GẶP VĂN CAO QUA BÀI THƠ “AI VỀ KINH BẮC”
Ai về Kinh Bắc
Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc
Tôi gửi nhờ đem hộ lá thư?
Trời hỡi! Ốm nằm trong quán trọ
Bạn bè còn lại mấy bài thơ…
Trông qua song cửa: trời vàng úa
Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu
Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống
Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa…
Hỡi người cưỡi ngựa về Kinh Bắc
Tôi gửi đưa thư hộ mẹ già
Cố thét song lời tôi yếu quá
Ngựa đều chân chạy, nhạc càng xa…
14.10.1941
Văn Cao
Tháng 11, năm 1994, tôi gặp Văn Cao ở Đại hội Hội Nhạc sĩ Việt
Nam. Ông ngồi ở hàng ghế thứ ba, già yếu, tóc bạc phơ, chùm
râu gầy thưa thớt. Rất nhanh, tâm trí tôi hiện lên bài thơ “Ai về
Kinh Bắc” - một trong những bài thơ tôi thích nhất của Văn
Cao. Giờ đây, khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy một chiều thu bàng
bạc, xa xăm, xót xa buồn:
Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc
Tôi gửi nhờ đem hộ lá thư?
Trời hỡi! Ốm nằm trong quán trọ
Bạn bè còn lại mấy bài thơ…
Cái nỗi tê tái day dứt lòng ấy như một nỗi ám ảnh, nó đã theo tôi suốt
những ngày cô đơn nhất, buồn bã nhất, và những khi kiệt sức
vì đau ốm, trời ơi… tôi càng thấy thấm thía, càng thấy xót xa
cho thân phận của con người:
Trời hỡi! Ốm nằm trong quán trọ
Bạn bè còn lại mấy bài thơ…
Tha thiết, mong mỏi đến cháy lòng. Trong lúc cô đơn nhất, yếu đuối
nhất, thì nơi người ta mòn mỏi trông về là đâu kia? Là Kinh
Bắc, là Quê Hương, là Mẹ! Tôi thấy một cậu trai 18 tuổi, chống
trả với cơn bệnh, với cô đơn, mà thu thì buồn lắm, hoang vu
lắm…
Trông qua song cửa: trời vàng úa
mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu
chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống
Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa…
Một bức tranh tĩnh vật buồn đến lịm người với màu vàng úa là màu
chủ đạo. Người ốm, trời chiều cũng ốm. Cảnh vật chỉ gợi lên
thêm nỗi nhớ nhà. Tôi cảm thấy mùa thu là mùa tri kỷ với nỗi
buồn của Văn Cao, không những trong thơ ông mà còn trong
âm nhạc và hội hoạ. Ta dễ dàng đồng cảm với nỗi buồn diệu
vợi, day dứt mà say đắm trong bài hát “Suối mơ” của ông:
Suối mơ bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Đẹp quá! Đẹp đến rợn người. Trong cái đẹp đó, lẩn khuất một nỗi
buồn, nỗi buồn trong sáng, đầy hy vọng. Văn Cao - thi sĩ ngắm
nhìn cảnh vật bằng đôi mắt hoạ sĩ và hát lên bằng tâm hồn
nhạc sĩ. Trong âm nhạc, hội hoạ và thi ca của ông, cái này ẩn
chứa, mang dáng dấp của hai cái kia:
Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống
Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa…
Có lẽ, đây là hai câu tuyệt bút của bài thơ. Nó đầy đủ nhất, đặc sắc
nhất. Nhiều khi buồn quá, tôi cũng chỉ đọc lên hai câu trên thôi
để rồi ngồi buồn hơn, ngồi bất động. Từng chữ, từng âm điệu
như một thứ rượu, ngấm sâu vào phủ tạng, đập phá đến rã rời.
Tôi lại thấy cậu trai ấy, ngồi bó gối trên giường nhìn ra cửa sổ,
thoáng nét vui mừng khi nghe thấy tiếng nhạc ngựa…. Rồi
vùng đến bên cửa sổ, gọi với ra bằng chút sức lực còn sót lại,
hy vọng, mừng rỡ, xúc động, run rẩy, hồi hộp, sung sướng:
Hỡi người cưỡi ngựa về Kinh Bắc
Tôi gửi đưa thư hộ mẹ già
Nhưng
Cố thét song lời tôi yếu quá
Ngựa đều chân chạy, nhạc càng xa…
Hẫng hụt. Sụt lở. Thất vọng. Tôi thấy cậu trai thõng bàn tay xuống,
gục đầu vào song cửa. Niềm hy vọng xa dần, tắt ngấm. Bao
giờ đọc đến đây, tôi đều nghẹn ngào muốn khóc. Tôi thấy tôi bị
nỗi cô đơn, bệnh tật, phiền muộn… bủa vây, giam hãm. Mối
liên hệ với thiên nhiên, với sự sống bên ngoài chỉ là một ô cửa
sổ. Song, ô cửa ấy gợi cho ta nỗi hy vọng, niềm khao khát tự
do nhưng không giúp gì ta được. Nó không còn là cái cửa sổ
đơn thuần nữa, mà trở thành sự thử thách. Nó thôi thúc ta kiên
nhẫn, và cũng chính nó ngăn cản, bắt ta nản lòng.
Mỗi lần gặp Văn Cao, trong mắt tôi ông không phải là một ông già
lưng còng chống gậy, mà là một cậu trai trẻ với nối lòng xa xứ.
Cậ trai mang trong mình giai điệu của âm nhạc, màu sắc,
đường nét của hội hoạ, ngôn từ của thi ca. Thời gian và tài
năng đã pha trộn tất cả với nhau, để chúng ta có được một Văn
Cao nhạc sĩ, hoạ sĩ và thi sĩ bây giờ.
Phân thân trong ba thể loại nghệ thuật riêng biệt, song Văn Cao đã
hoà chúng với nhau, nhóm lên một nỗi khao khát. Phảng phất
những nỗi buồn đẹp, những day dứt, xót xa lộng lẫy, trong
sáng, sang trọng, chúng cháy âm ỉ trong ông và trong tác phẩm
của ông. Tôi xem Văn Cao như một người mở đường can đảm,
ông bình thản, ung dung, kiêu bạc đi qua khổ đau, tuyệt vọng,
buồn chán, sầu muộn của con người và phát quang chúng
bằng con – dao – hy - vọng. Niềm đam mê, khao khát của ông
về cái đẹp, về con người, vẫn đập trong ông suốt bao năm qua.
Giờ đây, dù ông đã không còn, nhưng nếu có bất cứ điều gì gợi nhớ
đến Văn Cao, tôi lại thấy một cậu trai trẻ ngồi bên cửa sổ, đợi
chờ và không nguôi hy vọng.
Hà Nội 08.06.1996