Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Viêm gan Virut C (Kỳ 2) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.21 KB, 5 trang )

Viêm gan Virut C
(Kỳ 2)
2. Xét nghiệm:
Ðề nghị bác sĩ khám sàng lọc HCV nếu bạn nghĩ mình đã tiếp xúc với virus
hoặc có nguy cơ bị bệnh. Nếu bạn được truyền máu trước 1992 từ một người cho
mà sau đó người này có xét nghiệm HCV(+), bạn có thể được nhận thư của bệnh
viện hoặc ngân hàng máu đề nghị bạn đi khám sàng lọc.
Ðề nghị bác sĩ khám sàng lọc HCV nếu bạn nghĩ mình đã tiếp xúc với virus
hoặc có nguy cơ bị bệnh. Nếu bạn được truyền máu trước 1992 từ một người cho
mà sau đó người này có xét nghiệm HCV(+), bạn có thể được nhận thư của bệnh
viện hoặc ngân hàng máu đề nghị bạn đi khám sàng lọc.
Viêm gan C có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm máu. Ngoài xét
nghiệm máu, bác sĩ lập hồ sơ bệnh án và khám thực thể. Bác sĩ cũng có thể khuyên
bạn sinh thiết gan, một thủ thuật tương đối ít đau trong đó người ta lấy ra một mẫu
nhỏ mô gan để phân tích dưới kính hiển vi.
Trước khi sinh thiết, bạn sẽ được gây tê. Sau đó bác sĩ chọc một kim nhỏ
vào gan của bạn để lấy mẫu mô. Sinh thiết gan là an toàn và không gây biến
chứng, mặc dù có thể đau hoặc chảy máu một chút sau đó.
Mặc dù sinh thiết không nhất thiết khẳng định chẩn đoán, nó có thể giúp
xác định mức độ nặng của bệnh. Nó cũng giúp loại trừ các nguyên nhân khác gây
bệnh gan, như viêm gan do rượu hoặc do thuốc, bệnh gan tự miễn hoặc thừa sắt
(bệnh nhiễm sắc tố sắt mô bẩm sinh).
IV. Biến chứng :
15-20% người bị nhiễm viêm gan C tự tiêu diệt được virus này mà không bị
tổn thương gan. Với số còn lại, bệnh định cư và tấn công gan một cách chậm chạp.
Khoảng 85% số người nhiễm HCV bị viêm gan mạn tính. 20% bị xơ gan, thường
trong vòng 20 năm đầu sau khi nhiễm. Trong số những người bị xơ gan, một nửa
tiến triển thành bệnh gan giai đoạn cuối hoặc ung thư gan.
Các chuyên gia y tế dự báo tử vong do viêm gan C có thể vượt qua số tử
vong do AIDS ở Mỹ. Hiện nay, mỗi năm có khoảng 10000 người chết mỗi năm vì
HCV, nhưng con số này ước tính sẽ tăng gấp 3 vào năm 2010. Tuy nhiên, khả


năng sống sót là cao. Hiện nay, hơn 99% số người HCV sống.
V. Ðiều trị :
Chẩn đoán HCV không có nghĩa là bạn phải điều trị. Viện Y tế Quốc gia
Mỹ (NIH) khuyên nên điều trị HCV nếu có:
Chẩn đoán HCV không có nghĩa là bạn phải điều trị. Viện Y tế Quốc gia
Mỹ (NIH) khuyên nên điều trị HCV nếu có:
Xét nghiệm ARN HCV (+), chứng tỏ có virus trong máu.
Sinh thiết cho thấy tổn thương gan đáng kể
Tăng nồng độ men gan analin aminotransferase trong máu.
Cho dù vậy, các bác sĩ vẫn đang tranh cãi về đối tượng cần điều trị. Nếu
bạn chỉ có bất thường gan nhẹ, bác sĩ có thể quyết định không điều trị vì nguy cơ
lâu dài bị bệnh nặng là rất thấp, và tác dụng phụ của điều trị có thể rất nghiêm
trọng.
Mặt khác, vì chưa có cách rõ ràng để biết liệu bạn có bị bệnh gan sau đó
hay không, bác sĩ của bạn có thể chọn cách chống lại virus. Nhiều phương pháp
điều trị cải tiến và tỷ lệ thành công cao hơn trong việc chống lại viêm gan đôi lúc
kiến bác sĩ nghiêng về những phương pháp tích cực hơn.
Cho tới nay, vũ khí tốt nhất để chống lại viêm gan C là interferon, một
thuốc ức chế sự nhân lên của virus. Các thuốc interferon dùng để điều trị viêm gan
gồm interferon alfa-2b (Intron A), interferon alfa-2a (Roferon-A) và interferon
alfacon-1 (Infergen). Nhưng interferon chỉ có tác dụng ở khoảng 20% số trường
hợp.
Hiện nay, tiêm interferon thường được phối hợp với uống ribavirin
(Virazole) - một thuốc kháng virus phổ rộng. Ðiều trị thường mất từ 6 tháng đến 1
năm và thành công ở khoảng 40% số người bị HCV.
Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy một thuốc khác, interferon pegyl hóa
(PEG), có hiệu quả gấp hai lần interferon thông thường. Vào tháng 1 năm 2001,
Cơ quan Quản lý Thuốc và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã cho phép dùng PEG
interferon - peginterferon alfa-2B (PEG-Intron) - để điều trị viêm gan C.
Tác dụng phụ của điều trị thuốc gồm các triệu chứng giống như cúm nặng

do interferon và giảm hemoglonbin nhất thời (thiếu máu), giảm bạch cầu hoặc tiểu
cầu trong máu. Tác dụng phụ lâu dài - xảy ra ở khoảng một nửa số người điều trị
interferon và ribavirin - gồm cực kỳ mệt mỏi, lo âu, dễ kích động và trầm cảm. Có
một tỷ lệ nhỏ bị loạn thần hoặc có hành vi tự sát.
Vì lý do này, không nên điều trị bằng interferon nếu có tiền sử trầm cảm
nặng bị bệnh tuyến giáp chưa được điều trị, thiếu máu hoặc bị bệnh tự miễn,
nghiện rượu hoặc ma tuý.
Không may là, nếu điều trị không có hiệu quả hoặc bạn không thể dung nạp
được tác dụng phụ, có rất ít cách lựa chọn khác. Nhưng các nhà khoa học đang
nghiên cứu việc sử dụng các chất ức chế protease ở người viêm gan C. Ðây cũng
là những thuốc điều trị cho người nhiễm HIV. Trong tương lai, cũng có thể điều trị
HCV bằng liệu pháp gen.
VI. Phòng bệnh:
Vì hiện chưa có vaccin viêm gan C. Cách duy nhất để bảo vệ bạn là tránh bị
nhiễm virus. Ðiều này có nghĩa là cần làm theo các chỉ dẫn sau:
Vì hiện chưa có vaccin viêm gan C. Cách duy nhất để bảo vệ bạn là tránh bị
nhiễm virus. Ðiều này có nghĩa là cần làm theo các chỉ dẫn sau:
Tránh sinh hoạt tình dục không an toàn với nhiều người hoặc với một người
chưa rõ về tình trạng sức khỏe.
Không dùng chung kim tiêm hoặc các dụng cụ dùng ma tuý khác. Các dụng
cụ dùng ma tuý nhiễm bẩn gây ra khoảng một nửa số trường hợp viêm gan C mới.
Tránh hít cocain
Tránh xỏ lỗ hoặc xăm mình trừ khi chắc chắn là dụng cụ đã tiệt trùng.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×