻ thù. Ngay tấm lưng nhỏ bé, non trẻ
"rộng chưa bằng bề ngang cái xà lét mẹ để lại" dường như sinh ra để
cha mẹ vuốt ve cũng phải hứng chịu những sự vùi dập tàn bạo, phũ
phàng nhất. ở một đoạn khác, khi nói đến tình thế bị o ép dữ dội của
dân làng Xô Man trước ngày khởi nghĩa, tác giả đã có dụng ý mô tả
một loạt âm thanh kinh khủng, đó là tiếng cười sằng sặc, giần giật
của thằng Dục ác ôn, tiếng roi vun vút, tiếng gậy sắt nện
hừ hự

xuống thân người
Nhưng sự việc đã diễn ra theo đúng quy luật có áp bức có
đấu tranh, và một chân lí cách mạng dần dần được làm sáng tỏ :
"chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo".
Rừng xà nu
không chỉ
là chuyện làng Xô Man trong đau thương mà chủ yếu là chuyện làng
Xô Man đứng dậy. Tác giả đã rất thành công khi xây dựng chân dung
một tập thể anh hùng. Họ gồm những cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô
Dít, bé Heng , mỗi người mỗi vẻ nhưng đều giống nhau ở sự gan
góc, ở lòng trung thành với cách mạng. Sự gan góc, trung thành ấy
không biểu hiện ồn ào. Nó ít lời mà dồn nén biết bao dữ dội. Tnú bị
bắt, cụ Mết chỉ nói : "Tnú đừng làm xấu hổ làng Xô Man". Tnú trả lời
bằng một cái nhìn. Giặc cởi trói cho Tnú để em chỉ chỗ người cộng
sản, Tnú để bàn tay lên bụng mình, nói : " ở đây này". Rồi đôi mắt
của Mai, cái nhìn của Dít Rõ ràng đó là cái im lặng của những
người đã chịu nhiều đau khổ, cái im lặng đầy sức mạnh, đầy đe doạ
với quân thù, nó báo trước sự bùng nổ ghê gớm của lòng căm giận.

Trong tác phẩm còn có một đoạn rất đáng chú ý khác nói về sự dũng
cảm của Dít trước quân ác thú. Có thể nói trong khoanh khắc, Dít đã
lớn lên rất nhiều. Thoạt đầu, Dít khóc thét lên khi bị chúng bắn doạ.
Nhưng đến viên đạn thứ mười, Dít đã chùi nước mắt, bình thản nhìn
bon giặc. Đây là một chi tiết giàu tính tượng trưng. Không thể nói về
sự thay đổi đó của Dít như nói về một sự trấn tĩnh bình thường.
Trong tình thế khó khăn, con người phải tự lớn vượt lên, mau chóng,
nếu không sẽ bị đè bẹp. Dềnh dàng là chết. Điều đó đúng với cả làng
Xô Man, cả Tây Nguyên và cả với cách mạng miền Nam ngày ấy.
Trong nhiều nguyên nhân tạo nên sức quật khởi của làng Xô
Man mà tác giả đã có ý thức nêu lên, nguyên nhân thuộc về truyền
thống lịch sử đã được biểu hiện qua một hình tượng sinh động : cụ
Mết. Đúng như tác giả viết trong một bài hồi ức : "Ông là cội nguồn.
Là Tây Nguyên của thời
Đất nước đứng lên
còn trường tồn đến hôm
nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối
tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn
của các thế hệ sau"
(1)
. Để tả cụ Mết, tác giả thường mượn những đặc
tính của cây xà nu làm đối tượng so sánh : ngực cụ "căng như một
cây xà nu lớn", còn bàn tay "nặng như sắt" của cụ thì "sần sùi như
vỏ cây xà nu". Tiếng nói của cụ cũng thật đặc biệt : "nặng trịch", "ồ
ồ", "dội vang trong lồng ngực", tưởng như tiếng âm vọng của núi
rừng. Đúng là không thể hình dung nổi cuộc sống chiến đấu của
đồng bào các dân tộc Tây Nguyên là lại thiếu một hình ảnh như cụ
Mết. Riêng đối với phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm,
hình ảnh đó tạo nên màu sắc Tây Nguyên đậm đà trên từng trang
viết và tạo nên những điểm nhấn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề,

những điểm nhấn gắn liền với các câu nói mang ý nghĩa tổng kết,
giáo dục và kêu gọi của cụ : "Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ
lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con
cháu : chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo ! ". Có thể nói
thêm : nếu thiếu hình ảnh cụ Mết, tác phẩm sẽ thiếu đi một cơ sở
quan trọng để sử dụng cái giọng trầm hùng vang vọng rất sử thi như
nó đã có.
Nhiều đêm bên bếp lửa trong nhà ưng, cụ Mết đã kể cho con
cháu nghe chuyện về anh Tnú. Đó là câu chuyện của thời hiện tại
nhưng đã được lịch sử hoá bởi nó quá tiêu biểu cho hành trình số
phận của các dân tộc Tây Nguyên thời đánh Mĩ. Cuộc đời của Tnú
đã phải trải qua biết bao thử thách khốc liệt ngay từ thưở còn thơ.
Chính những thử thách ấy đã hun đúc nên một con người mang
nhiều phẩm chất tốt đẹp : gan dạ, trung thực, một lòng một dạ gắn
bó với cách mạng. Khi lớn lên, hạnh phúc riêng vừa mới nhóm đã bị
giày đạp phũ phàng : cả vợ lẫn con anh đã bị đánh chết ngay trước
mắt anh mà anh không làm gì đợc. Bản thân anh bị giặc bắt và bị
chúng đốt cụt mười đầu ngón tay. Từ nỗi đau thương và căm thù đó,
anh tham gia lực lượng quân giải phóng góp phần bảo vệ quê hương,
trở thành niềm tự hào của buôn làng, thành tấm gương cho cụ Mết
dùng để giáo dục thế hệ sau. Khắc hoạ nhân vật Tnú, tác giả rất chú
ý miêu tả hai bàn tay của anh - hai bàn tay biết kể với chúng ta về số
phận một con người. Nhìn chung, với nhân vật Tnú cũng như với hầu
hết các nhân vật khác, tác giả thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm
nổi bật nào đó của họ. Phải chăng ở đây có dấu vết của cách giới
thiệu nhân vật trong sử thi ? Dù sao đây cũng là một trong những
đặc điểm hình thức khá nổi bật của truyện ngắn này.

Rừng xà nu
là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ

được nhốt chặt trong một khuôn khổ hẹp. Niềm xúc động thiêng
liêng về hình ảnh kì vĩ của Tổ quốc giữa những ngày thử thách đã
thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một
tác phẩm rất cô đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những
cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác phẩm xuất sắc xứng tầm
với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng.
(Phan Huy Dũng)

×